Tuesday, February 27, 2018

Làm bộ trưởng ở Việt Nam có dễ không?

Cập nhật: Chiều nay 28-2, nguồn tin từ Hội đồng Chức danh giáo sư Nhà nước (HĐCDGSNN) cho biết trong số 1.226 hồ sơ đủ điều kiện được công nhận chức danh GS, PGS năm 2017 sau khi rà soát lại theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, HĐCDGSNN trong cuộc họp tới tối khuya ngày 27-2 đã tạm để lại 129 hồ sơ GS, PGS của tất cả các ngành, trong đó có 29 hồ sơ (9 GS và 20 PGS) của ngành y tế. 

Hồ sơ GS của Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Thị Kim Tiến nằm trong danh sách 29 hồ sơ GS, PGS mà HĐCDGSNN tạm để lại xem xét.


Nếu dùng bà bộ trưởng Y tế để làm hình mẫu so sánh, thì câu trả lời là: Ở Việt Nam, làm bộ trưởng là nghề nhàn hạ nhứt.

Bởi nếu không nhàn hạ, thì chắc chắn bà bộ trưởng sẽ chẳng còn thời gian đâu mà cùng lúc kham quá nhiều công việc được GS Phạm Gia Khánh, Chủ tịch Hội đồng Chức danh giáo sư ngành y tế, nguyên giám đốc Học viện Quân y, liệt kê ra như sau.

Bà bộ trưởng đào tạo 3 tiến sĩ, 4 thạc sĩ lấy bằng và đang đào tạo 3 nghiên cứu sinh.

Bà tham gia giảng dạy tại ĐH Y Dược TP HCM, kiêm chủ nhiệm 2 bộ môn, giảng dạy tại Viện Dinh dưỡng Quốc gia. Bà bộ trưởng cũng có 2 cuốn chuyên khảo, 3 giáo trình, 3 sách tham khảo và 2 sách hướng dẫn.

Về nghiên cứu khoa học, bà bộ trưởng chủ trì 2 đề tài cấp Nhà nước, số đề tài cấp bộ đã nghiệm thu là 6, cùng 15 đề tài cấp cơ sở.

Bà bộ trưởng Y tế có 91 bài báo khoa học, 14 bài đăng trong tạp chí quốc tế ISI.

GS Phạm Gia Khánh cho biết thêm bà bộ trưởng Y tế còn thỉnh giảng 2 nhiệm kỳ của ĐH Oxford, Anh.


Khen bà quá giỏi, còn vì một ngày chỉ có 24 tiếng đồng hồ.



Sunday, February 25, 2018

ĐỐT VÀNG MÃ LÀ TÍN NGƯỠNG THỜ CÚNG TỔ TIÊN


Theo truyền thống xưa, sau khi mời Tổ tiên về dự 3 ngày Tết với con cháu vào ngày 30 Tết (nếu tháng thiếu thì vào ngày 29 Tết), đến ngày mùng 3 Tết hoặc ngày khai hạ mồng bảy Tết, là ngày cuối cùng, tiệc xuân đã mãn, con cháu lại cáo lễ để tiễn đưa Tổ tiên trở về âm cảnh.

Lễ này, tục gọi là “đưa ông bà”, lễ hóa vàng/ đốt giấy tiền vàng bạc (hàng mã) cho Tổ tiên, hay lễ tạ năm mới.

Theo GS sử học Lê Văn Lan, mùng 3 vẫn là ngày Tết thầy, nên để tổ tiên vẫn ở lại ăn Tết với con cháu. Mùng 4 và mùng 5 mới là ngày tiễn các cụ về cõi vĩnh hằng.

GS Lan cho biết, tục hoá vàng/ đốt giấy tiền vàng bạc dựa trên tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, vật hoá vàng thường gắn với đời sống thường nhật, để thấy con người ở thế giới bên kia sống gần với dương gian. Tục này nhằm cung cấp cho người đã khuất tiền, quần áo (giấy), gậy đi đường (cây mía).

"Các cụ về trời chỉ cần ít quần áo, vật dụng đi đường cùng 5-10 nghìn đồng", ông Lan bày tỏ.

Theo một số chuyên gia văn hóa phương Đông, việc chọn ngày làm lễ hóa vàng/ đốt giấy tiền vàng bạc tùy thuộc vào mỗi gia đình, chủ yếu từ mùng 3 đến khoảng mùng 10 Tết Nguyên đán. Điều quan trọng nhất là phải có lễ tạ gia tiên, gia thần và chư vị thánh thần, phật. Theo quan niệm dân gian, có lễ tạ thì tấm lòng của chủ nhà mới được người âm chứng giám.

Sau khi lễ, các gia chủ sẽ hóa vàng/ đốt giấy tiền vàng bạc. Phần tiền, vàng của gia thần phải hóa trước, tiền vàng, đồ dùng của tổ tiên hóa sau.

Tục xưa, tại nơi đốt vàng mã, người ta thường đặt vài cây mía dài. Dân gian cho rằng đây là đòn gánh để các linh hồn dùng làm gậy chống, hay mang hàng hóa.

Hóa vàng hay còn gọi là lễ tạ theo dân gian đây là một dạng dâng cúng vật chất cho thần linh. Bởi không thể dùng tiền thật để đốt, nên con người phải nhờ đến tiền vàng mã với những hình tròn, hình vuông giống hình tiền.

Tiền âm, vàng mã cũng phải được chuẩn bị chu đáo để ông bà có hành trang, lộ phí để lên đường.


...

Công văn số 31 của Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam do Hoà thượng Thích Thanh Nhiễu, phó chủ tịch thường trực Trung ương Giáo hội Phật giáo Việt Nam ký.

Nội dung đề nghị Ban thường trực Ban trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hướng dẫn chư tôn tăng ni trụ trị các tự viện (bao gồm: chùa, tổ đình, tịnh xá, thiền viện, tu viện, tịnh viện, tịnh thất, niệm phật đường):

"Đề nghị chư tôn đức tăng ni nêu cao tinh thần Bồ tát đạo, hướng dẫn đồng bào Phật tử và bà con loại bỏ mê tín dị đoan, đốt vàng mã tại các cơ sở thờ tự Phật giáo và các hình thức khác trái với thuần phong mỹ tục, văn hóa dân tộc và văn hóa Phật giáo Việt Nam".

Hình như việc ì sèo truyền thông Công văn số 31 là có một kịch bản nhằm muốn 'che giấu' vụ việc gì đó sắp xảy ra... Bởi có ai mang vàng mã vào chùa để đốt đâu chứ...

Friday, February 23, 2018

Lễ khai hạ - cầu an ở Lăng Ông Bà Chiểu



Lễ khai hạ - cầu an cho một năm mới mưa thuận, gió hòa với mở đầu bằng nghi thức hạ nêu đã diễn ra vào sáng mồng 7 tết Mậu Tuất tại khuôn viên Lăng Đức Tả quân Lê Văn Duyệt. 

Buổi lễ có sự tham dự của các viên chức chính quyền, của cư dân vùng Gia Định, cùng bà con xứ Long Hưng, Châu Thành, Tiền Giang nơi sinh trưởng của Đức Tả quân. Đây là hoạt động thường niên theo phong tục truyền thống đã được duy trì trong suốt 200 năm qua tại Lăng Ông.

Người Sài Gòn mỗi dịp đầu năm, thường giữ tục lệ đón giao thừa và xin lộc tại Lăng Ông Bà Chiểu, tức lăng Đức Tả Quân Lê Văn Duyệt, tổng trấn Gia Định Thành thưở tiền nhân mở cõi về phương Nam. Sử chép danh tướng Lê Văn Duyệt, một trong những vị khai quốc công thần triều Nguyễn,  không chỉ có tài chinh đông dẹp tây mà còn là một ông quan thanh liêm rất mực, hết lòng vì dân vì nước. 

Những ai từng sinh ra và lớn lên ở Sài Gòn, những người vào thành phố Hồ Chí Minh lập nghiệp sau này, có lẽ không người nào mà không biết đến Lăng Ông Bà Chiểu với những tương truyền về uy danh và sự linh hiển của ngài Tả Quân Lê Văn Duyệt. Với nghi thức khai hạ - cầu an ngày mồng 7 tết đã góp phần lưu giữ một hoạt động đẹp về tín ngưỡng truyền thống của dân tộc.

Thursday, February 22, 2018

Luật riêng dành cho quan chức



Từ tháng 11-2016 đến nay, với sự kiện cách hết các chức vụ chính quyền và đảng của ông Vũ Huy Hoàng trong thời gian là Bộ trưởng Bộ Công thương, có vẻ từ tiền lệ “kỷ luật cách chức áp dụng cho người không còn cái chức ấy” đang được vận dụng rộng rãi hơn. Như trường hợp ông Lê Phước Thanh là bí thư Quảng Nam nhiệm kỳ 2010-2015, thì nay (2018) đâu còn chức “bí thư” nữa mà bị cách chức?

Hiện tại và theo lẽ thông thường, theo quy định của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội và tại Bộ luật lao động, thì khi đối tượng vi phạm kỷ luật, vi phạm quy chế ... có thể bị áp dụng hình thức kỷ luật cách chức đối với chức vụ mà người đó đang nắm giữ. Nhưng hiện chưa thấy có văn bản chính thức nào giải thích về vấn đề cách chức khi chức vụ không còn.

Bộ Chính trị có phải là… Nhà nước?

