Sinh năm 1943 tại Quảng Trị, 17 tuổi vào Nam, học trường Mỹ nghệ Thực hành Bình Dương trong bốn năm (1960-64), Lê Văn Tài đi vào thế giới hội hoạ rất sớm. Chưa tốt nghiệp, anh đã tham gia một số cuộc triển lãm hội hoạ ở Sài Gòn. Vừa tốt nghiệp, năm 1964, anh ra Huế, ghi danh học dự bị trường Cao đẳng Mỹ thuật. Nhưng phần lớn thời giờ của anh không phải dành cho việc học. Mà là việc vẽ. Lúc ấy, anh đã được xem là một trong những hoạ sĩ trẻ tài hoa, có một số khám phá về kỹ thuật được giới nghệ sĩ chú ý và ưa thích (1), thường xuyên có tranh triển lãm tại Huế, lúc một mình, lúc với các hoạ sĩ khác, kể cả Đinh Cường, lúc ấy đang dạy học tại trường Cao đẳng Mỹ thuật và đã nổi tiếng trong cả nước. Đầu năm 1968, trong biến cố Mậu Thân, anh bị cộng sản bắt, đưa lên rừng, sung vào bộ đội. Theo lời kể của một người từng gặp Lê Văn Tài ở Hà Nội trước năm 1975, “Nửa năm bắt anh tham gia lao động tăng gia sản xuất, chặt nứa làm lán trại, người ta cũng thấy chán, anh được gửi ra Bắc cho mấy cơ quan văn nghệ quản lý. Chẳng cơ quan nào muốn nhận, anh thành một người vô gia cư, không nghề nghiệp, không một xu dính túi, không một ai quen biết ở đất Hà Nội. Cô Ngọc Trai (2) với tình đồng hương Huế đã đón anh về nuôi ăn ở và xoay xở tìm việc cho anh: vẽ minh hoạ báo, làm bìa sách, vẽ chân dung...” (3) Năm 1975, chiến tranh chấm dứt, Lê Văn Tài về sống ở Đà Nẵng. Vẫn là một tên lính quèn, làm việc trong lãnh vực văn nghệ. Rồi anh có vợ và có con. Thấy không thể thở được trong cái không khí chật chội tù túng ngột ngạt về cả chính trị lẫn văn nghệ như vậy, anh vượt biên. Năm 1981, sau 48 ngày lênh đênh trên biển cả, anh đến được trại tị nạn Hong Kong. Bốn năm sau, anh được định cư tại Úc.
Ở Úc, ngoài việc đi học lại (tiếng Anh, hội hoạ và cuối cùng, Cử nhân Văn khoa ở trường Footscray Institute of Technology – sau, đổi thành Victoria University), anh lại vẽ. Anh có hàng chục cuộc triển lãm tại Úc. Lúc một mình. Lúc với nhiều người khác. Tiến sĩ Annette Van den Bosch, một nhà nghiên cứu mỹ thuật Việt Nam thuộc đại học Monash, Melbourne, cho Lê Văn Tài là một hoạ sĩ-thi sĩ, chuyên vẽ những biểu tượng và những giấc mơ, khác hẳn tranh của các hoạ sĩ khác tại Úc (4). Nhà nghiên cứu Merrill Findlay xem Lê Văn Tài là một khối nguyên hợp (syncreticism), một phức thể đa văn hoá (multicultural complexity), quy tụ nhiều nguồn ảnh hưởng khác nhau, từ Việt Nam đến Chiêm Thành, từ dân gian đến hiện đại và cả hậu hiện đại, bởi vậy, các hình tượng anh sử dụng thường phong phú và phức tạp đến mức không thể nằm lọt hẳn vào một khung tự sự nào cả. Chỉ có một điều bà chắc chắn: nghệ thuật của anh là nghệ thuật Úc hoàn toàn dù giới nghệ thuật chính mạch Úc có nhìn nhận điều đó hay không (5).
