LTG.- Phần đầu hồi ký của tôi đã hoàn tất, nay đang trong thời ký hiệu đính để in thành sách. Trong phần đầu, có người khen, người chê, có người chấp nhận, có người phản bác. Trong trách nhiệm của một tác giả, tôi đã làm hết sức mình để hiệu chỉnh những điều lầm lẫn hay bảo vệ những chuyện mà tôi tin là sự thật vì đã tự thân trải qua, chứng kiến.
Tiếp tục ghi lại phần thứ II ký ức của mình tôi muốn xác nhận một lần nữa là tôi chỉ ghi lại những sự việc đã xảy ra liên quan đến cuộc đời tôi, hoặc chính tôi chứng kiến xa gần hay do những người quen biết cùng thời, cùng giới, hiện còn sống thuật lại với tôi. Nếu có những ai cũng biết cùng một sự việc nào đó và có cái nhìn hay ý kiến khác biệt tôi vẫn luôn luôn tôn trọng, nhưng tôi vẫn cương quyết giữ nguyên vẹn những gì tôi trình bày vì tin chắc rằng đó là sự thật không thể thay đổi.
Cũng có một vài việc làm hay hành động liên quan đến nhân vật này hay nhân vật khác mà tôi không thể tự cho phép mình viết ra, dù là nhiều nhân chứng hãy còn sống biết rõ nhưng vì các nhân vật đó đã qua đời nên không còn có thể xác nhận hay phản biện. Ðó là lý do tôi đã phải thất hứa khi trong phần đầu tôi đã hứa viết về các sự việc diễn ra liên quan đến họ.
Nếu tôi có những lời phê phán về ý kiến hay hành động chính trị của ai đó hay về thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng qua cũng là vì chính bản thân tôi từng lặn lội khá nhiều trong chính trường miền Nam thời gian trước năm 1975 và chẳng qua cũng là những sự việc chẳng đặng đừng. Người ta có thể biểu đồng tình với tôi hay chỉ trích tôi, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận điều đó vì quyền tự do tư tưởng.
Sau cùng viết hồi ký là bắt buộc phải nói đến cái tôi. Xin độc giả thứ lỗi nếu cái tôi có xuất hiện nhiều lần. Như tôi đã viết, mục đích tập hồi ký này là “để cho con cháu tôi biết được cha ông chúng nó đã sống như thế nào trong thời gian khá hỗn độn của tình hình đất nước”.
Những điều chưa được nói đủ về nền dân chủ của miền Nam Việt Nam
I- Cuộc bầu cử cuối năm 1966
Cuối năm 1966 chính trường miền Nam Việt Nam tương đối lắng dịu. Việt Nam Cộng Hòa có Quốc Hội Lập Hiến, có Hiến Pháp, chính phủ chủ trương tổ chức bầu cử ngay sau khi Hiến Pháp được ban hành. Như tôi đã viết trong tập I hồi ký là đã có lần tôi mạo hiểm tìm gặp cựu Thủ Tướng Trần Văn Hương khi ông bị Ðại Tướng Nguyễn Khánh giam lỏng trong nhà mát của Ðức Giám Mục Ngô Ðình Thục ở Vũng Tàu.
Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên đêm hôm đó, tôi có đề nghị cụ Hương nên ra ứng cử tổng thống nếu cuộc bầu cử được tổ chức. Gần suốt đêm tâm tình, dù chúng tôi chưa hề quen biết nhau trước, cụ Hương, người đang bị giam lỏng có một tiểu đội quân lính canh gác bên ngoài, đã nhiệt tình thảo luận với tôi. Tôi cho rằng lý do cũng là vì đang bị giam mà bất ngờ có một vị đương kim bộ trưởng đến thăm đương nhiên ông yên tâm hơn và cảm thấy ấm lòng hơn. Chúng tôi nhận định tình hình, trao đổi quan điểm, ước tính tương lai. Cụ còn thuật cho tôi nghe một phần quá khứ của mình: Nào là thời niên thiếu nghèo, nào là ông giã gạo với “sức mạnh như trâu”, nào là thầy giáo dạy ở Mỹ Tho, Tây Ninh, cũng vẫn nghèo, rồi trở thành đại biểu nhân dân của tỉnh Tây Ninh thời kỳ Việt Minh, nhưng khi phải đi tập kết ra Bắc năm 1954, ông từ chối và ở lại trong Nam. Tôi không hỏi cặn kẽ lý do, lý do khiến cụ quyết định ở lại miền Nam mà không ra Bắc và điều kiện nào cho phép cụ vẫn sống được yên lành, qua mặt được chính quyền thuộc địa của Pháp hồi đó. Tâm sự gần suốt đêm, nhưng mục đích cuộc gặp gỡ của tôi hôm đó là chỉ để làm quen và tìm hiểu con người Trần Văn Hương. Dĩ nhiên, sự lão luyện, từng trải, già dặn khiến ông dùng toàn lời lẽ ngọt ngào chan chứa tình cảm. Lời lẽ của cụ chỉ có ý khuyến dụ một “thằng con nít” nhiệt tình như tôi mà thôi. Phần tôi vì muốn tìm hiểu xem cụ Hương tài đức đến đâu, có khả năng lãnh đạo cuộc chiến tranh chống cộng sản trên cả hai bình diện chính trị và quân sự hay không. Nhưng phải nói rằng tôi đã nghe cụ như nghe một bậc tiền bối đáng kính nói chuyện nước non.