Nếu căn cứ theo Hiến pháp và hệ thống văn bản pháp quy, thì Bộ Chính trị chưa bao giờ là cơ quan Nhà nước. Mang tên là Bộ Chính trị, nhưng không có ai làm bộ trưởng, thứ trưởng. Tuy nhiên các chính sách về lương bỗng thì Bộ chính trị vẫn nhận lương từ ngân sách của Chính phủ giống như tất cả các bộ khác trong bộ máy công quyền.

Hiến pháp 2013, Điều 2.3 “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Như vậy, nếu căn cứ theo luật định, ông Vũ Huy Hoàng không thể bị cách chức Bộ trưởng Bộ Công thương, vì ông Hoàng chịu sự quản lý của Thủ tướng Chính phủ. Ông Lê Phước Thanh có thể bị Bộ Chính trị cách chức, vì ông này chỉ làm mỗi công tác của Đảng, và vẫn hưởng lương từ ngân sách của Chính phủ.

Có hồi tố tiền lương và bổng lộc?

Trong trường hợp ông Vũ Huy Hoàng, hàng loạt câu hỏi đặt ra từ tháng 11-2016 cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời: Thứ nhứt, các văn bản mang tính pháp lý tại Việt Nam và đàm phán thỏa thuận quốc tế mà ông Vũ Huy Hoàng ký với chức danh Bộ trưởng Bộ Công thương, có trở nên “vô hiệu”? Thứ hai, các khoản lương, bảo hiểm, công tác phí cho Bộ trưởng Vũ Huy Hoàng sẽ do ai trả lại cho ngân sách quốc gia? Thứ ba, trong lý lịch tư pháp, ông Vũ Huy Hoàng sẽ ghi ra sao?

Ba câu hỏi nói trên cũng dành cho hàng loạt quan chức tiếp theo: tháng 4 năm 2017, Ban Bí thư tước bỏ chức vụ Ủy viên Ban Cán sự Đảng Bộ Tài nguyên - Môi trường mà các ông Nguyễn Thái Lai và Bùi Cách Tuyến đã… từng mang từ năm 2011 đến 2016; tước bỏ hàm Thứ trưởng Bộ Tài nguyên – Môi trường của ông Lai, ông Tuyến từng mang từ 2011 đến 2015.

Tương tự, ông Võ Kim Cự bị tước bỏ chức vụ Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, Phó Bí thư, Bí thư Tỉnh ủy Hà Tĩnh mà ông ta đã mang từ 2005 đến 2015. Ngoài ra ông Cự còn bị tước bỏ chức vụ Phó Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh mà ông từng mang từ 2005 đến 2010 và chức vụ Chủ tịch tỉnh Hà Tĩnh mà ông từng mang từ 2010 đến 2015. Trong trường hợp ông Võ Kim Cự, 3 thắc mắc trên cần thiết có ngay câu trả lời, vì việc cho phép Formosa đầu tư gây ô nhiễm ở Hà Tĩnh là do bút phê của ông Võ Kim Cự.

Ban Bí thư chậm chạp hay là những đòn thù quyền lực?

Câu hỏi đặt ra là tại sao đến bây giờ Ban Bí thư mới thấy chuyện ông Lê Phước Thanh sử dụng hệ thống công quyền ở Quảng Nam để tạo điều kiện cho con trai của ông “luồn sâu, leo cao” là “vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm việc và các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ”? Tại sao đến bây giờ Ban Bí thư mới thấy vi phạm của ông Thanh là “rất nghiêm trọng” và “ảnh hưởng xấu đến uy tín của tổ chức Đảng”? Tại sao đến bây giờ Ban Bí thư mới nghe được “dư luận xấu trong cán bộ, đảng viên, nhân dân”?

Phải chăng là năng lực tiếp cận, điều tra các vụ việc tiêu cực ở Ban Bí thư chịu sự giới hạn?

Ngày 3-1-2018, ông Trần Quốc Vượng – Chủ nhiệm Ủy ban Kiểm tra Trung ương Đảng, ký ban hành Quyết định 684-QĐ/UBKTTW ban hành Quy trình tiến hành công tác kiểm tra và thi hành kỷ luật đảng của Ủy ban Kiểm tra Trung ương. Thông tin trong quyết định này bắt đầu được công khai từ ngày 9-2-2018, mặc dù hiệu lực thi hành tính từ ngày ký.

Cụ thể là các quy trình: Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới khi có dấu hiệu vi phạm; kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới thực hiện nhiệm vụ kiểm tra, giám sát; kiểm tra việc thi hành kỷ luật đảng; xem xét, thi hành kỷ luật đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và cấp ủy viên cấp dưới trực thuộc Trung ương theo đề nghị thi hành kỷ luật; xem xét, thi hành kỷ luật đảng viên thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý hoặc cấp ủy viên cấp dưới trực thuộc Trung ương theo kết luận kiểm tra; kiểm tra, đề nghị thi hành kỷ luật đảng viên thuộc thẩm quyền của Ban Bí thư, Bộ Chính trị do cấp ủy trực thuộc Trung ương đề nghị; giải quyết tố cáo đối với tổ chức đảng trực thuộc Trung ương; giải quyết tố cáo đối với đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý; giải quyết khiếu nại kỷ luật đảng đối với đảng viên; kiểm tra tài chính của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp; kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới; kiểm tra tài chính đối với các cơ quan, đơn vị sự nghiệp và doanh nghiệp trực thuộc cơ quan tài chính đảng ở Trung ương.

Quyết định số 1084-QĐ/UBKTTW ngày 5/12/2012 mà Quyết định 684-QĐ/UBKTTW thay thế, rất tiếc người viết không tìm được, nên vẫn không rõ quy trình kỷ luật ông Vũ Huy Hoàng và hàng loạt quan chức tiếp theo đó như thế nào.

Đến nay, vẫn chưa đúng pháp luật

Tuy nhiên, có thể thấy rằng – như lời ông Nguyễn Hạnh Phúc phát biểu trên báo Dân Trí: “Tôi có thể nói đến giờ phút này Ban Bí thư giao cho Ban Cán sự Đảng Chính phủ phối hợp với Đảng đoàn Quốc hội nghiên cứu quy trình kỷ luật với ông Vũ Huy Hoàng. Đây là việc rất khó vì hiện ông Hoàng là Bộ trưởng Công thương của khoá trước, đã được Quốc hội khoá trước (khoá XIII) miễn nhiệm nên đến nay ông Hoàng không còn giữ chức vụ Bộ trưởng nữa.

Không còn chức vụ thì cần phải giao cho các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội nghiên cứu quy định về mặt pháp luật thế nào, quy trình thế nào để xử lý kỷ luật. Việc này đang được giao cho những cơ quan giúp việc cho Quốc hội, Chính phủ nghiên cứu về tính pháp lý để đảm bảo căn cứ khi trình ra Quốc hội xem xét. Việc xử lý một người không còn chức vụ Bộ trưởng nữa, Quốc hội đã miễn nhiệm rồi thì phải làm sao đảm bảo đúng pháp luật. Cần phải làm chặt chẽ vì kỷ luật nghiêm minh nhưng phải đúng pháp luật”. [http://dantri.com.vn/chinh-tri/chua-co-tien-le-phai-cach-chuc-nguoi-khong-con-chuc-vu-nhu-ong-vu-huy-hoang-2016110416530749.htm]

Từ đó đến nay, chưa thấy có văn bản chính thức nào giải thích, hay đưa ra cơ sở lý luận về việc cách chức khi chức vụ không còn. Chính vì vậy rất nhiều người, trong đó có người viết, cảm thấy mù mờ, chưa hiểu.

Phải chăng khi có những quan chức không phải là Đảng viên thì sẽ không có cảnh “cách chức khi chức vụ không còn”, mà tất cả sẽ tuân thủ theo đúng nguyên tắc là mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, như Hiến định tại Điều 14.1 Hiến pháp 2013: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”.


Quân nổi dậy đã tàn sát người dân Huế vào 50 năm trước là ai?


Nếu như đoàn làm phim đã gian dối, vậy thì ai đã tàn sát người dân Huế ở Tết Mậu Thân 1968?

Trưa thứ Bảy, 10/02/2018 lúc 11g31, báo điện tử Dân Việt phát hành bài viết tựa đề “Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường: Lời cuối cho câu chuyện buồn”. [https://goo.gl/aJQ8d6]. Cũng trong ngày thứ Bảy này, trên trang fb của Nguyễn Quang Lập, đăng cùng nội dung với báo Dân Việt.

Dư luận dậy sóng, có lẽ từ lời tuyên bố chắc nịch của ông Nguyễn Quang Lập: “Cho tới một ngày tôi được xem clip phát tán trên mạng về bản gốc cuộc phỏng vấn của đoàn làm phim “Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình”. Thú thật tôi sốc rất nặng. Anh Tường nói những gì tôi có thể hiểu, anh muốn gửi thông điệp của anh tới ai tôi cũng hiểu, nhưng cái “liếm môi huyền thoại” và ánh mắt láo liên của anh trước cuộc phỏng vấn thì tôi không thể hiểu nổi.

Biết anh đã hết sức bối rối khi đứng giữa sự thật và “ý đảng”, tổ chức mà anh đang nguyện phấn đấu, dù thế nào hành vi ấy cũng thật đáng ngờ. Từ đó tôi lẳng lặng tìm kiếm sự thật, để nếu anh Tường đúng là kẻ sát nhân như đồn đại thì tôi sẽ ỉa vào mặt anh và bỏ ra Hà Nội không thèm làm phó cho anh, cũng chẳng chị em kết nghĩa với chị Dạ gì nữa. Ba mạ tôi làm điều ác tôi cũng không tha thứ, đừng nói anh Tường.