Điều đặc biệt là ở Úc, ngoài việc vẽ, Lê Văn Tài còn làm thơ. Lại là thơ tiếng Anh, hơn nữa, là thơ tiếng Anh hay. Trong số các nhà thơ người Việt thuộc thế hệ thứ nhất hiện sống tại Úc, anh là người đầu tiên có thơ được đăng tải trên các tạp chí văn học và các tuyển tập thơ có uy tín nhất của Úc (6). Năm 1989, bài thơ “Separated Lover” của anh được Bộ Nghệ Thuật tiểu bang Victoria chọn in trên các poster lớn, dựng ở các ga xe lửa để mọi người thưởng thức trong chiến dịch đem thơ đến với quần chúng. Năm 1987, anh tự xuất bản tập thơ tiếng Anh đầu tay, Empty Arms Surrounded by Warm Breath với lời giới thiệu của giáo sư Desmond Cahill tại trường Phillip Institute of Technology (sau nhập vào trường RMIT). Mười năm sau, tập thơ tiếng Anh thứ hai của anh, Waiting the Waterfall Falls, được trường Victoria University xuất bản, sau đó, được sử dụng như một tài liệu tham khảo trong khá nhiều môn học liên quan đến văn học Á châu và văn học di dân nói chung. Giáo sư John McLaren, trong lời giới thiệu, cho Lê Văn Tài, khi di cư sang Úc, đã mang cả quê hương theo với anh, hơn nữa, anh còn mở rộng quê hương ấy ra, làm cho mọi người Úc đều biến thành những thành viên trong gia đình của anh: thơ anh, do đó, vừa mang dấu ấn riêng vừa có tính phổ quát rất cao. Ivor Indyk, chủ nhiệm của Heat, một tạp chí văn học nổi tiếng ở Úc, khen đó là một tập thơ hay, ở đó, thơ và thơ cụ thể kết hợp hài hoà với nhau.
Robert Harris, trên tạp chí Overland, xem Lê Văn Tài là một nhà thơ quý giá có nhiều cống hiến cho nền văn học Úc (7). Tiến sĩ Mark Stevenson, hiện dạy ngành Á châu học tại Victoria University, nhận định về tranh và thơ Lê Văn Tài trên báo The Age ở Melbourne như sau:
Hãy tìm đến với Lê Văn Tài, nhà thơ kiêm hoạ sĩ Úc gốc Việt. Cũng như tất cả những tác phẩm nghệ thuật sáng giá, tranh và thơ của ông sẽ làm thay đổi cách nhìn và cách đọc của bạn. Lê Văn Tài là một con người vùng vẫy giữa hai bờ, đứng chênh vênh giữa hình tượng và văn bản, giữa bầu trời và mặt đất, để mang màu đen và màu trắng vào nhau. Ông viết và vẽ những hình ảnh đẹp rợn người. […]
Trong thơ của ông, ông phát ngôn như một sinh vật lạ lùng hiện ra trùng điệp trên những tấm bố vẽ của ông, đó là “con chim di cư”. Ông gieo những hạt mầm từ Việt Nam lên lãnh thổ của chúng ta. Ngôn ngữ của ông tạo nên một sự giao thoa giữa hai quê hương khi ông mở một lộ trình giữa tiếng Anh và tiếng Việt.
Đây là lối hành văn chín muồi và đầy trực cảm của một nghệ sĩ đã bám chặt vào nghiệp viết. Ngôn từ và hình ảnh, ngôn từ và động thái, không lúc nào ngừng di chuyển. Những bài thơ cụ thể vượt ra khỏi thể loại của chúng bởi vì những hình thái mà chúng tạo ra không chỉ đứng yên một chỗ mà lại khiến cho ngôn ngữ chuyển động, xoay mòng (8).