Tại sao tôi có ý nghĩ đi tìm để thần phục người hiền? Bởi vì trong những ngày tháng cuối của Ðệ Nhứt Cộng Hòa, nhiều thành viên trong Phong Trào Trí Thức Công Giáo Pax Romana, trong đó có tôi, bàn tán luôn miệng về vấn đề “khủng hoảng” lãnh đạo của miền Nam khi dư luận quần chúng bất bình do thấy hai ông cố vấn tối cao của tổng thống là hai người em Ngô Ðình Nhu và Ngô Ðình Cẩn đang thi hành chính sách gia đình trị, phi dân chủ mất lòng dân khá nhiều, cộng thêm những sự can thiệp trực tiếp với tổng thống và luôn luôn có kết quả của người anh ông là Giám Mục Ngô Ðình Thục. Tuy nhiên cũng có nhiều anh em trong chúng tôi ủng hộ Tổng Thống Ngô Ðình Diệm nên thường đặt ngược câu hỏi: Ngoài Ngô Tổng Thống còn ai là người xứng đáng hơn ông ta trong việc điều hành đất nước? Câu hỏi không có câu trả lời dứt khoát.
Sau cuộc đảo chánh năm 1963, sự “khủng hoảng lãnh đạo” hiện ra càng rõ với bao nhiêu xáo trộn không phương bình định. Nguyễn Ngọc Thơ, Dương Văn Minh, Nguyễn Khánh, Trần Thiện Khiêm, Phan Khắc Sửu, Trần Văn Hương, Phan Huy Quát... tất cả lần lượt có cơ hội cầm đầu guồng máy cai trị quốc gia nhưng không ai giải quyết được mâu thuẫn nội bộ của miền Nam thì nói chi đến hy vọng bảo vệ Việt Nam Cộng Hòa hay giải phóng miền Bắc.
Tôi du học mới hồi hương được hai năm là xảy ra cuộc đảo chánh, một biến cố chính trị đã dẫn đến cái chết của cả ba anh em họ Ngô. Tôi chưa am hiểu tường tận tình hình chính trị, đặt biệt các nhân vật khả kính của miền Nam. Nhiều bạn bè lập đi lập lại với tôi Trần Văn Hương là một chính nhân quân tử bởi vì khi làm đô trưởng Saigon ông vẫn di chuyển bằng xe đạp và không tham nhũng. Nhiều người khác ca ngợi, “Miền Nam ít có ai sáng giá hơn cựu Thủ Tướng Trần Văn Hương”. Thời gian đó tôi có quen biết một nhân vật mà tôi quí trọng là cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ nhưng ông đã chứng minh không đủ tài năng cai trị đất nước lúc dầu sôi lửa bổng nên bị mang tiếng là “con rùa hành chánh” khi ông nắm quyền thủ tướng sau ngày 1 Tháng Mười Một năm 1963.
Trong cuộc tiếp xúc đầu tiên đó với ông Hương, tôi nhớ thật rõ hai điều mà Trần Văn Hương căn dặn tôi nhiều lần. Thứ nhất ông nhấn mạnh với tôi: “Xin em coi qua là một thứ ‘sắc thần’ và mấy em như Hương Chức Hội Tề trong làng đem sắc thần ra mà làm lễ cúng đình chớ thực tế sắc thần còn làm gì được nữa đâu? Mọi việc là nhờ em tất cả, mấy em tính sao thì qua nghe vậy”. Thứ hai, khi tôi hỏi cụ còn có những ai là người thân, tin cậy được, có thể tiếp tay giúp cụ trong việc này? Ông trả lời: “Hai anh luật sư Nguyễn Văn Huyền và Lê Văn Thu là bạn thân thiết của qua”. Tôi mừng thầm vì anh Nguyễn Văn Huyền dù là cao niên hơn tôi nhiều nhưng chúng tôi là bạn chí thân. Còn Lê Văn Thu thì hoàn toàn xa lạ đối với tôi.
Luật Sư Nguyễn Văn Huyền là người công giáo thuần thành và tôi xem ông như thần tượng khi tôi còn học tiểu học ở trường Saint Joseph Mỹ Tho. Ông là luật sư danh tiếng ở tỉnh, gầy ốm, khiêm tốn, nói năng nhỏ nhẹ, nhã nhặn. Mỗi ngày Chủ Nhựt ông đều dự thánh lễ ngồi trên ghế hàng đầu, bàn quì có khắc tên tuổi của ông. Ðiều này có nghĩa đây là chỗ danh dự dành riêng cho ông. Luật Sư Nguyễn Văn Huyền và linh mục chánh xứ họ đạo Mỹ Tho, người Pháp, thường được các thầy dòng trong trường Saint Joseph của tôi mời dự tiệc những ngày lễ lớn của đạo Công Giáo.
Ước mơ của tôi thời đó là hy vọng lớn lên tôi phải trở thành một luật sư khả kính như vậy. Ông Nguyễn Văn Huyền và tôi gặp nhau khi cùng hoạt động trong phong trào Pax Romana. Tôi gọi ông bằng bác nhưng anh một mực phản đối còn hăm dọa sẽ không nói chuyện với nhau nữa nếu tôi không đổi cách xưng hô gọi ông bằng anh. Thời gian cùng hoạt động chung trong văn phòng liên lạc cạnh Tòa Tổng Giám Mục chúng tôi trở nên thân nhau hơn. Một chuyện khá buồn cười là có lần tôi nói sẽ ghi danh học luật và sẽ nhờ anh đỡ đầu cho tập sự để trở thành luật sư (ở miền Nam Việt Nam, sau khi một sinh viên tốt nghiệp Cử Nhân Luật Khoa sẽ phải tìm kiếm một văn phòng luật sư để tập sự trong 3 năm. Sau ba năm ấy, vị luật sư tập sự phải qua một kỳ sát hạch của luật sư đoàn để được công nhận là luật sư thực thụ mới có quyền hành nghề - BTV). Ông khuyên nhủ dứt khoát “không nên làm nghề này, bẩn thỉu lắm, không nên”. Nghe lời ông, tôi đã bỏ ý định theo học thêm ngành luật để trở thành luật sư. Tuy nhiên, sau này, tôi nghĩ ông có vẻ hơi cực đoan đối với nghề nghiệp của ông và ông không thể chứng minh được quan điểm của ông về nghề luật là chính xác.
