Tuesday, April 28, 2015

VUA HÙNG DẠY CON

Bộ ảnh gốc do một bạn chuyên viên thiết kế đồ họa trẻ của Việt Nam thiết kế và chia sẻ trên mạng. Được sự cho phép của tác giả, đội ngũ biên tập của TGM đã chỉnh sửa lại và bổ sung một số câu nói vui truyền động lực và cảm hứng.
























Tuesday, April 21, 2015

40 năm nhìn lại


Cần thiết sự công bằng truyền thông
Hàng năm cứ đến dịp 30 tháng 4 là chính quyền lại tưng bừng kỷ niệm “chiến thắng đánh cho Mỹ cút Ngụy nhào”. Thứ trưởng Bộ ngoại giao Nguyễn Thanh Sơn trả lời phỏng vấn Báo điện tử Pháp Luật TP.HCM, còn cho rằng: “Chúng ta là người chủ đất nước, chúng ta đi lên thì không có lý gì bỏ rơi họ trong mặc cảm, tự ti. Họ đã ra đi trong suốt 40 năm qua và luôn mặc cảm, có những hận thù đối với đất nước”.
“Chúng ta” ở đây là những quan chức trong bộ máy nhà nước. “Họ”, chính là “Ngụy” (1).
Huynh đệ tương tàn thì sao lại tiệc tùng chiến thắng?
Hiệp định Paris được chính thức ký kết vào 27-1-1973. Hiệp định này thỏa thuận ngưng bắn toàn diện tại miền Nam Việt Nam, Hoa Kỳ rút hết số quân còn lại tại Việt Nam trong vòng 60 ngày, quân cộng sản Bắc Việt (khoảng 150.000 binh sĩ) được phép ở lại miền Nam Việt Nam tại những vùng cộng sản Bắc Việt đã chiếm đoạt, và tất cả tù binh Hoa Kỳ được hồi hương. Hiệp định Paris cũng kêu gọi Chính phủ VNCH và Chính phủ Cách mạng Lâm thời Miền Nam Việt Nam thực hiện một cuộc bầu cử dân chủ và tự do tại miền Nam Việt Nam để chấm dứt cuộc xung đột.
Hai tháng sau khi Hiệp định hòa bình Paris được ký kết, những người lính Mỹ cuối cùng rút khỏi Việt Nam, khi Hà Nội thả tự do những tù nhân Mỹ bị giam giữ ở miền Bắc Việt Nam.
Tuy nhiên, tiếng súng huynh đệ tương tàn mỗi lúc dồn dập hơn, bất chấp thỏa thuận đã ký kết.
Và với nếp nghĩ định kiến “đánh cho Mỹ cút – Ngụy nhào” như vậy của một thứ trưởng ngoại giao chuyên trách về các vấn đề người Việt tại nước ngoài, cho thấy câu nói của cựu thủ tướng Võ Văn Kiệt lúc sinh thời, vẫn còn nóng thời sự: “Một sự kiện liên quan đến chiến tranh khi nhắc lại, có hàng triệu người vui, mà cũng có hàng triệu người buồn. Đó là vết thương chung của dân tộc, cần được giữ lành thay vì lại tiếp tục làm cho nó thêm rỉ máu... Đối với Việt Nam, nhất là ở miền Nam, tôi thường biết và hiểu nhiều gia đình đều có hai bên hết. Chính trong thân tộc của tôi, các anh em tôi, các cháu ruột của tôi cũng có số bên này và số bên kia. Cái đó có hoàn cảnh của nó. Có những gia đình một người mẹ có con đi chiến đấu, chết ở bên này và đứa con khác thì đi chiến đấu chết ở phía bên kia...”.
Như vậy, trong truyền thông – dù là tuyên truyền định hướng, nhưng “Tuyên giáo” không thể tiếp tục trên sóng truyền hình hàng đêm suốt từ tháng 1-2015 đến nay, ra rả những trận chiến “đánh cho Mỹ cút – Ngụy nhào”. Sự công bằng ở đây là cần loại bỏ ngay khuynh hướng cường điệu khía cạnh chiến thắng của ngày 30 tháng 4. Cần chú trọng hơn vào khía cạnh hòa giải hòa hợp dân tộc, và phải coi việc hàn gắn vết thương chiến tranh qua thái độ hòa giải hòa hợp dân tộc như một thứ trách nhiệm lịch sử tự nhiên phải làm, chứ không có tính cách ban phát sự hòa giải cho “phía thua cuộc”.
258 – 88 và 40
40 năm, vẫn tiếp tục chụp mũ chính trị nhiều công dân bằng các điều 88 và 258 Bộ Luật hình sự. Yêu cầu xóa bỏ hai điều luật này xem ra khó thể được nhà nước chấp nhận, khi mà trong trả lời phỏng vấn ngày 2-5-2014, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Sơn, cho rằng:
“Chính chính phủ Việt Nam Cộng hòa đã đưa người Mỹ vào miền Nam và đã phản bội cả chế độ cộng hòa của họ, gây ra cuộc chiến tranh tàn khốc vô cùng đau thương cho dân tộc chúng ta. Những người anh em miền Bắc đã phải vào miền Nam để hỗ trợ anh em miền Nam giải phóng dân tộc, giải phóng đất nước, đánh đổ đế quốc Mỹ.
Tôi đã giải thích rất rõ cho họ là chính các quý vị trong thời Việt Nam Cộng hòa đã đưa đế quốc Mỹ vào xâm lược miền Nam. Họ vào không phải để giúp đỡ chúng ta mà vào để đẩy cuộc chiến tranh mạnh hơn, muốn tiến ra cả miền Bắc để xóa sổ XHCN miền Bắc, để mong muốn có một nhà nước tư bản chủ nghĩa theo chư hầu của Mỹ.
Chúng ta không chấp nhận chuyện đó. Cho nên Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập để kháng chiến chống đế quốc Mỹ và những người anh em miền Bắc phải có trách nhiệm giúp giải phóng miền Nam, đưa đến thống nhất đất nước. Chính người Mỹ đã rút chạy trước và bỏ lại miền Nam cộng hòa. Giá như miền Nam cộng hòa lúc bấy giờ đi theo xu hướng của Mặt trận Dân tộc giải phóng thì chúng ta không có những đau thương về sau...”. (1)
Lẽ ra, ông thứ trưởng phải nhìn đúng sự thật rằng nhiều chính sách của nhà nước cộng sản miền Bắc sau tháng 4-1975 quá nặng nề với sĩ quan, binh lính chế độ VNCH cũng như gia đình họ. Rồi chuyện báo chí Sài Gòn bị đóng cửa hầu hết, tất cả hoạt động kinh doanh của miền Nam bị hạn chế... Sau đó là hợp tác hóa, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến chuyện hàng chục vạn người bỏ nước ra đi, thành phong trào “thuyền nhân”....
Tại sao không thực hiện được hòa hợp dân tộc để xảy ra những chuyện như vậy?... Phải chăng, nguyên nhân là phía nhà nước miền Bắc sau tháng 4-1975 đã choáng ngợp, không kịp suy nghĩ gì cả. Đến cái mức mà có lãnh đạo cấp cao của đảng cộng sản nói là bây giờ đã hết kẻ thù, vĩnh viễn sẽ không có chiến tranh nữa.
Bài học cải cách ruộng đất ở miền Bắc, thật ra không được ai “rút kinh nghiệm” cả. Tư tưởng giáo điều ý thức hệ tiếp tục, thể hiện ở chuyện “thành phần”. Phân biệt kẻ thắng người thua rất nặng nề. Tư tưởng địch - ta nặng nề. Rồi tư tưởng XHCN đối lập với tư bản. Nhiều cái giáo điều ý thức hệ như vậy nên chuyện hòa hợp là không thể.
Vấn đề khác là trình độ nghiên cứu của nhà nước miền Bắc cũng “rất thấp”. Không nghiên cứu được là sau khi “giải phóng miền Nam”, thì cái gì sửa cái gì giữ, đối xử với các tầng lớp thế nào... Tương tự như suốt mấy mươi năm qua, vẫn tiếp tục loay hoay “trồng cây gì – nuôi con gì”, và “thế nào là thị trường theo định hướng XHCN”…
Xin hãy công bằng trong truyền thông về câu chuyện của 40 năm. Bởi, “Tổ quốc là của mình, dân tộc là của mình, quốc gia là của mình, Việt Nam là của mình, chứ không phải là của riêng của người cộng sản hay của bất cứ tôn giáo hay phe phái nào cả... Có một cách nhìn méo mó từ phía một số người cộng sản, rằng yêu nước và yêu chủ nghĩa xã hội là đúng, còn những người yêu nước khác mà không yêu chủ nghĩa xã hội thì không yêu nước đủ như mình... Có hàng trăm con đường yêu nước khác nhau. Tổ quốc Việt Nam không của riêng một đảng, một phe phái, tôn giáo nào...” (2)