Lê Văn Tài chỉ thực sự bắt đầu làm thơ bằng tiếng Việt từ khi tạp chí Việt ra đời vào năm 1998, tức gần 40 năm sau ngày anh hoàn tất những tác phẩm hội hoạ đầu tiên và hơn 10 năm sau ngày anh có những bài thơ tiếng Anh được xuất bản. Từ đó đến nay, hầu như anh chỉ làm thơ toàn bằng tiếng Việt.
Sinh năm 1953, vượt biên và định cư tại Úc năm 1978, Lê Nguyên Tịnh làm thơ rất sớm, từ những năm đầu tiên của trung học. Tại Úc, anh say sưa hoạt động cộng đồng một thời gian dài đồng thời anh cũng say sưa làm thơ khá nhiều. Thơ anh thường xuyên xuất hiện trên các tờ báo ở Mỹ và ở Úc. Anh đã xuất bản hai tập thơ riêng, Quế Hương (2010) và Dấu chân của gió (2012). Giữa hai tập là một sự chuyển biến ngoạn mục: Quế Hương gồm 87 bài, trong đó, chỉ có năm bài thơ tự do; trong khi đó, tập Dấu chân của gió gồm 99 bài, chỉ toàn là thơ tự do. Không phải chỉ là sự thay đổi về thể thơ mà còn là một sự thay đổi rõ rệt về giọng điệu và cảm xúc: Trước, ngân nga một cách nhẹ nhàng; sau, hơi thơ rắn, cô đúc và, có lúc mạnh mẽ.
Trước, thiên về tình cảm; sau, nặng những thao thức đầy trí tuệ. Tôi rất thích các chuyển biến trong thơ Lê Nguyên Tịnh. Không phải ai cũng có thể tự thay đổi, tự vượt qua chính mình một cách quyết liệt như vậy. Tại sao có sự chuyển hướng như thế? Tôi ngờ là có ảnh hưởng từ việc dịch thơ. Thời gian Lê Nguyên Tịnh chuyển sang thơ tự do cũng là thời gian anh dịch thơ khá nhiều. Anh dịch Nâzim Hikemet, Pablo Neruda, Octavio Paz và Sylvia Plath. Từ việc dịch thơ, anh tiến thêm một bước nữa: sáng tác một số bài thơ bằng tiếng Anh, được đăng tải trên Saturday The Age tại Melbourne. Ngoài ra, có thể có vai trò của Tiền Vệ: Thời gian anh chuyển hướng sang tác cũng là thời gian anh xuất hiện liên tục trên tờ báo mạng Tiền Vệ.
Nếu Lê Văn Tài chủ yếu là một hoạ sĩ, Hoàng Ngọc-Tuấn chủ yếu là một nhạc sĩ. Sinh năm 1956 tại Nha Trang, ngay từ lúc 17, 18 tuổi, anh đã sáng tác nhiều ca khúc cho đến bây giờ, gần 40 năm sau, vẫn được bạn bè và giới am hiểu về âm nhạc Việt Nam ghi nhớ và yêu thích dù chúng chưa bao giờ được xuất bản ở đâu cả. Nhưng con đường âm nhạc của anh bị trắc trở khá lâu. Từ năm 1975, lúc miền Nam bị sụp đổ đến năm 1983, lúc anh vượt biên được sang Phi Luật Tân, thời gian anh ở tù và trốn tránh nhiều hơn thời gian ở nhà.
Chuyến vượt biên đầu tiên của anh là vào năm 1977. Thất bại. Sau đó, giữa năm 1978, anh vượt biên tiếp và lại thất bại, nhưng lần thất bại này thê thảm hơn: anh bị bắt và ở tù gần một năm. Được trả tự do, anh lại vượt biên, lại bị bắt và lại bị ở tù thêm ba năm rưỡi nữa. Xen kẽ giữa hai lần ở tù vì vượt biên ấy là mấy lần ở tù ngắn vì “tội” cư trú bất hợp pháp (không có hộ khẩu). Cuối cùng, may, năm 1983, anh đi thoát, đến được Manila, và mấy tháng sau, được định cư tại Úc.