Nhân cuộc bầu cử đầu tiên của nền Ðệ Nhị Cộng Hòa, Tổng Giám Mục Saigon Nguyễn Văn Bình khuyên Luật Sư Nguyễn Văn Huyền đứng ra lập liên danh tranh cử vào Thượng Nghị Viện, anh không nhận và nói thẳng: “Trừ phi Ðức Cha ra lệnh thì con xin vâng lời”. Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình cũng chịu thua, không thể dùng quyền của một tu sĩ công giáo cao cấp để buộc ông phải thi hành một việc không liên quan đến đạo. Ðến lượt giám mục địa phận Mỹ Tho Nguyễn Văn Thiện cũng ngỏ lời yêu cầu thì vị giám mục này cũng nhận được câu trả lời tương tự như trên. Ðức Cha Thiện bèn nói: “Tôi không có quyền ra lệnh mà tôi cũng không dám ra lệnh cho ông luật sư, nhưng nếu luật sư coi lời khuyên đó là lệnh thì tùy ông thôi”. Ngày hôm sau ông Huyền vội vã thành lập liên danh cho kịp thời vì ngày nộp đơn ứng cử đã gần kề. Sự khiêm tốn và đức vâng lời của ông Nguyễn Văn Huyền đối với hàng giáo sĩ Công Giáo gần như tuyệt đối. Kết quả liên danh Nguyễn Văn Huyền đắc cử vào Thượng Nghị Viện VNCH.
Khi được bầu vào chức chủ tịch Thượng Nghị Viện, ông Nguyễn Văn Huyền không hề sử dụng biệt thự sang trọng dành cho chức vị chủ tịch ở đường Hai Bà Trưng, ngoại trừ lúc ông cần khoản đãi chính thức khách nước ngoài hay các nhân vật chính trong nước. Ngày thường ông vẫn ở nhà nhỏ hẹp của bà chị ruột ở đường Hồng Thập Tự, ngủ giường sắt có chiếu không nệm. Ông không khi nào di chuyển bằng công xa ngoại trừ khi chính thức đi lại vì công vụ. Ngoài ra, khi đi taxi bao giờ cũng có người vệ sĩ theo dìu ông vì tuổi già sức yếu. Sau khi ra tù, chúng tôi gặp nhau nhiều lần và lần cuối cùng là dự đám tang Giám Mục Mỹ Tho Nguyễn Văn Thiện. Vào những ngày cuối cùng khi VNCH hấp hối, ông chấp nhận đứng phó cho Tổng Thống Dương Văn Minh để giữ nhiệm vụ thương thuyết với phía cộng sản để tránh cho Saigon không thành biển máu (chú thích của BTV).
Thể theo lời căn dặn của cụ Trần Văn Hương tôi mời hai vị luật sư bạn thân của cụ đến nhà dự cơm để bàn việc ứng cử và bầu cử. Hai vị đều tán thành nhưng không ai đưa ra một ý kiến gì thực tế. Họ toàn nêu những khó khăn mà không hề đề nghị giải pháp. Tóm lại sau nhiều bữa tiệc khoản đãi, tôi rất thối chí về những người thân tín mà cụ Hương tưởng là trông cậy vào được.
Như vậy thì biết tin cậy vào ai đây? Ðiều đó sẽ tính sau. Bây giờ tôi phải tìm hiểu xem cụ Trần Văn Hương có phải là một chính nhân quân tử như bạn bè tôi từng khẳng định chăng. Và cụ có khả năng lãnh đạo cuộc chiến này hay không? Thú thật tuổi trẻ bồng bột, hăng hái, năng nổ nhưng về vấn đề kinh nghiệm chính trị tôi chưa được trang bị đầy đủ. Tôi thực hiện nhiều chuyến viếng thăm cụ Hương, lên xuống Vũng Tàu khi thì đi với Huỳnh Văn Ðạo, khi thì với Lý Chánh Trung, Bành Ngọc Quí, khi thì với Lý Quí Chung hay Nguyễn Văn Trường.
Tôi xác định theo chủ quan của mình:
Sự nhã nhặn khéo léo, cụ Trần Văn Hương có thừa.
Tinh thần chống cộng của cụ là quyết liệt.
Nhưng quan niệm về kinh tế chính trị của cụ không rõ ràng, và nếu cần nói thẳng thì hình như không có. Ðối với cụ, chính trị là làm sao ngồi yên vị được trên cái ghế lãnh đạo lâu dài.
Tính tình ông “lì lợm” ngang bướng. Chính ông xác định với tôi nhiều lần và có lẽ cụ hãnh diện về điều đó. Thói quen của cụ khi nói hay mím môi cắn chặt răng. Khi bất bình hay cao hứng cụ lên xuống “giọng óc”.
Cụ không tin khả năng lãnh đạo của quân nhân, nhưng rất sợ tập thể quân đội. Cụ không hiểu được quan điểm: Quân đội là công cụ phải phục vụ chính trị. Cụ cho rằng chính trị là mục tiêu để quân đội chiếm lấy quyền hành. Cụ Hương cũng không tin chính phủ có thể nhân danh hiến pháp và luật pháp sai khiến quân đội. Có lẽ cụ Hương quá bi quan hiểu một cách sai lạc tất cả những điểm căn bản mà một chính trị gia phải hiểu chỉ vì đã từng bị quân đội hạ bệ và giam lỏng.