Monday, April 20, 2015

Khi nào thì bắt khẩn cấp?

Mãi đến ngày 20-4, gia đình của anh Nguyễn Viết Dũng mới biết được “Thông báp về việc bắt khẩn cấp, tạm giữ” hình sự đối với anh Dũng. Lý do bắt khẩn cấp: Gây rối trật tự nơi công cộng xảy ra tại khu vực hồ Hoàn Kiếm (Hà Nội), phạm vào Điều 245, Bộ luật hình sự.



BIỂU TÌNH ÔN HÒA

Sáng ngày chủ nhật 12-4, nhóm anh Nguyễn Viết Dũng xuất hiện trong cuộc biểu tình bảo vệ cây xanh tại khu vực bờ hồ Hoàn Kiếm.

Hình ảnh được phổ biến trên các mạng xã hội cho thấy có khoảng 4-5 thanh niên mặc áo màu đen, trên ngực trái có in biểu tượng hình con ó màu vàng. Phía sau chiếc áo là một biểu tượng chữ V bao quanh bởi một vòng tròn màu đỏ, cùng với thông điệp bằng tiếng Anh:

“People should not be afraid of their governments. Governments should be afraid of their people” – “Nhân dân đừng sợ nhà cầm quyền quyền. Nhà cầm quyền phải sợ Nhân dân”.

KHI NÀO THÌ ĐƯỢC “BẮT KHẨN CẤP”?

Tham khảo Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 (BLTTHS), tại điều 81 (chương VI - Quy định những biện pháp ngăn chặn) có nêu rõ: Trong những trường hợp sau đây thì được bắt khẩn cấp:

a) Khi có căn cứ để cho rằng người đó đang chuẩn bị thực hiện tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; b) Khi người bị hại hoặc người có mặt tại nơi xảy ra tội phạm chính mắt trông thấy và xác nhận đúng là người đã thực hiện tội phạm mà xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn; c) Khi thấy có dấu vết của tội phạm ở người hoặc tại chỗ ở của người bị nghi thực hiện tội phạm và xét thấy cần ngăn chặn ngay việc người đó trốn hoặc tiêu hủy chứng cứ.

Trong mọi trường hợp, việc bắt khẩn cấp phải được báo ngay cho Viện Kiểm sát Nhân dân (KSND) cùng cấp bằng văn bản kèm theo tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp để xét phê chuẩn. Trong trường hợp cần thiết, Viện KSND phải trực tiếp gặp, hỏi người bị bắt trước khi xem xét, quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn.

Trong thời hạn 12 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị xét phê chuẩn và tài liệu liên quan đến việc bắt khẩn cấp, Viện KSND phải ra quyết định phê chuẩn hoặc quyết định không phê chuẩn. Nếu Viện KSND quyết định không phê chuẩn thì người đã ra lệnh bắt phải trả tự do ngay cho người bị bắt.

VIỆN KIỂM SÁT PHÊ CHUẨN CHƯA?

Theo trình tự của pháp luật về tố tụng hình sự, cá nhân người viết bài này hiểu rằng việc bắt khẩn cấp chỉ coi là hoàn thành (đúng pháp luật), khi việc bắt khẩn cấp đó được Viện kiểm sát phê chuẩn (ở đây chưa bàn đến bản thân quyết định phê chuẩn của Viện kiểm sát có phê chuẩn đúng hay không).

Việc một người nào đó bị bắt thuộc một trong các trường hợp khẩn cấp mà chưa được Viện kiểm sát phê chuẩn thì việc bắt đó là chưa hoàn thành, mà chỉ được coi là các bước thực hiện việc bắt khẩn cấp.

Việc bắt người đó chưa hoàn thành thì chưa thể áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giữ tiếp theo đối với họ theo khoản 1 Điều 83 và Điều 86 BLTTHS dù cơ quan điều tra có cho là cần thiết – bởi theo Hiến pháp là trái pháp luật.

Việc bắt nói chung và bắt khẩn cấp nói riêng trong điều tra hình sự không chỉ là biện pháp ngăn chặn tố tụng mà còn là hoạt động tác nghiệp điều tra của cơ quan điều tra. Do đó bắt khẩn cấp phải đảm bảo ba yêu cầu của hoạt động tác nghiệp điều tra là: Yêu cầu về chính trị, yêu cầu về pháp luật, yêu cầu về nghiệp vụ.

Yêu cầu về nghiệp vụ trả lời câu hỏi bắt ai, khi nào, bắt thế nào, thì yêu cầu pháp luật đặt ra là bắt theo trường hợp nào, thủ tục thế nào, thời điểm nào hoàn thành. Việc bắt khẩn cấp chỉ coi là đạt được khi đảm bảo 3 yêu cầu đó.


Ở đây một phần nhỏ trong các yêu cầu pháp luật đặt ra cho cơ quan điều tra là đối với trường hợp đã bắt khẩn cấp về xét cần phải tạm giữ thì thời hạn đề nghị Viện kiểm sát phê chuẩn phải trong hạn dưới 24 giờ. Nếu Viện kiểm sát phê chuẩn thì ra lệnh tạm giữ, nếu không phê chuẩn thì trả tự do. Chính vì vậy tại khoản 4 Điều 81 BLTTHS mới giành cụm từ “báo ngay”.