Mặc dù vậy, càng tìm hiểu tôi càng thấy anh Tường vô tội. Lý do thật đơn giản là anh Tường không có mặt ở Huế mậu thân 1968. Anh cũng chẳng có một cái quyền chỉ huy từ xa nào dù nhỏ. Nghĩa là anh Tường vô can mọi sự xảy ra ở Huế trong suốt thời gian xảy ra chiến dịch mậu thân 1968. Tội lớn nhất của anh Tường là ở cái clip kia. Nói cách khác, không có cái clip kia thì anh Tường không có tội gì hết”. [https://goo.gl/RptZs2]

Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường chỉ gian dối có một lần đó thôi về Mậu Thân (!?)

Bài viết thể loại tự sự “Nhà thơ Hoàng Phủ Ngọc Tường: Lời cuối cho câu chuyện buồn”, có đoạn: “Sai lầm của tôi là nhận lời ông Burchett và đoàn làm phim "Việt Nam một thiên lịch sử truyền hình” trả lời phỏng vấn với tư cách một nhân chứng Mậu Thân Huế 1968, trong khi tôi là kẻ ngoài cuộc.

Để chứng tỏ mình là người trong cuộc, tôi đã dùng ngôi thứ nhất- “tôi”, “chúng tôi” khi kể một vài chuyện ở Huế Mậu Thân 68. Đó là những chuyện anh em tham gia chiến dịch kể lại cho tôi, tôi đã vơ vào làm như là chuyện do tôi chứng kiến. Đặc biệt, khi kể chuyện máy bay Mỹ đã thảm sát bệnh viên nhỏ ở Đông Ba chết 200 người, tôi đã nói: “Tôi đã đi trên những đường hẻm mà ban đêm tưởng là bùn, tôi mở ra bấm đèn lên thì toàn là máu... Nhất là những ngày cuối cùng khi chúng tôi rút ra...”. Chi tiết đó không sai, mà sai ở chỗ người chứng kiến chi tiết đó không phải là tôi, mà là tôi nghe những người bạn kể lại. Ở đây tôi là kẻ mạo nhận, một việc rất đáng xấu hổ, từ bé đến giờ chưa bao giờ xảy ra đối với tôi...”.

Cũng bài này, trên trang fb của ông Nguyễn Quang Lập, còn có đoạn tiếp theo: “Cũng trong cuộc trả lời phỏng vấn này, khi nói về thảm sát Huế tôi đã hăng hái bảo vệ cách mạng, đổ tội cho Mỹ. Đó là năm 1981, khi còn hăng say cách mạng, tôi đã nghĩ đúng như vậy. Chỉ vài năm sau tôi đã nhận ra sai lầm của mình.  Đó là sự nguỵ biện. Không thể lấy tội ác của Mỹ để che đậy những sai lầm đã xảy ra ở Mậu thân 1968.

Tôi đã nói rồi, nay xin nhắc lại:

Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.


“Quân nổi dậy” ở Huế là ai?

Ông Hoàng Phủ Ngọc Tường viết: “Điều quan trọng còn lại tôi xin ngỏ bầy ở đây, với tư cách là một đứa con của Huế, đã ra đi và trở về, ấy là nỗi thống thiết tận đáy lòng mỗi khi tôi nghĩ về những tang tóc thê thảm mà nhiều gia đình người Huế đã phải gánh chịu, do hành động giết oan của quân nổi dậy trên mặt trận Huế năm Mậu Thân. Đó là một sai lầm không thể nào biện bác được, nhìn từ lương tâm dân tộc, và nhìn trên quan điểm chiến tranh cách mạng”.

Như vậy thì “quân nổi dậy” mà ông Tường cho rằng đó mới là tên đồ tể giết hại dân Huế ấy là ai?

Trong tham luận “Vai trò của lực lượng an ninh thành phố Huế - nguyên nhân và bài học kinh nghiệm” của Thiếu tướng, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân Phan Văn Lai, nguyên Chánh Văn phòng Ban An ninh khu Trị Thiên-Huế, trình bày tại Hội thảo khoa học lịch sử “Vai trò của lực lượng công an nhân dân trong Tổng tiến công và nổi dậy Xuân Mậu Thân 1968” tổ chức tại TP.HCM tháng 12/2017, có đoạn như sau:

“Trước ngày mở đợt Tổng tiến công và nổi dậy, Ban An ninh Khu và thành phố Huế đã lập xong địa chỉ các cơ quan đầu não trọng yếu của Mỹ, ngụy ở từng khu phố, lập được danh sách và nơi ở những tên cầm đầu, gian ác nhất trong bộ máy ngụy quyền, tình báo, cảnh sát, chiêu hồi, bình định… cung cấp cho các ban chỉ đạo các mũi tiến công tiêu diệt địch.

Trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy ở Huế, lực lượng an ninh có vai trò rất quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong công tác đấu tranh trấn áp phản cách mạng.

Chưa có chiến dịch nào chỉ trong một thời gian ngắn ta đã bắt sống và tiêu diệt được hàng trăm đối tượng cầm đầu các tổ chức địch và lãnh tụ các tổ chức phản động; bao gồm nhiều cấp, kể cả cấp Trung ương, cấp phần, cấp tỉnh, cấp quận; kể cả công khai và bí mật gồm đủ các loại đối tượng ngụy quyền, tình báo, cảnh sát, chiêu hồi, bình định, đảng phái, phản động lợi dụng tôn giáo…

(…) Ta còn tiêu diệt và làm tan rã hàng chục tổ chức đảng phái phản động, bình định nông thôn, các cụm tập trung bọn phản động ác ôn, trung tâm huấn luyện-đào tạo gián điệp biệt kích người dân tộc thiểu số. (…) Thực hiện thành công mục tiêu chiếm lĩnh Nhà lao Thừa Phủ, giải thoát an toàn 2.300 cán bộ, đảng viên, du kích, cơ sở cách mạng, quần chúng bị địch cầm tù và diệt toàn bộ bọn ác ôn trong bộ máy kìm kẹp nhà lao. Ta còn phát hiện 40 tên ác ôn địch cho trà trộn trong số tù nhân để ám hại cán bộ ta. Hơn 500 người vừa thoát khỏi ngục tù được lựa chọn và bổ sung ngay cho quân đội, an ninh để tiếp tục tham gia chiến đấu trong thành phố, số còn lại được bàn giao cho bộ phận công tác hậu phương bổ sung cho các lực lượng.

Thành tích giải phóng nhà lao Thừa Phủ được cố Bộ trưởng Trần Quốc Hoàn, thay mặt Đảng đoàn và lãnh đạo Bộ Công an có điện khen ngợi: “Đảng đoàn nhiệt liệt hoan nghênh và khen ngợi đ/c Khiêm và các cán bộ, chiến sĩ đã lập được thành tích trên” (Điện số 156/ĐK ngày 16-9-1968 của Đảng đoàn Bộ Công an)”.

Như vậy, phải chăng “quân nổi dậy” mà ông Hoàng Phủ Ngọc Tường nói đến chính là 500 tù chính trị ở Nhà lao Thừa Phủ là những người đã gây ra nạn thảm sát người dân Huế Tết Mậu Thân 1968?

Sáng mùng 4 Tết Mậu Thân 1968, Nhà lao Thừa Phủ bị phá, và “giải thoát an toàn 2.300 cán bộ, đảng viên, du kích, cơ sở cách mạng, quần chúng bị địch cầm tù và diệt toàn bộ bọn ác ôn trong bộ máy kìm kẹp nhà lao” (trích tham luận đã dẫn). Phải chăng trong trận chiến xảy ra tại Huế 50 năm về trước, chỉ từ ngày mùng 4 Tết trở đi, với con số “hơn 500 người vừa thoát khỏi ngục tù được lựa chọn và bổ sung ngay cho quân đội, an ninh để tiếp tục tham gia chiến đấu trong thành phố”, là nguyên nhân của nạn thảm sát thường dân Huế?



Sự thật kiểu một nửa ổ bánh mì

Một nhà làm phim là dân Huế, hiện sống ở Sài Gòn nhận xét khá nặng nề: “Làm gì có chuyện do ân hận mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết lá thư. Có ai đó ra lệnh cho ông ta phải làm việc này. Lá thư được viết ra nhằm mục đích đánh lừa dư luận, mà đúng vậy có khá nhiều người đã bị lừa.

Muốn chối tội nên phải đổ tội cho một bọn “nổi dậy”. Thật ra ở Huế lúc bấy giờ khi cộng quân chiếm đóng thành phố, ngoài những thành phần nằm vùng tiếp ứng thì cũng có một số kẻ khác đã lợi dụng cơ hội này để trả thù cá nhân, nhưng những kẻ như vậy chỉ làm cái công việc chó săn là chỉ điểm, họ hoàn toàn không có cái quyền muốn giết ai thì giết. Người quyết định giết và chôn sống hàng ngàn dân Huế phải là kẻ có quyền hành trong tay. Với một tổ chức cứng rắn như cộng sản thì làm gì có cái chuyện để cho bọn “nổi dậy” giành quyền giết người.

Đã gần kề cái chết mà bản chất gian trá vẫn không hề thay đổi”.

Nhà báo Mạnh Kim, chia sẻ: “Tôi cảm nhận được sự dằn vặt của các ông trước những chỉ trích và cáo buộc dính dáng cuộc thảm sát. Tuy nhiên, 50 năm qua, ông Tường (và em trai của ông), cũng như ông Nguyễn Đắc Xuân, đã làm gì để sự thật được đưa ra ánh sáng?