Tóm lại ngoài tiếng đồn ông là chính nhân quân tử, tôi chưa tìm thấy nơi ông là một “minh chúa để thờ” nghĩa là một nhà lãnh đạo mà lớp trẻ chúng tôi có thể đặt tin tưởng hoàn toàn.
(Còn tiếp)
Về nền dân chủ Miền Nam VN
Friday, August 10, 2007 |
LTG.- Phần đầu hồi ký của tôi đã hoàn tất, nay đang trong thời ký hiệu đính để in thành sách. Trong phần đầu, có người khen, người chê, có người chấp nhận, có người phản bác. Trong trách nhiệm của một tác giả, tôi đã làm hết sức mình để hiệu chỉnh những điều lầm lẫn hay bảo vệ những chuyện mà tôi tin là sự thật vì đã tự thân trải qua, chứng kiến.
Tiếp tục ghi lại phần thứ II ký ức của mình, tôi muốn xác nhận một lần nữa là tôi chỉ ghi lại những sự việc đã xẩy ra liên quan đến cuộc đời tôi, hoặc chính tôi chứng kiến xa gần hay do những người quen biết cùng thời, cùng giới, hiện còn sống thuật lại với tôi. Nếu có những ai cũng biết cùng một sự việc nào đó và có cái nhìn hay ý kiến khác biệt tôi vẫn luôn luôn tôn trọng, nhưng tôi vẫn cương quyết giữ nguyên vẹn những gì tôi trình bày vì tin chắc rằng đó là sự thật không thể thay đổi.
Cũng có một vài việc làm hay hành động liên quan đến nhân vật nầy hay nhân vật khác mà tôi không thể tự cho phép mình viết ra, dù là nhiều nhân chứng hãy còn sống biết rõ nhưng vì các nhân vật đó đã qua đời nên không còn có thể xác nhận hay phản biện. Ðó là lý do tôi đã phải thất hứa khi trong phần đầu tôi đã hứa viết về các sự việc diễn ra liên quan đến họ.
Nếu tôi có những lời phê phán về ý kiến hay hành động chính trị của ai đó hay về thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng qua cũng là vì chính bản thân tôi từng lặn lội khá nhiều trong chính trường miền Nam thời gian trước năm 1975 và chẳng qua cũng là những sự việc chẳng đặng đừng. Người ta có thể biểu đồng tình với tôi hay chỉ trích tôi, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận điều đó vì quyền tự do tư tưởng.
Sau cùng viết hồi ký là bắt buộc phải nói đến cái tôi. Xin độc giả thứ lỗi nếu cái tôi có xuất hiện nhiều lần. Như tôi đã viết, mục đích tập hồi ký nầy là “để cho con cháu tôi biết được cha ông chúng nó đã sống như thế nào trong thời gian khá hỗn độn của tình hình đất nước.”
Những điều chưa được nói đủ về nền dân chủ của Miền Nam Việt Nam
I.- Cuộc bầu cử cuối năm 1966
(tiếp theo)
Tôi tự vấn nhiều lần, gần như muốn bỏ cuộc. Nhưng tôi nghĩ rằng thông thường bất cứ một nhà lãnh đạo quốc gia nào hay cấp bực thấp hơn nữa, một tổng giám đốc công ty chẳng hạn, cũng có ban cố vấn, có nhóm người phụ tá lo việc lớn nhỏ cho họ. Nếu như cụ Hương chấp nhận làm việc với tập thể thì mình chỉ cần tạo một “ban bệ” có khả năng đặt chương trình kế hoạch thích đáng là xong. Vả lại nhân vật nầy cũng đã từng lập đi lập lại với tôi: Ông chỉ là một “sắc thần”. Nếu ông nghĩ thật như vậy và làm việc theo tin thần đó với một tập thể cố vấn thì chấp nhận được. Dù sao cũng còn hơn nhóm quân phiệt chỉ biết lo củng cố địa vị chưa biết chính trị của quốc nội quốc tế là gì, bởi họ chưa hề tiếp cận lần nào.
Cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ là người nổi tiếng biết nhiều về tình hình chính trị miền Nam. Ông đã từng làm phó tỉnh trưởng của Pháp, tỉnh trưởng sau nầy và là phó tổng thống cho ông Ngô Ðình Diệm. Tôi tìm đến ông hỏi ý kiến. Cụ Thơ nói chuyện vui vẻ, lời lẽ khôi hài, mầy tao với người thân hoặc người trẻ tuổi mà ông thương. Tôi là thằng con nít được ông chú ý khi tôi tháp tùng ông Tổng Trưởng Cải Tiến Nông Thôn dự phiên họp hội đồng liên bộ do ông Thơ chủ tọa. Ông nói: “Ở miền Nam nầy, mầy kiếm không ra ‘cha’ nào hơn ông Hương đâu. Ông ta ở trong nhóm chính trị gia gọi là Caravelle bị ông Diệm cầm tù. Ông ta là đô trưởng, là thủ tướng mầy còn muốn gì nữa? Bao nhiêu kinh nghiệm đó không đủ sao?” Tôi nói ông Hương không có ý kiến rõ ràng về kinh tế xã hội và chính trị, cụ Thơ trả lời: “Thì tụi bây thừa sức lo mà”, rồi ông cười ha hả về câu mỉa mai nữa đùa nữa thật của ông.