Sunday, April 19, 2015

Cộng sản: thích thì nói...


Trấn an công nhân đình công biểu tình ở quận BìnhTân, TP.HCM, thứ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội – ông Doãn Mậu Diệp cho rằng “không gì phải kích động”, vì hoàn toàn có thể “điều chỉnh” bằng các văn bản dưới luật.
Nếu xét về văn bản quy phạm pháp luật, trấn an như lời ông Diệp là sai, vì các văn bản dưới luật không được quyền điều chỉnh thay đổi nội dung của luật. Tuy nhiên trên thực tế, ông Diệp lại… nói “trúng phóc”.
Điều chỉnh trợ cấp bảo hiểm xã hội
Bộ LĐTBXH vừa ban hành Thông tư 05/2015/TT-BLĐTBXH hướng dẫn điều chỉnh lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội (BHXH) và trợ cấp hàng tháng theo Nghị định 09/2015/NĐ-CP.
Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội và trợ cấp hàng tháng được điều chỉnh như sau:
Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp hàng tháng từ tháng 01/2015
=
Mức lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội, trợ cấp tháng 12/2014
x 1,08
Ví dụ 1: Ông A, có mức lương hưu tháng 12/2014 là 4.011.800 đồng/tháng.
Mức lương hưu của ông A từ tháng 01/2015 được điều chỉnh như sau:
4.011.800 đồng/tháng x 1,08 = 4.332.744 đồng/tháng
Ví dụ 2: Ông B là cán bộ xã nghỉ việc, hưởng trợ cấp hàng tháng theo quy định tại Nghị định số 09/1998/NĐ-CP có mức trợ cấp tháng 12/2014 là 1.493.000 đồng/tháng.
Mức trợ cấp hàng tháng của ông B từ tháng 01/2015 được điều chỉnh như sau:
1.493.000 đồng/tháng x 1,08 = 1.612.440 đồng/tháng
Ví dụ 3: Ông C, nghỉ việc hưởng trợ cấp mất sức lao động hàng tháng, có mức trợ cấp tháng 12/2014 là 1.621.200 đồng/tháng.
Mức trợ cấp mất sức lao động của ông C từ tháng 01/2015 được điều chỉnh như sau:
1.621.200 đồng/tháng x 1,08 = 1.750.896 đồng/tháng
Các chế độ quy định tại Thông tư này có giá trị hồi tố, được thực hiện kể từ ngày 01 tháng 01 năm 2015.
Công văn hướng dẫn… Thông tư
Cũng liên quan vấn đề lương hưu, trước Thông tư 05/2015/TT-BLĐTBXH đúng 30 ngày, Bộ LĐTBXH ban hành Thông tư 03/2015/TT-BLĐTBXH “Quy định mức điều chỉnh tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đã đóng bảo hiểm xã hội”.
Lưu ý là mặc dù ở điều 1 của Thông tư 03/2015/TT-BLĐTBXH cho biết đối tượng áp dụng, như sau: 1. Đối tượng điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 83/2008/NĐ-CP là người lao động đang tham gia BHXH hoặc đang bảo lưu thời gian tham gia BHXH, có thời gian đóng BHXH theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, hưởng lương hưu, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần hoặc bị chết mà thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần, từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đến ngày 31 tháng 12 năm 2015.
2. Đối tượng điều chỉnh thu nhập tháng đã đóng BHXH theo quy định tại Điều 2 Nghị định số 134/2008/NĐ-CP là người lao động tham gia BHXH tự nguyện hưởng lương hưu, trợ cấp một lần khi nghỉ hưu, BHXH một lần hoặc bị chết mà thân nhân được hưởng trợ cấp tuất một lần, từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đến ngày 31 tháng 12 năm 2015.
Tuy nhiên việc áp dụng Thông tư 03/2015/TT-BLĐTBXH, lại thực hiện theo nội dung của… Công văn 538/BHXH-CSXH năm 2015 “hướng dẫn thực hiện điều chỉnh tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đã đóng BHXH theo Thông tư 03/2015/TT-BLĐTBXH” do Bảo hiểm xã hội Việt Nam ban hành.
Theo đó, đối tượng thuộc diện áp dụng điều chỉnh tiền lương, tiền công đã đóng BHXH để làm căn cứ tính hưởng các chế độ BHXH, gồm: Người lao động đang đóng BHXH bắt buộc theo chế độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định (kể cả người tự đóng tiếp BHXH theo quy định); người tham gia BHXH bắt buộc đang bảo lưu thời gian đóng BHXH (kể cả người lao động chờ đủ tuổi đời để hưởng chế độ hưu trí hàng tháng).
BHXH bắt buộc” theo quy định tại Điều 3 Luật BHXH, là loại hình BHXH mà người lao động và người sử dụng lao động bắt buộc phải tham gia. BHXH tự nguyện là người lao động tự nguyện tham gia, được lựa chọn mức đóng và phương thức đóng phù hợp với thu nhập của mình để hưởng BHXH. Khi hết thời gian đóng BHXH bắt buộc mà người lao động chưa đủ số năm được hưởng chế độ nghỉ hưu thì có thể đóng BHXH tự nguyện để được hưởng chế độ khi nghỉ hưu.

Trong những rối rắm từ ngữ nói trên, có thể tóm tắt rằng: nếu ông chủ doanh nghiệp đóng BHXH bắt buộc cho người lao động không theo đúng quy định của pháp luật lao động, như công nhân làm đã 1 năm, nhưng chủ doanh nghiệp mới đóng có… 10 tháng, thì rốt cuộc người lao động ấy cũng không thể được hưởng lợi ích của bất kỳ điều gì trong những văn bản dạng “điều chỉnh trợ cấp xã hội”, “điều chỉnh tiền lương, tiền công và thu nhập tháng đã đóng BHXH” mà Bộ LĐTBXH ban hành – kiểu như trấn an nói trên của thứ trưởng Doãn Mậu Diệp.

Wednesday, April 1, 2015

Nguyễn Thái Bình, Khủng bố hay anh hùng?

Nguyễn Thái Bình, Khủng bố hay anh hùng?

Trần Giao Thủy
Hãng Pan Am, chuyến bay số 841 từ San Francisco đến Sài Gòn với các tuyến dừng bao gồm Honolulu, Guam và Manila.Hãng Pan Am, chuyến bay số 841 từ San Francisco đến Sài Gòn với các tuyến dừng bao gồm Honolulu, Guam và Manila.
Trong cuốn sách mới hoàn tất của mình, Bầu trời là của Chúng ta: Tình yêu và Khủng bố trong Thời đại Hoàng kim của Không tặc, Brendan I. Koerner kể lại câu chuyện về thời kỳ hỗn loạn những năm cuối 1960, đầu 1970, khi các chuyến bay thường xuyên bị khủng bố bởi những kẻ cùng đường và hoang tưởng. Trước khi xuất bản cuốn sách của mình vào ngày 18 tháng Sáu, Koerner mỗi ngày lại viết về hồ sơ của một không tặc. Tạp chí Slate trích đăng lại 12 hồ sơ này.