Các ông có biết ai là kẻ trực tiếp ra lệnh chiến dịch thảm sát, nếu có, tại sao không “tố giác”; nếu không, tại sao không kêu gọi một cuộc điều tra thủ phạm chóp bu thật sự, thay vì khổ sở thanh minh cho cá nhân mình? Nếu các ông không có tội thì ai là kẻ có tội và tại sao các ông “chịu tội” thay?

Với tư cách những người hoạch định và tham gia chiến dịch, các ông biết những gì? Các ông đã kể lại những gì và còn che giấu những gì? Chưa lần nào, trong bất kỳ bài viết nào khi “hồi tưởng” sự kiện Mậu Thân, các ông giải thích vì sao có những hố chôn tập thể mà nạn nhân đều bị trói ngoặt bằng dây kẽm gai...

Tôi không lên án sự chọn lựa chỗ đứng lịch sử của các ông trong thời điểm đó. Thái độ và sự chọn lựa cách thức để nhìn lại mình của các ông hàng chục năm qua mới là điều cần quan tâm. Tôi không chỉ trích sự chọn lựa quá khứ. Tôi chỉ thắc mắc sự chọn lựa hiện tại và cách nhìn hiện tại khi nhắc lại quá khứ.

Hàng chục năm qua, các ông vẫn chỉ gỡ tội cho cá nhân mình chứ không phải giải oan cho hàng ngàn nạn nhân, tiếp tục nhất mực rằng những “mất mát” đó là “ngoài ý muốn” và Mậu Thân vẫn là một “chiến thắng lịch sử” – như lời lặp đi lặp lại của Nguyễn Đắc Xuân.

Thái độ hậu chiến và nhãn quan về tội ác chiến tranh của những người như Nguyễn Đắc Xuân đã khiến những kẻ hậu sinh như tôi xin được mạn phép thưa rằng, cho tôi gạt qua sự kính trọng cần có đối với người cao niên để thay bằng một cảm giác đối ngược...”.

Quân nổi dậy đã tàn sát người dân Huế vào 50 năm trước là ai? Rất tiếc đến nay vẫn chưa có câu trả lời. Nếu căn cứ vào tham luận “Vai trò của lực lượng an ninh thành phố Huế - nguyên nhân và bài học kinh nghiệm” của Thiếu tướng Phan Văn Lai, thì có lẽ “quân nổi dậy” ở đây chính là lực lượng An ninh: “Cuộc tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968 ở Huế có nhiều lực lượng tham gia, trong đó lực lượng An ninh có vai trò rất quan trọng, là lực lượng nòng cốt trong cuộc đấu tranh trấn áp phản cách mạng và đã thu được kết quả chưa từng có, đóng góp có ý nghĩa vào thắng lợi chung” (trích tham luận)



Nhìn theo cách nào thì ông Tường vẫn là kẻ đồng lõa

Ông Tường có thể viện cớ rằng khi chiến sự xảy ra, mình ở cách xa Huế đến 50 cây số, thế nhưng  khi cuộc thảm sát chấm dứt, ông đã tận dụng các cơ hội được tiếp xúc với các cơ quan truyền thông quốc tế để bằng mọi cách biện minh và che đậy tội ác của phe chiến thắng, đánh tráo sự thật bằng cách đổ lên đầu quân dân miền Nam tất cả những tội lỗi do phe ông gây ra.

Bằng cách đó, ông ngụy tạo vật liệu cho phe thắng trận đánh tráo lịch sử, tiêm nọc độc vào mạch văn hóa của dân tộc, di hại đến đời con đời cháu. Và nay ở tuổi gần đất xa trời, ông tiếp tục kéo dài nỗi thống khổ của thân nhân của hàng ngàn nạn nhân vô tội của Tết Mậu Thân, bằng cách từ chối giúp họ viết ra chương cuối cùng để đóng lại tấn thảm kịch này.

Chính quyền có dễ bị lật đổ?


Hàng loạt các ông bà Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Trương Minh Đức, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Văn Túc, Trần Thị Xuân đều được cho là thành viên Hội Anh em dân chủ, và đều bị khởi tố về hành vi vi phạm vào điều 79 Bộ luật Hình sự 1999, tội “Hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân”. Phiên tòa dự kiến sẽ diễn ra trong thời gian ngắn sắp tới đây.

Câu hỏi đặt ra: chính quyền Việt Nam hiện nay có dễ dàng bị lật đổ?

Điều đáng nói là Bộ luật Hình sự tu chính 2017 bổ sung thêm sự chế tài trong cả trường hợp “chuẩn bị phạm tội” mà luật hình sự cũ chưa từng quy định. Cụ thể, tội danh “Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân” thuộc Điều 79 Bộ luật Hình sự 1999, nay là Điều 109 Bộ luật Hình sự tu chính, bổ sung thêm Khoản 3: “Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5 năm tù”.

Như vậy với các nội dung nói trên cho thấy chính quyền Việt Nam quá mong manh, dễ dàng bị đe dọa lật đổ bởi một nhúm người không được trang bị vũ khí, không có cả nguồn lực tài chánh. Thực tế có phải như thế không? Câu trả lời mà ai cũng quá rõ: nếu như chính quyền dễ dàng lật đổ như vậy, thì chắc chắn các phe phái được gọi là “lợi ích nhóm” đang nắm giữ trong tay cả quân đội, công an đã lật ghế của nhau từ lâu lắm rồi…

Trở lại các vụ án liên quan đến cáo buộc Điều 79 Bộ luật Hình sự thời gian qua cho thấy dường như chưa có luật sư nào bào chữa thành công. Nếu mang so sánh – mặc dù là khập khiểng – các ông bà có tên như đã nêu ở phần đầu bài viết này, với ông cựu bộ trưởng Đinh La Thăng và cựu phó chủ tịch tỉnh Hậu Giang Trịnh Xuân Thanh, thì xem ra cả hai ông Thăng, Thanh được các quyền tố tụng chặt chẽ hơn.

Trước tiên, từ hồ sơ vụ án liên quan đến ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh, mặc dù là thời gian điều tra, xét xử diễn ra nhanh đến khó tin, song về cơ bản vẫn tuân thủ nguyên lý tố tụng là kết luận buộc tội của cơ quan tiến hành tố tụng phải đảm bảo không còn nghi ngờ hợp lý. Ngược lại, nếu kết luận đó vẫn còn nghi ngờ hợp lý thì quá trình chứng minh chưa đủ để kết tội.

Nghi ngờ hợp lý đó chính là sự chưa đầy đủ về chứng cứ để buộc tội, hoặc chưa rõ ràng về pháp luật. Nếu còn tồn tại các nghi ngờ hợp lý này, quá trình xác định sự thật của vụ án chưa thành công. Mặt khác, nếu đã tìm đủ mọi biện pháp trong giới hạn luật định mà không triệt tiêu được những nghi ngờ hợp lý trên, thì một người luôn vô tội và quá trình xác định sự thật của vụ án cũng kết thúc. Sự thật ở đây là một người không thực hiện tội phạm.

Nghi ngờ hợp lý trong trường hợp ông Đinh La Thăng, Trịnh Xuân Thanh về nguyên tắc thì nó cũng phải được áp dụng với các ông bà Nguyễn Văn Đài, Lê Thu Hà, Phạm Văn Trội, Nguyễn Trung Tôn, Trương Minh Đức, Nguyễn Bắc Truyển, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn Văn Túc, Trần Thị Xuân, vì nó thuộc phạm vi của quyền được truy tố theo trình tự pháp luật. Nó liên quan chặt chẽ với nguyên tắc suy đoán vô tội.

Nghi ngờ hợp lý và suy đoán vô tội dịch chuyển gánh nặng xác định sự thật của vụ án bằng chứng chứng minh có tội sang cho bên buộc tội, thay vì người bị nghi ngờ phải tự khai ra. Chính vì vậy, suy đoán vô tội có thể sẽ bị vô hiệu hóa nếu không thấy nhắc tới tiêu chuẩn chứng minh có tội. Một cáo buộc về tội phạm của bên công tố được tòa án chấp nhận khi nó “vượt qua được nghi ngờ hợp lý. Ngược lại, chứng minh chưa vượt qua được nghi ngờ hợp lý hay vẫn còn nghi ngờ hợp lý bị coi là chưa thành công và bị cáo không phạm tội.

Nếu tôn trọng “nhà nước pháp quyền”, thì dù có hay không cụm từ “xã hội chủ nghĩa”, dễ dàng thấy rằng một trong những tiêu chuẩn được các tòa án áp dụng là “vượt quá nghi ngờ hợp lý”. Nói cách khác, “vượt quá nghi ngờ hợp lý” có thể được diễn giải là “không còn nghi ngờ gì nữa” tuy vẫn có thể không đạt 100% nhưng có xác suất hoặc mức độ chắc chắn trên 95%.

Điều 79 Bộ luật Hình sự và Điều 28 Hiến pháp

Trong vụ án hình sự công tố viên phải có gánh nặng chứng minh các sự kiện và chứng cứ của họ vượt quá nghi ngờ hợp lý để buộc tội bị cáo. Tòa án đòi hỏi tòa tiêu chuẩn này vì việc buộc tội một người rất quan trọng, và đòi hỏi bằng chứng khá chắc chắn để có thể áp dụng trách nhiệm hình sự tước đi những tự do của bị cáo.

Cụ thể với Điều 79 Bộ luật Hình sự, cần làm rõ là liệu có đúng là chính quyền của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam sẽ dễ dàng bị lật đổ bởi những hành vi chỉ là các tiếng nói phản biện được Hiến định: “Công dân có quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận và kiến nghị với cơ quan nhà nước về các vấn đề của cơ sở, địa phương và cả nước”; Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội; công khai, minh bạch trong việc tiếp nhận, phản hồi ý kiến, kiến nghị của công dân” (trích Điều 28, Hiến pháp 2013).