Chính ở Úc, anh mới có điều kiện quay lại với âm nhạc một cách chuyên chú và có hệ thống hơn. Ở University of New England và sau đó, ở University of New South Wales, ngoài triết học và sư phạm, các ngành chính của anh bao giờ cũng là âm nhạc: từ dân tộc nhạc học (ethnomusiology) đến nhạc Tây phương. Học xong, anh đi dạy. Cũng vẫn về âm nhạc. Trong cái gọi là âm nhạc ấy, hoạt động của anh bao trùm một không gian rất rộng: Anh vừa sáng tác vừa trình diễn. Anh sáng tác cả ca khúc lẫn nhạc hoà tấu với hàng trăm tác phẩm; một số được chọn trình tấu trong các cuộc thi guitar quốc tế. Anh còn là một nghệ sĩ biểu diễn, thường trình tấu guitar tại các đại hội âm nhạc hiện đại. Chưa hết. Anh còn là một người hoạt động tích cực trong lãnh vực sân khấu, lúc với tư cách kịch tác gia, lúc với tư cách khúc tác gia và lúc khác, trong tư cách diễn viên.
Trong “Lời nói đầu” cuốn Văn học hiện đại và hậu hiện đại qua thực tiễn sáng tác và góc nhìn lý thuyết, xuất bản năm 2002 (9), Hoàng Ngọc-Tuấn cho biết, trong lãnh vực nghệ thuật, các đam mê chính của anh được sắp theo thứ tự: âm nhạc, kịch nghệ và văn chương. Trước năm 1998, anh chỉ tham gia vào sinh hoạt văn học một cách hoạ hoằn, chủ yếu tập trung trong hai năm, từ 1987 đến 1988, lúc anh và một số bạn bè làm tờ Tập Họp (ra được ba số), được tạp chí Văn Học ở California khen ngợi là một “tập san văn chương đặc sắc nhất của giới trẻ hải ngoại từ trước tới nay, phong phú về nội dung, cẩn thận mỹ thuật về hình thức” (10). Rồi thôi. Sau đó, theo lời anh, anh chỉ “ngồi bên lề, chủ yếu làm một độc giả, […] cứ đọc mãi văn chương Việt Nam và quốc tế, mà không biết rồi sẽ làm gì.” Giống như trường hợp Lê Văn Tài kể trên, với Hoàng Ngọc-Tuấn, mọi chuyện thay đổi từ khi tạp chí Việt ra đời vào năm 1998: Anh hứng thú lao vào văn học một cách say mê. Anh vừa sáng tác vừa viết nghiên cứu và dịch thuật. Chỉ trong vòng hơn hai năm, số bài tiểu luận của anh đã đủ để in thành một cuốn sách dày cộm trên 600 trang, rất bề thế và công phu, được xem là một dấu mốc trong cuộc hành trình tiếp cận văn học Tây phương của giới cầm bút Việt Nam, trong cũng như ngoài nước. (Còn tiếp một kỳ)
***
Chú thích:
Chú thích:
1.Huỳnh Hữu Uỷ, “Nghệ thuật tạo hình Sài Gòn trước 1975”, Hợp Lưu số 10 (4&5/1993), tr. 133.
2.Tức nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Trai, vợ giáo sư Nguyễn Hồng Phong (có thời làm Viện trưởng Viện sử học Hà Nội).