Năm 2002 Bin Laden trong lá thư ngỏ gởi Hoa Kỳ (“Letter to America”) nêu rõ lý do tại sao không tặc Al Qaeda đã tấn công Tháp Đôi tại New York ngày 11 tháng 9, 2001 vì
  • Hoa Kỳ đã hỗ trợ Israel (Do Thái),
  • Hoa Kỳ đã hỗ trợ cho “các cuộc tấn công chống lại người Hồi giáo” ở Somalia,
  • Hoa Kỳ đã hỗ trợ các “tội ác chống lại người Hồi giáo”của Nga ở Chechnya,
  • Các chính phủ thân Mỹ ở Trung Đông (tay sai của Mỹ) đi ngược lại lợi ích người Hồi giáo,
  • Hoa Kỳ đã hỗ trợ Ấn Độ “đàn áp chống lại người Hồi giáo” ở Kashmir,
  • Sự hiện diện của quân đội Mỹ tại Saudi Arabia, và
  • Hoa Kỳ cấm vận Iraq.
Kết quả trực tiếp của cuộc khủng bố 911 năm 2001 tại New York đã là sự kiện lịch sử thế giới, nhiều người biết đến; tuy nhiên, phản ứng và phương án của chính phủ toàn cầu trước thách đố của khủng bố đến nay vẫn tiếp tục phát triển để thích ứng với biến động ở Montreal, Ottawa, Sydney, Paris, Nigeria… vì đe dọa của ISIS, Boka Haram, và của mọi loại khủng bố khác.
Ba mươi năm trước đó, 1972, ở miền Nam Việt Nam, hai phần ba lính Mỹ đã rút đi, còn lại khoảng 133.000 người tham chiến. 21 Tháng Hai, 1972 Nixon đến Bắc Kinh gặp Mao Trạch Đông. Mùa hè đỏ lửa 1972 ở miền Nam Việt Nam bắt đầu bằng cuộc rút quân của quân đồng minh Hoàng gia Thái Lan vào tháng Ba và chiến thắng của quân Công sản Bắc Việt ở mặt trận Quảng Trị, 30 tháng 3 đến 1 tháng 5.
Trong lúc tin chiến trường ở Việt Nam vẫn là tin tức thường ngày của giới truyền thông thế giới, một sinh viên 24 tuổi, vừa tốt nghiệp đại học, đã gởi một lá thư ngỏ đến “những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới”(1).
Ngày 1 tháng 7, 1972, trong lá thư ngỏ gởi đến “những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới” tác giả đã nêu ra những tội ác của chính phủ Mỹ chống lại quê hương của ông. Trong lá thư đó, ông cho rằng chính phủ Mỹ đã dùng Hiệp Định Geneva “làm bức bình phong che dấu cho sự can thiệp và sự xâm lược, cho các mục đích và tội ác của của Mỹ ở Việt Nam.” Tác giả mô tả những tội ác của quân đội Mỹ tại Việt Nam, và để ngăn chặn điều này, tác giả cho rằng người Việt Nam phải đứng lên chống lại. Tác giả viết: “Chúng tôi thà hy sinh tất cả còn hơn là để mất nền độc lập và bị bắt làm nô lệ.” Tác giả viết tiếp,

“Tôi biết tiếng nói vì hòa bình của tôi không được nghe, không thể đánh bại tiếng gầm của máy bay B-52, trong các vụ Mỹ đánh bom, trừ khi tôi có hành động quyết liệt thế này. Đây là cuộc đấu tranh đầy khó khăn. Tuy nhiên, quả bom duy nhất của tôi là trái tim tôi; nó có thể nổ tung để kêu gọi tình yêu, niềm tin và hy vọng.”


Tác gỉa bức thư ngỏ gởi “những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới” sinh năm 1948 tại Cần Giuộc, Long An, sau là học sinh trường trung học Petrus Trương Vĩnh ký ở Sài Gòn, đỗ Tú tài II năm 1966 và theo học ở trường Cao đẳng Nông Lâm Súc.
Tháng Ba năm 1968 tác giả “lá thư ngỏ” được Cơ quan Phát triển Quốc tế Hoa Kỳ (USAID) cấp học bổng “lãnh đạo” (Leadership Sholarship) để du học ở Mỹ. Sau một năm học tại Fresno, California, mùa hè 1969, ông chuyển đi Seattle theo học ở khoa Quản trị nghề cá tại Đại học Washington.
GroupII_LAX1968_2803

Sinh viên du học với học bổng Leadership của USAID. Nhóm II vừa đến phi trường Los Angeles, 28 tháng 3, 1972. Nguồn: Tổ chức Sinh viên Học bổng Leadership.Sinh viên du học với học bổng Leadership của USAID. Nhóm II vừa đến phi trường Los Angeles, 28 tháng 3, 1972. Nguồn: Tổ chức Sinh viên Học bổng Leadership.

Trong thời gian du học ở Mỹ, tác giả “lá thư ngỏ” đã tham gia phong trào phản chiến, tổ chức biểu tình, hội họp, diễn thuyết, hội thảo, viết báo (Thời-báo Gà), … chống chiến tranh ở Seattle và nhiều nơi khác. Ông đã nhanh chóng trở thành một sinh viên hoạt động tích cực trong phong trào chống “đế quốc Mỹ xâm lược” ngay trên đất Mỹ và là một trong những sinh viên phản chiến đã bị bắt trong cuộc chiếm đóng Tòa Lãnh sự Việt Nam Cộng hòa tại New York vào tháng 2 năm 1972.
Về sinh viên du học ở Mỹ trước 1975, Ngô Vĩnh Long, chủ biên Thời-báo Gà – cơ quan ngôn luận của tổ chức phản chiến của người Việt Nam tại Mỹ – cho rằng(3)

Quảng cáo Thời-báo Gà ở Bulletin of Concerned Asian Scholars. 1971.Quảng cáo Thời-báo Gà ở Bulletin of Concerned Asian Scholars. 1971.

“There are two different types of Vietnamese students working in this country. First, there are those who come here on private scholarships or on money from their families. Those on private scholarships are subjected to up to a year of investigations by the secret police in Vietnam and by the national police before they are cleared to come to this country. Those who come on their own money are usually rich people and therefore people who are working for the government, so the period of secret police investigation is much shorter.”

Lược dịch:
“Có hai loại sinh viên du học tại Hoa Kỳ, thứ nhất là những sinh viên du học tự túc bằng tiền của gia đình hay có học bổng tư nhân. Những sinh viên có học bổng tư nhân thường bị công an và cảnh sát quốc gia điều tra có khi tới cả năm. Sinh viên đi học tự túc là con cái thành phần giàu có, làm việc cho chính phủ, nên giai đoạn điều tra ngắn hơn nhiều.”