Tôi phải nhìn nhận là cụ Thơ “lên dây đờn” tôi, làm tôi hơi phấn khởi về vấn đề cụ Hương. Người thứ hai tôi tin tưởng là anh Nguyễn Văn Trường đã từng là tổng trưởng giáo dục của nội các Trần Văn Hương. Anh Trường thì ủng hộ ý kiến đưa cụ Hương ra ứng cử không mảy may thắc mắc.
Tôi chưa hề có kinh nghiệm về một cuộc bầu cử nào dù lớn hay nhỏ. Khi còn du học, tôi đọc nhiều vấn đề rắc rối về bầu cử, biết rằng trước tiên phải có tiền. Làm sao có đây? Nếu đặt vấn đề nầy trước tiên mà không tìm ra giải pháp thì phải dẹp tiệm liền. Nhưng tôi tự dối mình là sẽ giải quyết sau, thế nào cũng có cách. Ðó là cái tính liều lĩnh, bạt mạng của tôi thời niên thiếu mà bạn bè thường chỉ trích.
Trong bối cảnh và sự do dự của tôi, bất ngờ xẩy ra vụ Tướng Nguyễn Ngọc Loan bắt người trái phép đưa đến sự từ chức tập thể của bảy vị tổng trưởng. Ðiều đó góp phần không nhỏ trong quyết định của tôi phải ủng hộ Trần Văn Hương ra tranh cử tổng thống một khi hiến pháp được thi hành. Vậy thì vấn đề trước tiên là phải tập họp cho bằng được một nhóm người bằng lòng “ăn cơm nhà vác nhà voi” để lo chuyện của thiên hạ chỉ vì lập trường và lý tưởng. Ðiều đó đối với tôi không khó do bạn bè ủng hộ. Họ tin tôi không tham quyền, can đảm từ chức, chấp nhận thi hành nghĩa vụ quân dịch nên vui lòng chấp nhận hợp tác.
Ngoài ra anh Nguyễn Văn Trường và Lý Chánh Trung còn có nhiều học trò giáo sư các trường trung học bằng lòng ủng hộ ngầm hay công khai. Phần tôi cũng có bạn bè và cộng sự viên là dân biểu quốc hội hay công chức cao cấp. Tôi mời rất nhiều anh em hợp tác với mục đích công khai thành lập ủy ban vận động cho Trần Văn Hương ra tranh cử tổng thống. Tôi không nhớ hết tên tuổi, nhưng trong cái “ban bệ” đó có người thì công khai ra mặt, có người ngấm ngầm tham gia. Nếu tôi nhớ không lầm trong nhóm người tự nguyện hợp tác đó có: Tiến Sĩ Nguyễn Văn Hảo, Giáo Sư Nguyễn Văn Trường, Giáo Sư Nguyễn Văn Bông, Giáo Sư Lý Chánh Trung, Tiến Sĩ Âu Trường Thanh, Ông Huỳnh Văn Ðạo, ông Nguyễn Ngọc An, Bác Sĩ Hồ Văn Minh, Ông Hồ Ngọc Nhuận, các Dân Biểu Bành Ngọc Quí-Gò Công, Dương Văn Ba-Bạc Liêu, Lâm Phi Ðiểu-Vĩnh Long, Nguyễn Văn Tuất-Mỹ Tho, Lý Quí Chung-Saigon, Nguyễn Hữu Chung-Saigon, và một số bạn bè xa gần. Chúng tôi thường gặp nhau bàn kế hoạch và giao việc cho người phụ trách.
Tôi hẹn một ngày mời đông đảo anh em ra Vũng Tàu giáp mặt cụ Hương, bởi vì có nhiều người cụ nghe tên, biết chức vụ nhưng chưa hề gặp mặt. Bữa gặp gỡ đó khá đông có cả Giáo Sư Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Văn Hảo, Huỳnh Văn Ðạo, Âu Trường Thanh v.v... Chúng tôi mỗi người tha hồ bàn thảo, tỏ sự ủng hộ cụ Hương. Phần cụ thì khuyến dụ mọi người, chấp nhận mọi ý kiến, khen tặng hết anh nầy đến anh khác. Sau phiên họp đó tôi có cảm nghĩ một vài người đồng sàng dị mộng, người khác tâng công, bợ đỡ. Tôi hơi chán ngán, khi ra về tôi nói với anh Trường: “Nếu may mắn thành công tụi mình không nên tham gia một chức vị nào, đứng ngoài dễ góp ý, dễ đề nghị sáng kiến nầy hay sáng kiến khác mà không bị nghi ngờ ỷ thế mượn quyền. Hoặc giả không ai cần mình nữa thì xin làm đại sứ lưu động, ngao du vài tháng rồi về nghĩ luôn”. Anh Trường tán thành và ủng hộ ý kiến của tôi. Nhưng phê bình tôi là có thái độ “quân tử Tàu” vô trách nhiệm.