Nếu tiếp tục đồng ý chuyện lãnh đạo cao nhất ở Việt Nam là Bộ Chính trị, thì xem ra phiên tòa liên quan Điều 79 Bộ luật Hình sự đối với các ông bà trong vụ án “Hội Anh em dân chủ”, cần tôn trọng Nghị quyết số 49/NQ-TW Về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị. Theo đó, trách nhiệm chứng minh tội phạm của tòa án ở phiên tòa sắp tới đây sẽ không còn nữa, mà trách nhiệm này thuộc chức năng của cơ quan điều tra và viện kiểm sát.

Mặt khác – vẫn theo Nghị quyết số 49/NQ-TW – thì việc phải chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng tới tính khách quan của tòa án khi ra bản án và phán quyết của mình, đồng thời thiên chức “trọng tài anh minh”, “người cầm cân nảy mực” của tòa án dễ bị hiểu sai lệch.

Vì vậy, nếu thực sự ông Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng không chỉ giỏi “gom củi đốt lửa”, mà còn biết “trồng rừng một cách tử tế”, thì ông nên sớm có chỉ thị theo hướng toà án không có trách nhiệm chứng minh tội phạm như lâu nay nữa. Có như vậy mới hy vọng sự công minh trong phán xét, rằng liệu có phải thực hiện theo Hiến pháp tại Điều 28.1 và cả Điều 25 về quyền tự do lập hội, tự do biểu tình, là dấu hiệu của đe dọa sự tồn vong của chính quyền?

Wednesday, February 21, 2018

Bông trái mùa tết Mậu Tuất

Mùa hoa kiểng bán tết Mậu Tuất đã khép lại. Ghe thương hồ đã quay về lại bến sông chốn quê nhà để cùng ăn tết sum vầy bên gia đình.



ÔNG BỘ TRƯỞNG GIÁO DỤC BỊ TỐ CÁO GIAN LẬN HỌC VỊ


Báo cáo phân tích sơ bộ về sự giả khoa học của ông Phùng Xuân Nhạ. Thực hiện bởi Nguyễn Tiến Dũng và các cộng sự.


Ông Phùng Xuân Nhạ (PXN) được phong GS vào năm 2016. Tuy nhiên, có nhiều biểu hiện mờ ám xung quanh chuyện này, cần phải được rà soát lại để làm sáng tỏ, nhằm đem lại sự trong sạch lành mạnh cho nền giáo dục và khoa học Việt Nam.


Cụ thể là các nghi vấn về sự thiếu trình độ (cả về chuyên mộn và ngoại ngữ) và gian lận thiếu trung thực trong khoa học của ông Phùng Xuân Nhạ, cũng như nghi vấn về việc ông Nhạ đã thao túng Hội đồng Chức danh Giáo sư.


Báo cáo sơ bộ này dựa trên việc phân tích các bài báo trong danh sách sau đây, mà ông Nhạ đứng tên tác giả, nhằm làm sáng tỏ các nghi vấn đó:


(1) (PXN-KTKD2009) Phùng Xuân Nhạ, Mô hình đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 25 (2009) 1-8. Nguồn: http://tapchi.vnu.edu.vn/eb_1_09/b1a. pdf


(2) (PXN-PTL-HR2010) PGS.TS. Phùng Xuân Nhạ & TS. Phạm Thùy Linh, Những giải pháp phát triển nguồn nhân lực sau thời kỳ khủng hoảng, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 26 (2010) 1-8. Nguồn: https://js. vnu.edu.vn/EAB/article/view/878/847


(3) (PXN-PXH-JED2013) Phùng Xuân Nhạ & Phạm Xuân Hoan, Return on invest¬ment in tertiary education and tuition policy in Vietnam, Journal of Economic Development, No. 216 April 2013, pp41–53. Nguồn: http://jabes.ueh.edu. vn/Content/ArticleFiles/oldbv_en/2013/Thang%204/3phungxuannha.pdf


(4) (PXN-LQ-DMST2013) Phùng Xuân Nhạ & Lê Quân, Nghiên cứu: Đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp Việt Nam, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh, Tập 29, Số 4 (2013) 1-11. Nguồn: https://js.vnu.edu.vn/EAB/ article/view/409/389


(5) (PXN-LQ-VNU2013) Phùng Xuân Nhạ & Lê Quân, Leadership in Times of Re-cession: An Empirical Research of Private Enterprise Leadership in Vietnam, VNU Journal of Economics and Business Vol. 29, No. 2 (2013) 75-85. Nguồn:
https://js.vnu.edu.vn/EAB/article/view/394/374


(6) (PXN-PXH-ASS2014) Phùng Xuân Nhạ & Phạm Xuân Hoan, Deficiency in In-vestment in Early Education: The Second-Best Optimal Levels of Investment in Later Education and Human Capital, Asian Social Science; Vol. 10, No. 18, 2014, pp96–108. Nguồn: http://www.ccsenet.org/journal/index.php/ass/ article/view/39508


(7) (PXN-LQ-ASS2014) Phung Xuan Nha & Le Quan, Response of Vietnamese Pri-vate Enterprises’ Leader under Global Financial Crisis: From Theorical to Em¬pirical Approach, Asian Social Science; Vol. 10, No. 9, 2014, pp26–39. Nguồn:


http://www.ccsenet.org/journal/index.php/ass/article/view/36570




1. HÀNH VI TỰ ĐẠO VĂN

Một trong những nguyên tắc về đạo đức trong khoa học là, trong một bài báo nghiên cứu, khi sao chép lại cái gì từ đâu thì phải nói rõ đây là sao chép. Nếu không thì phạm tội đạo văn (nếu là copy của người khác nhận vơ thành của mình) hay tự đạo văn (nếu là copy lại cái cũ của chính mình đã công bố chính thức, giả vờ là mới).


Các sinh viên ở các trường tốt ngay từ khi làm luận văn cũng phải biết nguyên tắc đạo đức này, nếu bị phát hiện đạo văn hay tự đạo văn sẽ bị đánh trượt hoặc đuổi học.


Là một người làm lãnh đạo lâu năm trong ngành đại học, ông Phùng Xuân Nhạ không thể không biết nguyên tắc đạo đức trên.


Tuy nhiên, chính ông Nhạ đã có hành vi tự đạo văn rất rõ ràng.
Cụ thể là, hai bài báo bằng tiếng Anh của Phùng Xuân Nhạ và Lê Quân, (PXN-LQ-VNU2013) và (PXN-LQ-ASS2014), một bài công bố năm 2013 và một bài năm 2014, giống nhau "như đúc", từ mở đầu cho đến kết luận (và bài năm 2014 không hề nhắc tới sự tồn tại của bài năm 2013).


Theo phần mềm tra cứu Turnitin, có 48% nội dung của bài năm 2013 được copy lại nguyên xi trong bài năm 2014. Nhưng con số 48% đó mới chỉ thể hiện những chỗ copy nguyên xi. Còn nếu tính cả những chỗ được viết lại, vẫn cùng một nội dung như thế nhưng dùng câu chữ khác đi để ngụy trang cho thành "công trình mới", thì có thể nói là hai bài giống nhau gần 100%.


Hành vi tự đạo văn này là một gương xấu về đạo đức cho nền giáo dục và khoa học Việt Nam.


2. HÀNH VI TRÍCH DẪN KHỐNG


Một trong những yêu cầu tối thiểu đối với các bài báo khoa học nghiêm túc là các trích dẫn trong đó phải nghiêm túc: mỗi trích dẫn dùng làm chứng cứ phải ghi nguồn rõ ràng để người đọc nếu cần có thể tra cứu, phải trích đúng chứ không bịa đặt, và danh sách các nguồn tài liệu tham khảo phải ứng đúng với các trích dẫn. Ông Phùng Xuân Nhạ đã không biết đến hoặc không tôn trọng những chuẩn mực khoa học tối thiểu này trong các bài báo của mình.


Một ví dụ điển hình là bài báo của Phùng Xuân Nhạ & Phạm Xuân Hoan năm 2014 (PXN-PXH-ASS2014), với các biểu hiện bất thường sau đây về trích dẫn:


- Danh sách tài liệu tham khảo (References) của bài có tổng cộng 24 tài liệu, thì có đến 7 bài trong đó có tên tác giả người phương Tây được viết tắt bằng tên riêng thay vì tên họ, ví dụ như: James JH, Jonathan DL, Paul G, v.v. Đặc biệt là F. Cunha được trích dẫn liên tục trong bài báo này, nhưng trong mục References thì tên ông ta biến thành Flavio C.


Tương tự như vậy với nhà kinh tế học G.N. Mankiw có trích dẫn trong bài báo, và trong danh sách tài liệu tham khảo thì biến thành ông Gregory NM.


- Một nửa số tài liệu trong danh sách References không thấy được trích dẫn ở bất kỳ chỗ nào bên trong bài báo. Ngược lại, có ít nhất hai trích dẫn bên trong bài báo (Oczan et al. (2000) và Jones (2002)) không thấy tương ứng với bất kỳ tài liệu nào trong danh mục tài liệu tham khảo, kể cả sau khi đã kiểm tra xem có nhầm tên riêng thành tên họ không.