“Second are those who come here on government scholarships, mostly AID scholarships. These people are either sons or daughters of people who work for the government or people who have been in the army or for some other reason are trusted by the Saigon government. Right now, for example, you cannot get out unless you have completed your military duties, and a law passed on October 25, 1969 prohibits any male beyond the age of 18 from leaving the country. So Vietnamese students who come to this country are either from very conservative families or from governmental circles in which they cannot truly express their opinions about what’s happening in Vietnam – about the war.”

Lược dịch:
“Thứ hai là những sinh viên có học bổng của chính phủ, đa số là học bổng [Leadership] của USAID. Đây là những con em của những người làm việc cho chính phủ hay đã ở trong quân đội hay vì lý do nào đó được “chính quyền Sài gòn” tin tưởng. Thí dụ, ngay lúc này, không ai có thể xuất ngoại nếu chưa thi hành nghĩa vụ quân sự, và một đạo luật thông qua hôm 25 tháng Mười, 1969 cấm tất cả thanh niên trên 18 tuổi ra nước ngoài. Vì vậy, sinh viên Việt Nam đến đất nước này một là con nhà rất bảo thủ hay hai là thuộc thành phần trong chính phủ, do đó họ không hể thực sự bày tỏ quan điểm của họ về những gì đang xảy ra ở Việt Nam – về cuộc chiến.”

Như vậy, theo phân loại của Ngô Vĩnh Long, có phải tác giả “lá thư ngỏ” thuộc thành phần “con ông cháu cha” hay là người của “chính phủ Sài Gòn” hay ở trong quân đội và “không thể thực sự bày tỏ quan điểm của họ về những gì đang xảy ra ở Việt Nam – về cuộc chiến”?
Ngô Vĩnh Long đã đánh giá quá thấp khả năng trí tuệ và tư duy độc lập của nhóm du học sinh leadership đồng thời võ đoán về nhân thân của họ. Không phải chỉ có những người đã làm việc với Mỹ, và đã được chiếu khán sang Mỹ học nhờ cú điện thoại của bà Đại sứ Maxwell Taylor với một ông Tướng Mỹ như Ngô Vĩnh Long(4) mới có thể tự do bày tỏ quan điểm về cuộc chiến Việt Nam.
Không riêng gì trường hợp của tác giả lá thư ngỏ, hàng trăm sinh viên du học theo chương trình học bổng leadership của USAID thuộc những nhóm sinh viên xuất ngoại từ những năm 1967 đến 1970 là bằng chứng sống phủ nhận giọng điệu tuyên truyền của Ngô Vĩnh Long hồi đầu thập niên 1970.
Trở lại với tác giả “lá thư ngỏ”, sau sự kiện ở New York hồi tháng Hai năm 1972, đến tháng Tư, Cơ quan Di trú và Nhập tịch Mỹ quyết định rằng ông đã không vi phạm những điều kiện cho ông phép theo học tại Mỹ. Ngày 26 tháng 5 năm 1972, ông tốt nghiệp cử nhân Quản trị Nghề cá hạng danh dự tại Đại học Washington. Trong lúc nhận bằng tốt nghiệp tác giả “lá thư ngỏ” định cướp máy vi âm, cướp diễn đàn, nhưng không thành. Sau đó ông đã đứng trên sân khấu, cởi bỏ áo mũ tốt nghiệp dán đầy những khẩu hiểu phản chiến, chống Mỹ và đã được đưa ngay về một văn phòng riêng trong khuôn viên Đại học. Đại úy cảnh sát Đại học, Robert Ingram, nói:

Việt Thái Bình phát truyền đơn phản chiến, áo mũ tốt nghiệp đính đầy khẩu hiệu chống Mỹ. Đại học Washington, ngày 26 tháng 5, 1972. Nguồn: The Skies Belong to UsViệt Thái Bình phát truyền đơn phản chiến, áo mũ tốt nghiệp đính đầy khẩu hiệu chống Mỹ. Đại học Washington, ngày 26 tháng 5, 1972. Nguồn: The Skies Belong to Us

“Ông ấy có vẻ bồn chồn, căng thẳng, và nói rằng có lấy mảnh bằng Nghề cá cũng là vô nghĩa vì nhân dân của ông đang chết mỗi ngày. Và đó là lỗi của Mỹ, mà chúng tôi (Đại học Washington) là một thành phần trong đó.”(5)

Vì sợ sẽ bị trả thù vì những hoạt động phản chiến, trước khi trở về Việt Nam vào đầu tháng Bảy năm 1972 khi không còn chiếu khán du học, tác giả lá thư ngỏ đã gởi hai thùng tư liệu cá nhân lại cho một người bạn ở Seattle, Richard Carbray, cũng là một chí hữu trong phong trào phản chiến, giữ với một bức thư ngắn viết,

“Làm ơn giữ những thứ này giùm tôi. Ngày nào đó khi Thanh bình đến với quê hương tôi và [nếu] tôi vẫn còn sống, tôi sẽ nhờ anh gởi chúng về cho tôi. Trong trường hợp khác (tôi không mong thế), chúng sẽ trở thành những món quà sau cùng cho gia đình tôi.”

Tác giả bức thư ngắn ký tên là Viet Thai-Binh. Hai thùng tư liệu gởi về cho cha mẹ, em, em họ và một người chú ở Sài Gòn gồm những băng nhựa thu lại những bài diễn văn của tác giả, những bài ca, hình ảnh gia đình, thư từ và một số ấn phẩm(6).
Thứ Hai, ngày 3 tháng 7, 1972, Trung tâm Tài nguyên Đông dương ở thủ đô Washington nhận được một phong thơ, đóng dấu bưu điện Hawaii (HI), bên trong là 2 bức thư ngỏ, đánh máy, đề ngày 1 tháng 7, 1972, gởi đến Tổng thống Mỹ Richard Nixon và bức thứ hai gởi “những người yêu chuộng hòa bình và công lý trên thế giới”, tác giả viết

“going home to stand in the line of Vietnamese people in the struggle of national salvation, to take part in the resistance against the U.S. aggression, to confirm the justness of our cause, to dedicate to the freedom fighters of Vietnam, living and dead, to strengthen the confidence in the eluctable victory of our people.”

Lược dịch”
“Trở về quê nhà để đứng trong hàng ngũ của người Việt trong cuộc đấu tranh cứu nước, tham gia kháng chiến chống xâm lược Mỹ, để khẳng định tính đúng đắn của chính nghĩa của chúng tôi, để hiến dâng cho các chiến sĩ tự do của Việt Nam, những người còn sống và đã chết, để củng cố niềm tin về một chiến thắng có thể giành được của nhân dân [Việt Nam] chúng tôi.”
Trong một khoảng trống đã chừa sẵn dưới đoạn văn trên là một hàng chữ viết tay bằng bút màu xanh, “I direct PANAM 841 to HANOI.” [Tôi sẽ ra lệnh cho PanAm 841 bay ra Hà Nội.”