Vấn đề gay go nhứt là tìm người đứng phó cho liên danh. Tôi nghĩ ngay đến cựu Phó Tổng Thống Nguyễn Ngọc Thơ. Tôi đề nghị ông chấp nhận đứng cùng liên danh Trần Văn Hương. Ông thối thác viện dẫn nhiều lý do:
- Thứ nhứt ông đã già. Thứ hai ông thất bại khi làm thủ tướng. Thứ ba ông không còn ham muốn địa vị một khi đã ngồi qua các ghế phó tỉnh trưởng, tỉnh trưởng, tổng trưởng, thủ tướng, phó tổng thống. Thứ tư thời đại bây giờ là của giới trẻ và chuyên viên. Ông hỏi tôi: Tại sao không phải là mầy? Một cựu tổng trưởng, chuyên viên trẻ tuổi, giáo sư kinh tế, chính trị gia có uy? Tôi phản bác:
- Thứ nhứt một cụ già như cụ Nguyễn Ngọc Thơ có nhiều kinh nghiệm. Thứ hai chính cụ cũng là một nhân vật có tên tuổi. Thứ ba hy sinh phục vụ đất nước không phải là ham địa vị. Thứ tư tôi không thể tự vẽ bùa cho tôi đeo. Cụ Thơ vẫn từ chối. Tôi đành trở về và để cách một thời gian ngắn, tôi xin gặp lại cụ Nguyễn Ngọc Thơ, tìm cách thuyết phục cụ một lần nữa, nhưng cũng không thành. Lần thứ ba tôi đánh liều lên giọng, kêu gọi tinh thần trách nhiệm của đối với quốc gia dân tộc vân vân và vân vân. Cụ Thơ bị dồn ép tức mình nên nói:
- Thôi Triều ơi, mầy là “điếm ba da” tao là “điếm tới bảy da” lận mà mầy dụ tao sao nổi.
Tôi vẫn tiếp tục thuyết phục, cụ vừa cười vừa nói:
-Ê Triều, người ta nói “nhứt lé nhì lùn”, mầy dòm kỹ mặt tao coi, tao vừa lé vừa lùn.
Rồi cụ cười ha hả nói tiếp:
- Thôi mầy đi về đi, ở đây nói hoài lở tao ngu dại nghe lời mầy thì bậy bạ vô cùng.
Thất vọng hoàn toàn, tôi bàn lại với anh em, nghĩ nát nước không thấy người xứng đáng. Cụ Phan Khắc Sửu cũng dự trù ra ứng cử, sau khi được Nguyễn Khánh cử làm quốc trưởng thời gian ngắn. Tôi có đề nghị qua với anh Luật Sư Nguyễn Văn Huyền nhưng anh từ chối nhẹ nhàng và quyết liệt, anh không cần giải thích lý do. Bỗng nhiên anh Trường nghĩ đến cụ Mai Thọ Truyền, lãnh tụ Phật Giáo chùa Xá Lợi. Vị nầy có thể bổ túc cho lập trường chính trị của cụ Trần Văn Hương khi làm thủ tướng ông đã tuyên bố nặng lời đối với một số tăng ni phật tử rằng: “Có những thằng lưu manh mặc áo giả thầy tu làm trò con khỉ ngoài đường”. Anh Trường và tôi đến chùa Xá Lợi xin gặp cụ Mai Thọ Truyền. Ông tỏ vẻ xiêu lòng nhưng muốn gặp nhóm anh em trong ban vận động trước khi quyết định có chấp nhận hay không. Chúng tôi mời cụ đến nhà tôi hợp để gặp anh em. Bữa họp mặt đó có Âu Trường Thanh, Nguyễn Văn Trường, Lý Chánh Trung, Nguyễn Văn Hảo, Bác Sĩ Hồ Văn Minh, Kỹ Sư Nguyễn Văn Thành-Chủ Tịch Phong Trào Phục Hưng Miền Nam, ông Nguyễn Ngọc An và toàn bộ các dân biểu thân hữu của chúng tôi.
Bàn thảo qua lại, cụ Mai Thọ Truyền đồng ý. Ðến khi phân công Bác Sĩ Hồ Văn Minh, đại diện liên danh tại Saigon. Còn các tỉnh thì có dân biểu và giáo sư tại tỉnh. Ðại diện chính thức cho liên danh trên toàn quốc là Nguyễn Ngọc An. Cụ Mai Thọ Truyền phản ứng và đặt điều kiện ngay: Nếu anh Triều không đứng tên đại diện cho liên danh thì tôi từ chối không đứng phó trong liên danh nầy. Tôi chới với thưa rằng: “Cụ Hương đã nặng lời chỉ trích Phật Giáo mà tôi là Công Giáo đại diện cho liên danh thì sẽ mất hết phiếu của Phật Giáo”. Lý do đó không thuyết phục được cụ Mai Thọ Truyền. Anh Nguyễn Văn Trường gỡ rối bằng cách đề nghị với cụ Truyền: “Tôi cho mượn tên đứng tên chính thức đại diện cho liên danh, nhưng mọi việc đều do anh Triều lo hết cụ có chịu không. Ông Mai Thọ Truyền chấp nhận.
(Còn tiếp)
|
LTG.- Phần đầu hồi ký của tôi đã hoàn tất, nay đang trong thời ký hiệu đính để in thành sách. Trong phần đầu, có người khen, người chê, có người chấp nhận, có người phản bác. Trong trách nhiệm của một tác giả, tôi đã làm hết sức mình để hiệu chỉnh những điều lầm lẫn hay bảo vệ những chuyện mà tôi tin là sự thật vì đã tự thân trải qua, chứng kiến.
Tiếp tục ghi lại phần thứ II ký ức của mình, tôi muốn xác nhận một lần nữa là tôi chỉ ghi lại những sự việc đã xảy ra liên quan đến cuộc đời tôi, hoặc chính tôi chứng kiến xa gần hay do những người quen biết cùng thời, cùng giới, hiện còn sống thuật lại với tôi. Nếu có những ai cũng biết cùng một sự việc nào đó và có cái nhìn hay ý kiến khác biệt tôi vẫn luôn luôn tôn trọng, nhưng tôi vẫn cương quyết giữ nguyên vẹn những gì tôi trình bày vì tin chắc rằng đó là sự thật không thể thay đổi.