Một ví dụ khác là bài báo của ông Nhạ về "mô hình đào tạo gắn với nhu cầu của doanh nghiệp" năm 2009 (PXN-KTKD2009). Trang đầu của bài báo này có câu: Theo thống kê mới nhất của Bộ Giáo dục và Đào tạo, 63% sinh viên tốt nghiệp không có việc làm, 37% được tuyển dụng không đáp ứng được công việc, nhiều công ty phải mất 1-2 năm đào tạo lại [1]. Bản thân câu trên là tối nghĩa thiếu khoa học, vì tỷ lệ 63% thất nghiệp ắt phải là một tỷ lệ tính cho đến một mốc thời gian nào đó sau khi tốt nghiệp chứ không phải cả đời thất nghiệp, mà mốc đó không được nói đến trong câu.


Nhưng ở đây ta tạm thời bỏ qua chuyện đó, mà xét trích dẫn [1] của câu. Khi ông Nhạ trích thống kê của Bộ, thì người ta chờ đợi là tài liệu tham khảo phải là một văn bản của Bộ, hoặc ít ra là một tài liệu khoa học nào đó có sao lại văn bản gốc liên quan của Bộ. Nhưng không, "tài liệu tham khảo" này mà ông Nhạ đưa ra để làm chứng cứ là một chương trình TV dành cho người Việt ở Mỹ! ([1] Đại Dương, Chất xám tại Việt Nam dưới mắt thiên hạ, Vietnamese American Television, 10/6/2008).


Ví dụ thứ ba là bài báo của Phùng Xuân Nhạ và Lê Quân năm 2013 (PXN-LQ¬DMST2013).


Trang 2 của bài này có câu: Nhiều học giả thậm chí còn sử dụng thuật ngữ "năng lực đổi mới sáng tạo" thay cho thuật ngữ "năng lực cạnh tranh" [10].


Chẳng cần phải là nhà kinh tế cũng biết rằng "năng lực đổi mới sáng tạo" là một phần của "năng lực cạnh tranh" nhưng không thế dùng để thay thế cho toàn bộ "năng lực cạnh tranh", nên sự ngớ ngẩn của câu trên dẫn đến nghi ngờ rằng trích dẫn [10] là trích dẫn khống, chứ các nhà kinh tế thế giới có lẽ không ngớ ngẩn đến vậy.


Tài liệu tham khảo [10] trong bài là: [10] Cooper, R. (2005). Profitable Product Innovation. L/V/Shavinina. The International Handbook of Innovation. Pergamon. Chúng tôi có tra ra tài liệu này, nó là một chương trong quyển sách "The International Handbook of Innovation" xuất bản năm 2003. (Xem: https://www.sciencedirect.com/science/ book/9780080441986#ancpart2).


Đây là một chương rất hay viết về các quy trình để cải tiến sản phẩm tạo lợi thế cạnh tranh và lợi nhuận. Tuy nhiên, không thấy ở đâu trong chương này có dùng thuật ngữ nào kiểu "năng lực đổi mới sáng tạo" chứ chưa nói đến chuyện nó thay thế cho thuật ngữ "năng lực cạnh tranh".


Các hành vi trích dẫn khống của ông Phùng Xuân Nhạ thể hiện sự thiếu trình độ và sự coi thường của ông Nhạ đối với khoa học nghiêm túc.


3. THIẾU TRÌNH ĐỘ TIẾNG ANH


Trong lý lịch khoa học của mình trên trang web của ĐHQGHN (xem: http://vnu. vn/upload/2010/08/16/CV%20Giam%20doc%20Phung%20Xuan%20Nha%20(Oct2013)(1).pdf), ông Phùng Xuân Nhạ tự nhận là thành thạo tiếng Anh, với các bằng chứng sau:


- Đã học cao học ở ĐH Manchester (UK), 09/1993-07/1994.
- Đã có học bổng Fulbright tại Georgetown University, USA, 09/2002-07/2003.


- Đã từng giảng dạy bằng tiếng Anh trong một dự án tại Lào.
Nếu chỉ nhìn vào các thông tin trên, người ta có thể tin rằng ông Nhạ thành thạo tiếng Anh.


Tuy nhiên, các bài báo bằng tiếng Anh mà ông Nhạ là tác giả lại cho thấy một thực tế ngược lại, vì trong đó có quá nhiều lỗi sai về tiếng Anh, kể cả những ở những chỗ khá đơn giản, chưa kể đến chuyện cấu trúc câu lủng củng như là được dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh một cách gượng gạo.


Để làm ví dụ cụ thể, đơn cử một bài báo: Phùng Xuân Nhạ & Phạm Xuân Hoan, Asian Social Science, Vol. 10, No. 18, 2014, pp. 96–108 (PXN-PXH-ASS2014). Chọn 10 câu sai tiếng Anh từ 10 trang đầu của bài báo (mỗi trang đơn cử 1 câu) làm ví dụ (các câu lấy ra từ bài báo được in nghiêng ở đây):


Trang 96 (dòng thứ 4 của Mục 1). Human capital represents all the resources which people utilize to augment their personal productivity. Câu này tuy ngữ pháp không sai, nhưng ngớ ngẩn, nghĩa hiển nhiên sai.


Bởi vì trong số tất cả các thứ ("all the resources") mà con người sử dụng ("which people utilize") thì có cả những thứ như là máy móc, công nghệ, v.v. không thể tính thành "human capital". Các tác giả nếu muốt biết cần dùng cụm từ nào thay cho "resources", chỉ cần xem chẳng hạn trang wikipedia (https://en.wikipedia.org/wiki/Human_capital).


Trang 97 (dòng 8 từ dưới lên). 3) Full remediation of human capital is the case when the deficiency in investment in early education is fully offset by an increase in investment in later education such that there is no deficiency in human capital, which is the second-best optimal human capital, is equal to its first-best optimal level. Dấu phẩy cuối cùng và cụm từ "which is" sau dấu phẩy đầu tiên làm câu lủng củng này trở nên vô nghĩa. (Điều các tác giả muốn nói là "the second-best optimal human capital is equal to its first-best optimal level").


Trang 98 (dòng 21). Note again that, no on-the-job training may not realistic in the real world, .... Câu này vừa lủng củng vừa sai ngữ pháp: sau từ "may" thiếu động từ "to be"; chủ ngữ có thể hiểu là "on-the-job training" còn từ "no" gắn với động từ "may", trái với ý của các tác giả. Ngoài ra, sau "realistic" lại có thêm "real world" thừa và làm cho câu thêm lủng củng.


Trang 99 (dòng 6 từ dưới lên). Equation (4), in turns, implies that... Không chỉ riêng câu này, mà trong số 05 lần dùng cụ từ "in turn" trong bài thì có 04 lần viết sai thành "in turns".


Trang 100 (dòng 5). The first order condition for investment in period 2 education I2 from (9) gives the following result: Câu này và những câu tương tự trong bài thuộc loại "đố ai hiểu được".


Về mặt ngữ pháp, các từ "for" và "from" trong câu đều dùng không thích hợp (đáng nhẽ phải là "... condition on I2 for (9) to be maximal"). Về mặt nội dung toán học, tác giả dùng cụm từ "first order condition" tối nghĩa (không quy ước từ trước về việc dùng cụm từ đó và cũng không có thêm từ như là "variational" hay "derivative" để giải thích nghĩa).


Trang 101 (ở giữa trang). To answer this question, we take differentiation of (6) with respect to the exogenous level of investment in period 1 education I1 and derive the following derivative. Cũng như nhiều câu khác nói về toán học trong bài, câu này tối nghĩa, trong trường hợp này là do thiếu từ ở cuối (chẳng hạn từ "formula"; hoặc là phải thay động từ "derive" bằng động từ khác; còn "derive the derivative" thì có thể hiểu thành lấy đạo hàm bậc 2).


Trang 102 (dòng 14 từ dưới lên). Assuming that this conclusion works not only with American, but works with human being in general, including Vietnamese; this conclusion would ring a bell on the too-rapid expansion of the tertiary education system in Vietnam...


Cụm từ "ring a bell" có vẻ được các tác giả dùng nhiều lần trong bài, kể cả trong phần Abstract, với ý nói "rung chuông báo động". Tuy nhiên trong tiếng Anh, cụm từ này lại không có nghĩa "báo động" (khi thiếu từ "alarm"), mà chỉ có nghĩa như là "gợi nhớ". Ngoài ra, về mặt ngữ pháp, từ "American" cần thay bằng "the Americans", "human being" cần để ở số nhiều, và cần thêm từ nào đó (như "the" hay "people") ở trước hoặc sau từ "Vietnamese".


Trang 103 (dòng 4). If we assume that highly developed countries, for example Aus¬tralia, is closed to a market economy, in which investment in education is more or less optimally determined, than it can be seen from Table 3 that the investment in primary education in Vietnam is much lower than its (first-best) optimal level.


Chỉ một câu này đã có 03 từ sai, là từ "closed" (đáng nhẽ phải là "close"), từ "is" (phải là "are"), và từ "than" (phải là "then"). Từ close còn bị viết thành closed thêm 02 lần nữa trong bài, và không có chỗ nào dùng đúng từ này trong bài.


Trang 104 (paragraph đầu tiên của phần Conclusion). The analysis is done based on a vintage model of education, which is effectively an extension of the model of Cunha et al. (2005)...


Chịu không thể hiểu cụm từ "vintage model of education" có nghĩa là gì ở đây. Tra google ra đúng 04 chỗ dùng cụm từ này, và cả 04 chỗ đều là của hai tác giả của bài báo. (Từ vintage thường được dùng với nghĩa "cũ, cổ, lỗi thời", nhưng ắt hẳn không phải nghĩa mà tác giả muốn dùng ở đây, vì tác giả nói là mô hình của họ là phát triển của mô hình năm 2005 của Cunha).
Trang 105 (dòng 10). No human capital deficiency in human capital formation in early education is offset or added to by the investment in investment in later education. Những cụm từ như "the investment in investment" và "is offset or aded to" thật không thể hiểu nổi nghĩa là gì?!