3.Trong bài “Điều nuối tiếc nhất…”, không thấy ghi tên tác giả: http://yume.vn/news/sang-tac/ban-tron-van-nghe/dieu-nuoi-tiec-nhat.35A9EF2D.html
4.http://adm.monash.edu/records-archives/archives/memo-archive/2004-2007/stories/20050504/vietnam.html
5.http://merrillfindlay.com/?page_id=1486
6.Ví dụ, trong cuốn Sharing Fruit, an Anthology of Asian and Australian Writing do Erica Manh biên tập và được Curriculum Corporation xuất bản năm 1998, được sử dụng như một tài liệu tham khảo về văn học Úc và Á châu cho học sinh tại Úc, chỉ có ba tác giả Việt Nam được chọn: Bảo Ninh (một trích đoạn trong bản dịch cuốn Nỗi buồn chiến tranh), Phạm Thị Hoài (một trích đoạn từ bản dịch cuốn Thiên sứ) và bài thơ “A cow wears the hat, it was me” của Lê Văn Tài. Trong cuốn này, Lê Văn Tài được giới thiệu là “một nhà thơ và một nghệ sĩ tạo hình tài năng, một người Việt Nam đến tị nạn tại Úc từ năm 1984. Ông đã xuất bản hai tập thơ bằng tiếng Anh và thường xuyên triển lãm hội hoạ và điêu khắc. Hiện ông đang sống tại Melbourne.” (tr. 165)
7.In ở bìa sau cuốn Waiting the Waterfall Falls (1997).
8.Mark Stevenson, “Le Van Tai and the Living Page: Review of Waiting the Waterfall Falls”, The Age, ngày 15.3.1997; bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc-Tuấn. In lại trong cuốn Thơ Lê Văn Tài do Nguyễn Hưng Quốc biên tập và giới thiệu (Văn Mới & Tiền Vệ xuất bản, 2013), tr. 447-451.
9.Do nhà Văn Nghệ xuất bản tại California.
10.“Thư Toà soạn”, Văn Học số 41 (số đặc biệt: Giới thiệu những cây bút trẻ ở Úc), tháng 6, 1989, tr. 1.
2.Tức nhà văn Nguyễn Thị Ngọc Trai, vợ giáo sư Nguyễn Hồng Phong (có thời làm Viện trưởng Viện sử học Hà Nội).
3.Trong bài “Điều nuối tiếc nhất…”, không thấy ghi tên tác giả: http://yume.vn/news/sang-tac/ban-tron-van-nghe/dieu-nuoi-tiec-nhat.35A9EF2D.html
4.http://adm.monash.edu/records-archives/archives/memo-archive/2004-2007/stories/20050504/vietnam.html
5.http://merrillfindlay.com/?page_id=1486
6.Ví dụ, trong cuốn Sharing Fruit, an Anthology of Asian and Australian Writing do Erica Manh biên tập và được Curriculum Corporation xuất bản năm 1998, được sử dụng như một tài liệu tham khảo về văn học Úc và Á châu cho học sinh tại Úc, chỉ có ba tác giả Việt Nam được chọn: Bảo Ninh (một trích đoạn trong bản dịch cuốn Nỗi buồn chiến tranh), Phạm Thị Hoài (một trích đoạn từ bản dịch cuốn Thiên sứ) và bài thơ “A cow wears the hat, it was me” của Lê Văn Tài. Trong cuốn này, Lê Văn Tài được giới thiệu là “một nhà thơ và một nghệ sĩ tạo hình tài năng, một người Việt Nam đến tị nạn tại Úc từ năm 1984. Ông đã xuất bản hai tập thơ bằng tiếng Anh và thường xuyên triển lãm hội hoạ và điêu khắc. Hiện ông đang sống tại Melbourne.” (tr. 165)
7.In ở bìa sau cuốn Waiting the Waterfall Falls (1997).
8.Mark Stevenson, “Le Van Tai and the Living Page: Review of Waiting the Waterfall Falls”, The Age, ngày 15.3.1997; bản dịch tiếng Việt của Hoàng Ngọc-Tuấn. In lại trong cuốn Thơ Lê Văn Tài do Nguyễn Hưng Quốc biên tập và giới thiệu (Văn Mới & Tiền Vệ xuất bản, 2013), tr. 447-451.
9.Do nhà Văn Nghệ xuất bản tại California.
10.“Thư Toà soạn”, Văn Học số 41 (số đặc biệt: Giới thiệu những cây bút trẻ ở Úc), tháng 6, 1989, tr. 1.
Nguyễn Hưng Quốc
No comments:
Post a Comment