Cũng có một vài việc làm hay hành động liên quan đến nhân vật này hay nhân vật khác mà tôi không thể tự cho phép mình viết ra, dù là nhiều nhân chứng hãy còn sống biết rõ nhưng vì các nhân vật đó đã qua đời nên không còn có thể xác nhận hay phản biện. Ðó là lý do tôi đã phải thất hứa khi trong phần đầu tôi đã hứa viết về các sự việc diễn ra liên quan đến họ.
Nếu tôi có những lời phê phán về ý kiến hay hành động chính trị của ai đó hay về thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng qua cũng là vì chính bản thân tôi từng lặn lội khá nhiều trong chính trường miền Nam thời gian trước năm 1975 và chẳng qua cũng là những sự việc chẳng đặng đừng. Người ta có thể đồng tình với tôi hay chỉ trích tôi, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận, vì đó là quyền tự do tư tưởng.
Sau cùng viết hồi ký là bắt buộc phải nói đến cái tôi. Xin độc giả thứ lỗi nếu cái tôi có xuất hiện nhiều lần. Như tôi đã viết, mục đích tập hồi ký này là “để cho con cháu tôi biết được cha ông chúng nó đã sống như thế nào trong thời gian khá hỗn độn của tình hình đất nước.”
Những điều chưa được nói đủ về nền dân chủ của miền Nam Việt Nam
I.- Cuộc bầu cử cuối năm 1966
(tiếp theo)
Tài chánh là huyết mạch. Chuyện đầu tiên là phải có tiền để ký quỹ khi nộp đơn ứng cử. Ðào đâu ra? Ðã nhiều ngày anh Trường và tôi chạy đôn chạy đáo không tìm ra chỗ nào ủng hộ được ít nhiều. Nhớ lại một vài tài liệu tôi đọc ở đâu đó khi còn nhỏ, nói rằng trong lúc đảng Ðức Quốc Xã của Hitler kiệt quệ, ông ta bỏ đảng đi nghỉ mát trên núi tìm cách tiếp cận với các đại thương gia để kêu gọi sự ủng hộ. Ðảng viên phê bình trách cứ ông về việc tiêu xài phung phí ở những nơi sang trọng. Ông không giải thích. Ðến khi trở về họp đảng, ông tuyên bố chúng ta có thừa tài chánh để lo đại sự do các đại thương gia có ý thức chính trị và lợi ích quốc gia giúp đỡ. Nhờ đó mà đảng Ðức Quốc Xã phát triển mạnh, khuynh đảo cả Âu Châu. Một tài liệu khác nói về một vị dân biểu người Pháp tôi không còn nhớ tên, đắc cử cuối thập niên 1950, nhờ sự ủng hộ của một tài phiệt ở Paris. Thoạt đầu tôi chủ quan nghĩ đến những người bạn giàu có ngày thường luôn miệng chỉ trích sự lạm dụng quyền thế của một vài giới chức quân nhân và sẵn sàng ủng hộ giải pháp dân sự. Nhưng khi tôi tiếp xúc, không một ai bỏ ra đồng nào cho quỹ tranh cử.
Tôi đánh liều tìm gặp giám đốc Chartered Bank ở Saigon nơi vợ chồng tôi có ngân khoản trong đó. Tôi đề nghị vay một số tiền lớn nhưng ông trả lời: trường Anh văn London School và trại chăn nuôi của tôi không đủ điều kiện để “thế chưn” một số tiền lớn như thế. Túng thế tôi đành “lật bài tẩy” nói thật một cách “ngây thơ” rằng: Tôi mượn tiền để vận động tranh cử tổng thống cho liên danh dân sự Trần Văn Hương. Nếu ông bằng lòng giúp đỡ tôi cam đoan sẽ hoàn trả đủ. Ông trả lời ngắn gọn và lịch sự rằng: “Chúng tôi không làm dịch vụ loại này”!
Ðến nước cùng, gần ngày phải nộp đơn và đóng tiền ký quĩ, tôi thuyết phục vợ tôi đến gặp tu sĩ “bề trên”, giám đốc trường Couvent Des Oiseaux xin mượn trước ba trăm năm chục ngàn đồng, cộng với số tiền chúng tôi sẵn có, thừa đủ để trang trải nhu cầu cấp bách là ký quỹ và chi dùng trong những ngày đầu. Sở dĩ chúng tôi mượn tiền của trường Couvent Des Oiseaux được dễ dàng là vì bà Võ Long Triều vừa là giáo sư dạy triết học tại trường vừa là giám đốc trường Claire Joie, chi nhánh mẫu giáo của Couvent Des Oiseaux.
Niên học sắp bắt đầu, ban kế toán đang lần lượt thu tiền học phí, nên tiền của trường bên này chuyển sang trường bên kia đủ để bảo đảm. Một khổ ải được vượt qua. Tôi vô cùng bối rối khi nghĩ đến giai đoạn kế tiếp. Tiền đâu cung cấp cho vận động viên làm lộ phí, chưa nói đến chi phí xã giao, nhậu nhẹt cần thiết để tranh thủ từng lá phiếu, thuyết phục từng đoàn thể? Lần này không thể để cho mọi người biết liên danh Trần Văn Hương không có một xu dính túi. Như vậy sẽ gây chán nản và nếu tiếng đồn ra ngoài là đương nhiên thất cử trước khi bầu. Tôi quyết định bán hai lứa heo gần một trăm con của trại chăn nuôi của tôi ở Cầu Kinh trước thời hạn. Ít ra cũng phải có một vài trăm ngàn trong tay để cho bạn bè tin mình có đầy đủ tài chánh. Trong khi đó anh Trường vận động qua ngả nào tôi không biết, anh báo rằng Dược Sĩ Nguyễn Cao Thăng, giám đốc viện bào chế O.P.V. ủng hộ một triệu đồng. Trong khi đó chúng tôi biết rõ ông Nguyễn Cao Thăng bao thầu cung cấp tiền bạc cho liên danh Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ. Kiểu bắt cá hai tay của những con buôn là thường tình, nên dù biết vậy chúng tôi vẫn nhận và cám ơn. Thêm một giọt nước vào cái lu to tướng! Ðiều đó không giúp chúng tôi được ăn ngon ngủ yên.