Nguồn: “Viet Thai-Binh open letter regarding resistance to the Vietnam War, July 1, 1972”, University of Washington Libraries. Special Collections, PNW03322Nguồn: “Viet Thai-Binh open letter regarding resistance to the Vietnam War, July 1, 1972”, University of Washington Libraries. Special Collections, PNW03322

Ngoài lá thư chính, tác giả còn gởi kèm bức thư ngắn nhờ Trung tâm Tài nguyên Đông dương giúp phát hành lá thư ngỏ; người phát ngôn của Trung tâm Tài Nguyên Đông dương cũng xác nhận Việt Thái Bình chính là bút danh gần đây của sinh viên Nguyễn Thái Bình.
Trung tâm Tài nguyên Đông dương theo mô tả của tờ Washington Post là “Một dịch vụ thông tin liên minh với các phong trào phản chiến” và theo tạp chí Times thì đó là “một nhóm phản chiến có ảnh hưởng … vận động với Quốc hội để ngăn chặn viện trợ cho chiến tranh” mà Fred Branfman và Gareth Porter là hai người đồng sáng lập. Một số khác cho là Indochina Resource Center đúng như định nghĩa của tờ Post và tạp chí Times, nhưng đúng hơn nữa thì đó chính là cơ quan vận động cho chính phủ Pol Pot trong giai đoạn diệt chủng ở Cambodia (1975-79)
Cả hai, Fred Branfman và Gareth Porter, không những chỉ là những người ủng hộ và biện giải cho Khmer Đỏ mà cho đến nay không bao giờ xin lỗi về quan điểm của họ về vấn đề này(7).
Chuyến bay đưa Nguyễn Thái Bình về Việt Nam, ngày 1 tháng 7, 1972 là chiếc Boeing 747 mang số 841 của hãng hàng không Pan-American (Pan-Am) với 136 hành khách và 17 nhân viên phi hành đoàn khởi hành từ San-Francisco qua những trạm Honnolulu, Guam, rồi Manila đến Sài Gòn.
Trên chặng đường sau cùng, Manila-Saigon, 45 phút sau khi máy bay rời Manila, Nguyễn Thái Bình đã bắt cô tiếp viên phi hành May Yuen, 23 tuổi, người Hong Kong làm con tin, giữ ở phần đuôi của phi cơ và gởi hai mẩu tin nhắn với phi công trưởng Eugene Vaughn hăm dọa sẽ cho bom nổ tung phi cơ nếu không bay ra Hà Nội. Ngoài những tin nhắn, Nguyễn Thái Bình đã dùng điện thoại ở cuối máy bay để nói chuyện bằng tiếng Anh lưu loát với viên phi công trưởng(8). Trưởng đoàn tiếp viên, William Wilcox, cho biết một phần trong tin nhắn gởi phi công Eugene Vaughn, Nguyễn Thái Bình viết “sự trả thù sẽ thích đáng với những gì mà người Mỹ đã làm ở Việt Nam”. William Wilcox cho biết thêm, Nguyễn Thái Bình còn đem theo khoảng 60 đến 70 tấm hình hoạt động phản chiến ở Mỹ, nhiều tấm trong đó là hình của Nguyễn Thái Bình đang đọc diễn văn(9).
Trong tin nhắn thứ nhất Nguyễn Thái Bình viết,

“Tôi làm điều này để trả thù. Máy bay ném bom của các ông đang gây thương tật và giết nhân dân của chúng tôi ở nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông sẽ bay tôi ra Hà Nội và chiếc máy bay này sẽ bị phá hủy khi chúng ta đến đó.”

Phi công chuyến bay vẫn không thay đổi đường bay, Nguyễn Thái Bình gởi tin nhắn thư hai vấy máu,

“Ông đã không tuân theo đòi hỏi đầu tiên của tôi. [Thư vấy] máu cho thấy tôi không đùa về việc được đưa về Hà Nội.”

Với cớ để đổ thêm nhiên liệu và phải liên lạc với giới hữu trách miền Bắc trước khi bay qua vùng phi quân sự, chuyến bay Pan-Am 841 đã đáp xuống phi trường Tân Sơn Nhất(10).


Một trong nhiều bản tin cướp máy bay ngày 3 tháng 7, 1972 đăng trên báo chí Mỹ cùng lúc với tin chiến trường Quảng Trị. Nguồn: Sarasota Herald-Tribune, July 3, 1972.Một trong nhiều bản tin cướp máy bay ngày 3 tháng 7, 1972 đăng trên báo chí Mỹ cùng lúc với tin chiến trường Quảng Trị. Nguồn: Sarasota Herald-Tribune, July 3, 1972.

Đã quyết định và đã yêu cầu giới quân sự phi trường không để phi cơ cất cánh trong bất cứ trường hợp nào, phi công trưởng Eugene Vaughn rời phòng lái đi về phía đuôi máy bay để tiếp tục thương lượng với Nguyễn Thái Bình đang giữ con tin, trên tay cầm một gói bọc giấy nhôm, tay kia cầm dao. Đó là lần đầu tiên viên phi công đối diện với Nguyễn Thái Bình, một thanh niên mảnh khảnh, khoảng 1m50, chừng 50Kg. Nguyễn Thái Bình hô lên, “Không được đến gần hơn nữa. Nếu ông tiến tới, tôi sẽ cho bom nổ.” Tin rằng Nguyễn Thái Bình chỉ tháu cáy với bọc bom giả, Vaughn nói, “Chúng ta có vấn đề về ngôn ngữ; Tôi không hiểu anh rõ lắm”, và tiến đến gần Nguyễn Thái Bình hơn. Vaugh, cao khoảng 1m80, nặng hơn 90Kg, lấy cơ hội đó ra tay, với sự trợ giúp của hai hành khách khác, vật và khóa cổ, giữ Nguyễn Thái Bình, vẫn vùng vẫy, trên sàn máy bay, cùng lúc Vaugh hét lên, “Giết thằng chó đẻ đi.” Người hành khách, mà viên phi công đã trao lại khẩu súng lục 9 ly gởi ông khi lên máy bay, đứng cạnh, lúc đó mới nã 5 phát đạn vào ngực của Nguyễn Thái Bình.
Khi nghe tiếng súng, tưởng rằng bom đã nổ, nhân viên phi hành đoàn mở cửa, bung thang cấp cứu để hành khách trượt thoát ra khỏi máy bay. Người ta tin rằng người bắn súng là một cựu cảnh sát viên sang Việt Nam nhận việc giữ an ninh cho một hãng của của Mỹ. Dao của Nguyễn Thái bình không gây thương tích mà chỉ làm rách áo của Eugene Vaughn; và quả bom Nguyễn Thái Bình vẫn ôm đã không nổ vì đó chỉ là những quả chanh bọc giấy nhôm.
Sau đó Eugene Vaughn quăng xác của Nguyễn Thái Bình qua cửa sau của phi cơ xuống đường bay. “Nhìn thấy nhân vật đó trên máy bay tôi rất là bất mãn,” viên phi công trưởng chuyến bay Pan Am 841 rất tiếc vụ cướp máy bay đã phải diễn tiến như thế nhưng