Các lỗi tiếng Anh phía trên và các lỗi tiếng Anh khác trong các bài báo của ông Phùng Xuân Nhạ không chỉ chứng tỏ sự thiếu tŕnh độ về tiếng Anh, mà c̣n chứng tỏ một sự cẩu thả thiếu nghiêm túc khi viết bài. Kể cả một người c̣n yếu về tiếng Anh
nhưng nếu viết bài nghiêm túc thì sau khi viết sẽ kiểm tra lại hoặc nhờ người khác kiểm tra lại và phát hiện ra phần lớn những lỗi kể trên.


4. HỜI HỢT THIẾU KHOA HỌC


Nhìn chung, có thể nhận thấy sự hời hợt thiếu khoa học về mặt lý luận trong các bài báo của ông Phùng Xuân Nhạ. Xin dẫn chứng ra đây một số ví dụ.


Ví dụ 1: Trong bài báo của Phùng Xuân Nhạ và Phạm Thùy Linh năm 2010 về nguồn nhân lực (PXN-PTL-HR2010), trang 5 có đoạn viết:


Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao đã qua đào tạo còn mất cân đối với đặc điểm là “thừa thầy -thiếu thợ” hoặc “thiếu tổng thể -thừa cục bộ”. Hiện nay, cơ cấu nguồn nhân lực đã qua đào tạo của nước ta là 1 -0,8 -3,7, nghĩa là trong số 100 lao động có trình độ cao đẳng trở lên thì có 80 lao động có trình độ trung cấp và 370 công nhân kỹ thuật.


Cấu trúc này khá thấp so với cấu trúc nguồn nhân lực đã qua đào tạo của các nước phát triển (1 ¬12 -24). (Từ "trong số" mà tác giả dùng có lẽ cần hiểu thành "ứng với"). Không rõ các tác giả muốn nói cái gì thấp ở đây, nhưng đoạn trên không thể nào đúng được.


Bởi thứ nhất là với tỷ lệ người tốt nghiệp cao đẳng/đại học (college) ở các nước phát triển lên đến trên 20-30% tổng dân số như hiện nay, thì không thể có cách nào mà cứ 01 người có trình độ cao đẳng trở lên lại ứng với 12 người trình độ trung cấp và 24 công nhân kỹ thuật.


Giả sử các số này viết nhầm thiếu dấu phẩy, thực ra là 1 -1,2 -2,4, thì kết luận của đoạn trên về "thừa thầy -thiếu thợ" ở Việt Nam cũng không ăn nhập gì với các con số đưa ra làm chứng cớ, bởi vì tỷ lệ "thợ" (công nhân kỹ thuật) ở Việt Nam rõ ràng nhiều hơn hẳn so với trên thế giới theo các con số được chỉnh sửa lại này. Điều này không có nghĩa là ở Việt Nam không có hiện tượng "thừa thầy thiếu thợ" (vẫn có, nhưng vì các lý do khác), chỉ có nghĩa là kết luận này của ông Nhạ không ăn nhập gì với các chứng cớ mà ông Nhạ đưa ra.


Ví dụ 2. Vẫn trong bài báo (PXN-PTL-HR2010), Phùng Xuân Nhạ và Phạm Thùy Linh dành một trang để bàn về chuyện khủng hoảng kinh tế (2007-2008) gây ra thất nghiệp, viện dẫn lý thuyết Hayek (khủng hoảng → lạm phát cao trong thời gian dài → thất nghiệp tăng). Tuy nhiên, bản thân số liệu mà các tác giả đưa ra về tỷ lệ thất nghiệp (biểu đồ ở trang 4) chẳng ăn nhập gì với lý luận đưa ra: trong giai đoạn 2007-2009 tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị Việt Nam chỉ tăng rất nhẹ từ 4,64% lên 4,66% tuy là khủng hoảng với lạm phát cao (rồi đến những năm 2010 và 2011 thì tỷ lệ này giảm mạnh, tuy các con số mới hơn này tất nhiên không có trong bài báo).


Các tác giả có vẻ chỉ muốn chứng minh tỷ lệ thất nghiệp tăng, mà không hề bàn đến vì sao tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam lại khá ổn định trong giai đoạn khủng hoảng.


Ví dụ 3. Bài báo của Phùng Xuân Nhạ và Phạm Xuân Hoan năm 2013 về đào tạo ở bậc đại học (PXN-PXH-JED2013). Ngay câu thứ hai của phần Abstract đã thấy có vấn đề về nội dung (không kể ngữ pháp tiếng Anh): Conclusion is that an individual can gain VND324.46 from an investment of VND100 in tertiary education that helps improve his/her productivity. Trong câu này không hề thấy nói "lợi nhuận khổng lồ" 324,46% đó là sau bao lâu.


Bằng các tính toán nào đó (với các số liệu không đầy đủ và rất khó kiểm tra, công thức không đủ rõ ràng), các tác giả tính ra rằng một người đầu tư vào giáo dục đại học cho bản thân thì thu được mức lợi nhuận (vì thu nhập về sau cao hơn) tương đương với 3,15%/năm.


Dựa trên việc mức lời này cao hơn mức lãi suất (đã trừ đi lạm phát) trên thị trường vốn (capital markets) các tác giả đưa ra kết luận là có thể tăng học phí (mà không làm cho việc học đại học mất hấp dẫn đi).


Việc tăng học phí có thể là đúng, tuy nhiên suy luận dẫn đến nó dựa trên mức lợi nhuận 3,15%/năm là có vấn đề, bởi vì đây là đầu tư có rủi ro, mà như chúng ta biết, đầu tư có rủi ro phải ứng với mức lợi nhuận cao hơn nhiều so với mức lãi suất của thị trường vốn không rủi ro.


So sánh thích hợp hơn phải là so sánh với thị trường cổ phiếu thế giới, với mức lợi nhuận trung bình cao hơn thế. Kể cả như vậy, thì đầu tư của cá nhân vào học đại học vẫn có thể là đầu tư hấp dẫn vì lợi nhuận thực ra cao hơn 3,15%/năm, do (như bản thân các tác giả thú nhận trong bài viết) có những thứ lợi không được tính đến trong bài.


Tóm lại, phân tích của các tác giả không đủ sâu để đưa ra kết luận đáng tin về độ lợi nhuận và độ hấp dẫn của đầu tư vào học đại học. Nhưng một điểm thật bất ngờ khác của báo bài này là câu kết luận sau của phần Abstract: The research suggests reform in tertiary education in which time for study is reduced...


Toàn bộ bài báo không hề có một phân tích gì về thời gian học đại học (ảnh hưởng đến trình độ, chất lượng đầu ra, thu nhập về sau v.v. ra sao), nhưng kết luận lại là nên cải cách chương trình để giảm thời gian học!


Đây là một kiểu ngụy biện, và là một lối suy nghĩ thiển cận kiểu cắt góc bất chấp chất lượng có đảm bảo hay không, hết sức nguy hiểm cho xã hội. Tác giả viện cớ là bằng cử nhân ở Úc chỉ có 3 năm.


Tuy nhiên, đó cũng là một ngụy biện, vì còn lâu sinh viên ở Việt Nam mới có thể học được theo nhịp độ của sinh viên ở Úc, do điều kiện khác hẳn nhau. Tất nhiên, có những chương trình đại học có thể giảm thời gian, hay tăng thời gian, hay chia ra thành nhiều cấp bậc nhỏ, hay cho phép người học tự chọn nhịp độ nhanh chậm theo khả năng của mình, v.v., nhưng những điều đó phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác chứ không phải là suy ra từ mấy con số thiếu chính xác dựa trên những mô hình nửa vời mà các tác đưa ra.


(Thông tin tham khảo thêm: ở Pháp hiện đang có dự án tăng thời gian học đại học bậc "Licence" từ 3 lên thành 4 năm nhằm tăng chất lượng).


Ví dụ 4. Bài báo của Phùng Xuân Nhạ và Lê Quân về lãnh đạo doanh nghiệp thời suy thoái (Leadership in Times of Recession) năm 2013 (PXN-LQ-VNU2013).


Bài này có quá nhiều câu mà tiếng Anh lủng củng, vừa đọc vừa phải đoán ý các tác giả muốn nói ǵ. Ví dụ như câu "Business leaders in private enterprises are highly evaluated on quality and thinking" ở Mục 7 (trang 84) hay câu "Differentiated and focused strategy has been confirmed" ở Mục 8 (trang 85).


Bỏ qua chuyện tiếng Anh đó, có thể thấy hầu hết các "khuyến cáo" đưa ra trong Mục 8 (mục Recommendations) thuộc loại chung chung và hiển nhiên, chẳng cần phải làm thống kê khảo sát doanh nghiệp cũng nói được như vậy, ví dụ như câu cuối cùng của bài: A business leader with poor competencies will find it difficult to attract and use talent (lănh đạo tồi thì khó thu hút tài năng). Một khuyến cáo hiếm hoi có vẻ cụ thể hơn đưa ra trong bài là khuyến cáo doanh nghiệp nên phụ thuộc ít hơn vào thị trường công và chú trọng hơn vào thị trường tư nhân, vì sức ép cắt giảm chi tiêu công. (Khúc thứ hai của Mục 8).


Tuy nhiên, không hề có bất kỳ số liệu nào về chi tiêu công được nhắc đến trong bài, nên có thể nói đây là một kiểu lý luận khống, hời hợt thiếu cơ sở.