“đó không phải là hành động vì giận dữ. Tình cảnh đã quá là gai mắt. Hành khách đã phải chịu đựng nỗi sợ kinh hoàng. Tôi cảm thấy đó là một sự xúc phạm với loài người và tôi phải đưa hắn ra khỏi hiện cảnh.”(11)

Ngày thứ hai, trên chuyến bay về Việt Nam, Nguyễn Thái Bình viết một lá thư khác gởi cho gia đình(12):

Lá thư sau cùng của Nguyến Thái Bình. Nguồn: Tạp chí điện tử Hồn ViệtLá thư sau cùng của Nguyến Thái Bình. Nguồn: Tạp chí điện tử Hồn Việt

“Guam ngày 2/7/1972,[…]Sự đau khổ của đồng bào, quê hương suốt mấy chục năm qua dưới bom đạn đốt phá không gì sánh nổi. Đau khổ này của ba má ví bằng sự đớn đau của bao triệu cha mẹ Việt Nam mất đi đứa con yêu hay một ngày nào đó con cũng sẽ vùi thân trong tủi nhục mà không có một chút lý tưởng, nghĩa lý cho sự hy sinh.
Hôm nay, vì chính nghĩa, vì sự sinh tồn của cả một dân tộc, vì chân lý, lẽ công bằng, nhân đạo mà con có hy sinh thì cái chết này không phải là một sự chấm dứt mà là khởi đầu cho sự hồi sinh của các thế hệ tương lai.
Đường con đi nhất định theo chân anh hùng Việt Nam đi vào thanh sử chớ không bám gót ngoại xâm làm thân tôi đòi, nô lệ. Con hy vọng ba má đặt mình vào vị trí của cha mẹ Lê Lợi, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi thì sự mất mát này không làm sự khổ đau, thương tiếc quá lớn, mà sẽ giảm thiểu để còn vun bồi, xây dựng cho lớp đàn em kế tiếp (Vì phi cơ xóc viết không rõ, xin ba má hiểu cho).
Con yêu của ba máAnh của các em thương.”
Trong lá thư cuối cùng, Nguyễn Thái Bình đã sánh mình với Lê Lợi, Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Trãi.
Những sự kiện theo sau vụ cướp máy bay

Một nhóm phản chiến tổ chức lễ tang cho Nguyễn Thái Bình ở Miami Beach Convention Center. Nguồn: APMột nhóm phản chiến tổ chức lễ tang cho Nguyễn Thái Bình ở Miami Beach Convention Center. Nguồn: AP

Nhiều người phản chiến ở Mỹ công khai thương nhớ Nguyễn Thái Bình; một vài người trong số đó đã đột nhập vào nhà của phi công Eugene Vaughn để lại lời đe dọa viết bằng máu thú vật,

“Con lợn Eugene Vaughn phạm tội giết người. Sẽ bị trừng phạt sau. Nguyễn Thái Bình muôn năm. Chiến thắng cho nhân dân Việt Nam. Chết đi bọn xâm lăng Mỹ.”(13)

Tương tự, ở Canada một nhóm người trong tổ chức “Hội Việt Kiều Yêu Nước tại Canada” đã dự định chiếm tòa lãnh sự Mỹ tại Montreal để trả thù cho Nguyễn Thái Bình. Kế hoạch này đã không thành vì bất đồng trong nội bộ(14).
Mặt khác theo tác giả cuốn “Skyjacker of the Day”, Brendan I. Koerner thì
“Khi trở về Mỹ, rất nhiều người ca ngợi Vaughn như một anh hùng, vì đây là một thời điểm mà công chúng tại Mỹ đã thực sự quá chán nản với nạn dịch cướp máy bay. Cướp máy bay đã thực sự hết thời. Nó không còn là lạ hay buồn cười khi người ta bị bắt cóc. Thực sự đã có nhiều trường hợp chết người và người ta đã phải chịu có rất nhiều khủng bố.
Đó là một bước ngoặt trong cơn đại dịch (cướp máy bay), khi nó đá quá rõ ràng là công chúng không còn chấp nhận điều này nữa.”(15)

Lể tang của Nguyễn Thái Bình ở Cần Giuộc, Long An, ngày 6 tháng 7, 1972. Nguồn: APLể tang của Nguyễn Thái Bình ở Cần Giuộc, Long An, ngày 6 tháng 7, 1972. Nguồn: AP

Gân 38 năm sau, ngày 23 tháng 2, 2010 ông Nguyễn Minh Triết, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam, đã ký quyết định số 212/QĐ-CTN về việc truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân(16). Trong danh sách đính kèm ở phần II, “Truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kháng chiến chống Mỹ”, cùng với Nguyễn Văn Lém (Bảy Lớp), số 72 là

“Liệt sỹ Nguyễn Thái Bình, nguyên Sinh viên Việt Nam du hoc tại Mỹ. Quê: xã Tân Kim, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An.”

vậy, hiện nay nước CHXHCN Việt Nam cũng đã tham gia một số công ước quốc tế trên lĩnh vực chống khủng bố và chống tài trợ khủng bố như:
  • Công ước Tokyo về các tội danh và hành vi phạm tội trên máy bay (1963),
  • Công ước Lahay về chống sở hữu máy bay bất hợp pháp (1970),
  • Nghị định thư Montreal về ngăn chặn hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng (1971),
  • Nghị định thư Montreal về ngăn chặn hành vi bạo lực bất hợp pháp tại các sân bay phục vụ công dân quốc tế (1988),
  • Công ước New York về phòng chống tội ác đối với những người được hưởng quy chế bảo vệ quốc tế, bao gồm cả nhà ngoại giao (1873),
  • Nghị định thư Rome về ngăn chặn hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn các công trình xây dựng đáy biển (1988),
  • Công ước quốc tế về ngăn chặn tài trợ cho khủng bố (1999),
  • Công ước Liên hiệp quốc (LHQ) về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (2000),
  • Công ước LHQ về chống tham nhũng (2003),
  • Công ước ASEAN về chống khủng bố (2007).
Trong bài “Khủng bố hàng không quốc tế là một loại hình của khủng bố quốc tế” đăng Trên Tạp Chí Khoa học Pháp luật Số 8/2002, tác giả Nguyễn Thị Yên viết,

“…chúng ta có thể khẳng định rằng: Khủng bố hàng không quốc tế là các hành vi khủng bố quốc tế có liên quan tới các loại hình hoạt động của hàng không dân dụng quốc tế.
Khủng bố hàng không quốc tế được xem là hành vi cực kỳ nguy hiểm cho xã hội, là một trong những loại hình nghiêm trọng nhất của khủng bố quốc tế.”