Qua các ví dụ trên, ta thấy các kết luận và khuyến cáo trong các bài "nghiên cứu" của ông Phùng Xuân Nhạ có thể đúng, có thể sai, nhưng điều quan trọng là chúng không đáng tin, do lối phân tích hời hợt và thiếu tính khoa học của ông Nhạ.


5. TẠP CHÍ GIẢ KHOA HỌC


Theo tra cứu vào tháng 02/2018, ông Phùng Xuân Nhạ có đúng 02 bài báo công bố quốc tế trên các tạp chí có trong danh mục Scopus (Scopus là cơ sở dữ liệu lớn nhất về các tạp chí khoa học có uy tín, do Elsevier lập ra), là các bài (PXN-PXH-ASS2014) và (PXN-LQ-ASS2014), cả hai bài đều đăng trên tạp chí Asian Social Science vào năm 2014, với tổng cộng 01 trích dẫn.


Bình thường ra, một người làm ở Việt Nam mà có được 02 bài báo công bố quốc tế có trong danh sách Scopus thì cũng là một tín hiệu tốt.


Tuy nhiên, trường hợp của ông Nhạ là một trường hợp bất bình thường, vì tạp chí Asian Social Science mà ông Nhạ đăng 02 bài báo đó đã bị Scopus phát hiện ra là tạp chí giả khoa học và đã bị loại ra khỏi danh sách Scopus từ sau năm 2015.


Tạp chí Asian Social Science này thuộc một công ty tư nhân vị lợi nhuận tự xưng tên là Canadian Center for Sience and Education (http://web.ccsenet.org/) lập ra. Công ty này mới thành lập từ năm 2006 và tung ra một loạt các tạp chí "khoa học" trong phong trào "trăm hoa đua nở" các tạp chí giả khoa học xuất hiện chủ yếu từ cách đây 1-2 thập kỷ.


Mô hình kinh doanh của các tạp chí này là: mời chào tất cả mọi người gửi bài đến đăng, cũng giả vờ lập ban biên tập khoa học như thật, nhưng ai gửi gì đến hầu như cũng được đăng rất nhanh, không có phản biện và biên tập nghiêm túc, miễn sao nộp một khoản "lệ phí" (tức là tiền mua suất đăng bài trên báo) nào đó, trong trường hợp Asian Social Science là 3-400 USD một bài. Ngoài chuyện lập ra hàng loạt các tạp chí giả khoa học, các công ty này còn lập ra hàng loạt các hội nghị giả khoa học ở khắp nơi, mời chào mọi người đến làm "báo cáo mời", miễn là nộp tiền cho công ty.


Hình thức kinh doanh tạp chí giả khoa học và hội nghị giả khoa học kể trên có được rất nhiều khách hàng, chủ yếu là những người không đủ trình độ viết những bài báo đăng ở các tạp chí khoa học quốc tế nghiêm túc nhưng vẫn muốn được đăng bài để tính điểm công trình.


Đặc biệt là những người từ các nước đang phát triển nơi mà thật giả dễ lẫn lộn, nhưng cũng có cả những "nhà khoa học nghiệp dư" ở các nước tiên tiến không thuộc định chế khoa học nào, thích đăng những "khám phá" của mình, không cần có phản biện nghiêm túc. Còn trong giới khoa học nghiêm túc ở các trường đại học và các viện nghiên cứu có uy tín thì nói chung tất cả mọi người đều biết về tình trạng tạp chí giả khoa học này.


Điều này giải thích vì sao hai bài báo nói trên của ông Nhạ, với quá nhiều sai phạm như được phân tích phía trên (hời hợt và ngụy biện, trích dẫn khống, sai tiếng Anh, tự đạo văn) lại được đăng rất nhanh trên tạp chí Asian Social Science với toàn bộ các


sai phạm đó: đó là bởi vì Asian Social Science là một tạp chí "bogus" (giả khoa học), không có phản biện và biên tập nghiêm túc, cứ nhận tiền là đăng bài.


Những người trong ngành, và kể cả những người không trong ngành, chỉ cần tìm hiểu một chút là biết được ngay rằng tạp chí Asian Social Science là giả khoa học.


Vậy thì tại sao ông Phùng Xuân Nhạ lại chọn đăng 02 bài của mình ở trên đó? Câu hỏi này chỉ có bản thân ông Nhạ mới trả lời chính xác được, nhưng dưới đây là những tình huống có thể xảy ra:


- Ông Nhạ có thể không có đủ trình độ để phân biệt đâu là thật đâu là giả trong ngành của mình.


- Ông Nhạ có thể có biết tạp chí Asian Social Science là "bogus" nhưng ông vẫn đăng các bài báo "cũng bogus tương xứng" của ông ở đó để cốt tính điểm công trình nhằm làm đẹp hồ sơ xin lên giáo sư của ông.


- Có thể ai đó làm hộ ông Nhạ, chứ ông chỉ đứng tên mà không biết cái tạp chí này là tạp chí nào và cũng không trực tiếp viết bài gửi đăng.


6. HỘI ĐỒNG CHỨC DANH GIÁO SƯ CÓ BỊ THAO TÚNG?


Hội đồng ngành kinh tế trong hai năm 2014 và 2015 đã đánh trượt đơn xin phong giáo sư (hay nói một cách hình thức, là xin công nhận đủ tư cách làm giáo sư) của ông Phùng Xuân Nhạ.


Tuy nhiên đến năm 2016, ngay sau khi ông Nhạ lên làm Bộ trưởng BGD&ĐT thì lập tức được phong giáo sư cùng năm đó.


Nếu chỉ có vậy thôi mà không có những nghi vấn phía trên, thì người ta có thể nói đây chẳng qua là một sự trùng hợp, khi mà ông Phùng Xuân Nhạ đủ chín muồi để được phong giáo sư cùng với lúc ông được bổ nhiệm thành Bộ trưởng.


Tuy nhiên, ngoài những biểu hiện giả khoa học của ông Phùng Xuân Nhạ đã được phân tích phía trên, năm 2016 là năm mà Hội đồng Chức danh Giáo sư có sự rất bất thường về mặt tổ chức, liên quan đến ông Nhạ.


Theo một văn bản pháp luật từ những năm trước đó, Chủ tịch Hội đồng phải là người đã có hàm giáo sư, và người đó không nhất thiết phải là Bộ trưởng. (Trên thực tế, đã có những lúc Chủ tịch Hội đồng này không phải Bộ trưởng). Nhưng ngay sau khi ông Nhạn lên làm Bộ trưởng, đã thâu tóm chức Chủ tịch Hội đồng này về mình, mặc dù lúc đó ông Nhạ chỉ là PGS.


Việc thâu tóm này được giải thích là do có công văn mật (?!) của Thủ tướng chỉ định ông Nhạ làm Chủ tịch Hội đồng nên mọi người phải thi hành. Tuy nhiên, có mấy điểm mờ án sau:


- Tại sao lại phải "mật"? Dù là mật hay không mật thì cũng phải hợp với pháp luật, nếu sai pháp luật hiện hành thì phải có văn bản sửa lại pháp luật cho khỏi mâu thuẫn. Tuy nhiên không có văn bản sửa pháp luật đi kèm.


- Ông Thủ tướng lúc đó mới lên, có thể chưa kịp t́ìm hiểu hết các văn bản pháp lý liên quan khi làm công văn này, nên không biết đến sự mâu thuẫn.


Ông Nhạ và các cộng sự của ông chính là người phải có trách nhiệm tŕnh lên Thủ tướng về việc này với một trong hai đề xuất: hoặc để người khác làm cho hợp với văn bản pháp lý đang có giá trị, hoặc ra văn bản pháp lý mới cho hợp pháp hóa công văn.


Ông Nhạ đã không làm điều này, vì sao?


Nghi vấn cần được làm sáng tỏ ở đây, là có phải chăng ông Phùng Xuân Nhạ, cùng với các "tay chân" của mình, đã cố tình tìm cách gợi ý để Thủ tướng chỉ định ông Nhạ giữ chức Chủ tịch Hội đồng, dù lúc đó ông Nhạ chưa đủ tư cách, nhằm thao túng hội đồng theo ý của ông, trong đó có chuyện phong bản thân ông thành giáo sư?


7. KẾT LUẬN


Các phân tích sơ bộ phía trên cho thấy có quá nhiều chứng cớ về sự giả khoa học của ông Phùng Xuân Nhạ. Cụ thể là ông Nhạ đã có nhiều biểu hiện rất rõ ràng về tự đạo văn, trích dẫn khống, đăng bài ở các tạp chí giả khoa học, thiếu trình độ tiếng Anh, lý luận ngụy biện hời hợt phản khoa học.


Tất cả các biểu hiện trên cho thấy ông Phùng Xuân Nhạ vừa thiếu đạo đức vừa kém về trình độ, là một gương xấu cho nền giáo dục và khoa học Việt Nam, hoàn toàn không xứng đáng với chức danh giáo sư.


Vì vậy, việc phong giáo sư cho ông Nhạ vào năm 2016 cần được rà soát lại một cách rất nghiêm túc, bởi một hội đồng thẩm định gồm các chuyên gia có uy tín và độc lập, không chịu bất kỳ sức ép hay sự thao túng nào nào từ phía ông Phùng Xuân Nhạ hay những người có lợi ích cá nhân liên quan. Có như vậy mới có hy vọng làm trong sạch hóa nền giáo dục và khoa học Việt Nam.


Hơn nữa, do tính giả khoa học của ông Phùng Xuân Nhạ, nên các chính sách và khuyến cáo mà ông Phùng Xuân Nhạ đưa ra đều không đáng tin cậy và có thể gây ra các thiệt hại lớn cho đất nước.