Và Điều 230a. Tội khủng bố ở chương Chương XIX, Các Tội Xâm Phạm An Toàn Công Cộng, Trật Tự Công Cộng, trong Bộ luật Hình sự Việt Nam 15/1999/QH10, sửa đổi bổ sung 2009/QH12 ngày 19/6/2009 viết,

1. Người nào nhằm gây ra tình trạng hoảng sợ trong công chúng mà xâm phạm tính mạng của người khác hoặc phá hủy tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ mười năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình.2. Phạm tội trong trường hợp xâm phạm tự do thân thể, sức khỏe hoặc chiếm giữ, làm hư hại tài sản của cơ quan, tổ chức, cá nhân, thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.3. Phạm tội trong trường hợp đe dọa thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều này hoặc có những hành vi khác uy hiếp tinh thần, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.4. Người phạm tội còn có thể bị phạt quản chế, cấm cư trú từ một năm đến năm năm, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.
Đến năm 2013 đã có “Luật phòng chống khủng bố” mã văn bản là 28/2013/QH13, ban hành ngày 12/06/2013 và có hiệu lực từ ngày 01/10/2013. Ở Điều 3, phần giải thích từ ngữ, định nghĩa “Khủng bố” có đoạn

1. “là một, một số hoặc tất cả hành vi sau đây của tổ chức, cá nhân nhằm chống […] tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế, […] hoặc gây ra tình trạng hoảng loạn trong công chúng:
a) Xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể hoặc đe dọa xâm phạm tính mạng, uy hiếp tinh thần của người khác;

Như vậy, người khủng bố hàng không quốc tế, có hành vi cực kỳ nguy hiểm cho xã hội, một trong những loại tội phạm nghiêm trọng nhất của khủng bố quốc tế vẫn có thể là anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của nước CHXHCN Việt Nam.
© 2015 DCVOnline
-----------------------------------------------------------------------------------------------------------------
(1) Viet Thai-Binh, “Viet Thai-Binh open letter regarding resistance to the Vietnam War, July 1, 1972”, University of Washington Libraries. Special Collections, PNW03322
(2) TTXVN, “Long An kỷ niệm ngày mất của Nguyễn Thái Bình”, Tạp chí Cộng Sản, 1/7/2012
(3) Ngo Vinh Long, Vietnamese Students and the Center, Bulletin of Concerned Asian Scholars, Vol. 3. No. 2. February 1971, p.32-34.
(4) Chris Norlund, “The First Vietnamese To Attend Harvard”, Migration Letters, Transnational Press London, UK Vol. 2 (2005), Issue 1 (April), p.64-82
(5) Robert L. Campbell Washington (AP), “Antiwar Group Sends Letters To Nixon Allegedly From Hijacker”, The Danville Register from Danville, Virginia, July 4, 1972 · Page 6
(6) AP, Slain Hijacker Of Jet To Hanoi Quoted As Saying ‘Only Wanted Peace’”, The Danville Register from Danville, Virginia, July 4, 1972 · Page 6
(7) The Scrapbook, “Indochina Resource Center. Flacking for Polpot”, The Weekly Standard, OCT 20, 2014, Vol. 20, No. 06
(8) Tracy Wood, Ludington Daily News, Michigan, Monday, July 3, 1972; AP, Sarasota Herald-Tribune, July 3, 1972.
(9) Bangor Daily News, July 3, 1972.
(10) Brendan I. Koerner “Skyjacker of the Day”, trích từ The Skies Belong to Us: Love and Terror in the Golden Age of of Hijacking, Broadway Books, Jun 17 2014 - http://skyjackeroftheday.tumblr.com/
(11) The Bulletin. Juky 3, 1972.
(12) Trầm Hương, “Những người con gái trong đời Nguyễn Thái Bình”. Tạp chí điện tử Hồn Việt. Truy cập 16/02/2015. - http://honvietquochoc.com.vn/bai-viet/895-nhung-nguoi-con-gai-trong-doi-nguyen-thai-binh-.aspx
(13) Lewiston Morning Tribune, Phoenix, AZ, July 7, 1972.
(14) Trần Giao Thủy, “Chuyện kể trước năm Mùi”, nghe chuyện của người trong cuộc, đầu tháng Hai, 2015.
(15) Thom Patterson, “Skyjacked: A nation with no airline security”, CNN, June 24, 2013.“Fatal Order Wins Praise”, Spokane Daily Chronicle, August 10, 1972. -http://www.cnn.com/2013/06/24/travel/hijacking-book-qa/
(16) “Danh sách truy tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân”, Báo QĐND Online, 26/03/2010 - http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-vn/61/43/trong-nuoc/danh-sach-truy-tang-danh-hieu-anh-hung-luc-luong-vu-trang-nhan-dan/107247.html

BÍ THƯ THÀNH ỦY HÀ NỘI TỪ CHỨC



Tin từ văn phòng Trung ương đảng, vào sáng sớm hôm nay, thứ tư 01-04-2015, ông Phạm Quang Nghị đã đồng ý về nguyên tắc bàn giao các công việc quản lý ở Thành ủy Hà Nội cho một nhân vật chưa được công bố danh tính.

Được biết đây là một động thái khá bất ngờ sau tuyên bố của người đứng đầu chính phủ hôm 31-3 tại buổi làm việc với lãnh đạo một số Bộ, ngành Trung ương nhằm kiểm điểm, đánh giá việc triển khai cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực thuế và bảo hiểm xã hội.

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, nhấn mạnh yêu cầu: “Nhà nước của dân, do dân, vì dân; nhà nước kiến tạo, nhà nước phục vụ chính là ở đây. Bây giờ không phải bằng lời nói nữa mà phải bằng hành động, việc làm cụ thể”.

Hành động cụ thể ở đây, là khởi đầu bằng việc bí thư Thành ủy Hà Nội đã đồng ý từ chức.

Được biết tại Hội nghị giao ban với lãnh đạo các quận, huyện, thị xã quý I/2015 diễn ra sáng 31-3, bí thư Phạm Quang Nghị nói về vụ trảm cây xanh như sau:

“Chúng ta thuộc bài nhưng khi áp dụng từng vụ việc cụ thể thì chưa được nhuần nhuyễn. Mấy ngày qua, tôi đã ngẫm nghĩ hết mọi lý lẽ. Chủ trương đúng như thế mà sao lại gặp phải phản ứng thế này?”.

Ông Phạm Quang Nghị đồng ý rằng cần chấm dứt cái điệp khúc kiểm điểm, rút kinh nghiệm. Vấn đề nữa, dân không tự nhiên gọi việc thay thế cây lần này là chặt hạ. Rồi việc cây vàng tâm thì biến thành cây mỡ nữa. Và còn vô vàn chuyện khuất tất, khó chịu khác trong nhân dân.
Bí thư Thành ủy đã tự kỷ luật mình bằng hình thức rời ghế bí thư và từ bỏ cả chức vụ trong bộ chính trị.

Tính đến đầu giờ sáng hôm nay, 1-4, chưa có tin bí thư Nguyễn Phú Trọng phản ứng ra sao và có chấp nhận để ông Phạm Quang Nghị rời chính trường trong khi đại hội đảng 12 đang vào giai đoạn quyết liệt của cuộc đua đến ghế tổng bí thư, mà ông Phạm Quang Nghị là ứng viên sáng giá.