Tôi tìm anh Âu Trường Thanh vấn kế hy vọng rằng anh sẽ có cách gỡ rối cho tôi. Thanh hứa sẽ moi ra cho chúng tôi hai chục triệu, nếu tôi bằng lòng để cho anh lấy danh nghĩa của cá nhân tôi và liên danh Trần Văn Hương vận động xin tiền. Tôi mừng thầm. Nhưng thực tế Âu Trường Thanh chỉ đưa cho chúng tôi có mười triệu thôi. Tổng số tiền chúng tôi có chỉ là một gáo nước tưới đám rau khô! Nhưng với chủ quan và xác tính chúng tôi nghĩ đa số các vận động viên cộng tác với chúng tôi không phải vì tiền mà họ còn sẵn lòng bỏ tiền túi ra hoạt động vì cảm tình và lập trường chính trị.
Lược xét tình hình chúng tôi tin có ba yếu tố để thành công:
- Một là vận động viên nhiệt tình.
- Hai là quân nhân lạm quyền, dân chúng thiên về giải pháp dân sự.
- Ba là yếu tố Nam Bắc cũng có ảnh hưởng ít nhiều trong cuộc bầu cử.
Do đó tôi lạc quan và hy vọng sẽ thành công. Chúng tôi lập hai liên danh ứng cử Thượng Nghị Sĩ, một do anh Nguyễn Văn Trường đứng đầu, có tôi và Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, cựu Ðổng Lý Bộ Quốc Phòng, tham dự cùng với bảy ứng cử viên khác. Liên danh thứ hai do Nguyễn Khắc Thành đứng cái, cộng thêm vài vị dân biểu và các nhân vật tên tuổi khác. Tất cả lấy dấu hiệu “ Người Gieo Mạ” cùng một dấu hiệu với liên danh Trần Văn Hương.
Trong lúc thành lập liên danh Trần Văn Hương- Mai Thọ Truyền, chúng tôi nghĩ việc phải tìm cách chia phiếu quân đội của liên danh Nguyễn Cao Kỳ-Nguyễn Văn Lộc. Vì vậy phải tìm cách thúc giục thành lập một liên danh quân nhân khác ra ứng cử để có thể vào giờ chót sẽ rút lui và tuyên bố nhường phiếu cho Trần Văn Hương. Hoặc sẽ tiếp tục để chia phiếu quân nhân với Nguyễn Cao Kỳ. Trong tinh thần đó anh Trường và tôi gặp Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tại nhà ông ở Bộ Tổng Tham Mưu. Thiệu bằng lòng, vấn đề nầy tôi đã đề cập đến trong quyển hồi ký phần I . Ông Thiệu đề nghị anh Nguyễn Văn Trường đứng phó cho liên danh của ông, Trường trả lời không được vì người anh của Trường là Nguyễn Văn Lộc đứng cùng liên danh với Kỳ. Ðến lượt Nguyễn Văn Bông chấp nhận đứng cùng liên danh với ông, rồi lại từ chối. Sau cùng Thiệu phải tìm một nhân vật của Hòa Hảo là Trình Quốc Khánh. Ngoài ra chúng tôi cũng có bàn với Luật Sư Trần Ngọc Liễng, cựu Tổng Trưởng Xã Hội và đề nghị anh liên lạc với Ðại Tướng Dương Văn Minh ở Thái Lan để thành lập một liên danh quân nhân khác.
Tổng cộng có tất cả 18 liên danh ứng cử tổng thống. Nổi bật nhứt là hai liên danh Trần Văn Hương và Trương Ðình Dzu. Cuộc tranh cử năm đó giúp cho Luật Sư Trương Ðình Dzu nổi tiếng do bài bình luận của ông về Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ. Các nhân vật tên tuổi như Phan Khắc Sửu, Phan Quang Ðán, Hà Thúc Ký, Hoàng Cơ Bình, được dư luận chú ý, còn các ứng cử viên khác ít người biết đến.
Liên danh buộc tôi phải chú ý và làm phiền lòng tôi nhiều nhứt là Âu Trường Thanh-Vũ Văn Huyền. Âu Trường Thanh nộp đơn vào giờ chót, 23 giờ 45 phút đêm, trước giờ khóa sổ.
Dân Biểu Bành Ngọc Quí hiện diện tại Quốc Hội đêm đó, điện thoại cho tôi liền vì anh kinh ngạc thấy người đã từng tham gia tổ chức vận động bầu cử cho Trần Văn Hương mà sao hôm nay lại tự ý nộp đơn ứng cử mà không hề thông báo cho anh em biết. Thú thật tôi ngạc nhiên thì ít mà bực tức thì nhiều. Bởi vì thái độ và hành động này đi ngược với tình nghĩa và đạo đức một cách quá trắng trợn. Anh Thanh là bạn tương đối thân, là người tôi giới thiệu vào nội các, tôi bao che, đỡ đòn giùm, khi anh phạm sai lầm qua việc công khai tố cáo đồng liêu Trần Ðỗ Cung, gây tai tiếng không tốt cho chính phủ, Thủ Tướng muốn bãi chức, thậm chí câu lưu anh. Hiện tại anh là một trong những người ủng hộ và hăng hái vận động cho Trần Văn Hương. Tóm lại, Âu Trường Thanh là người trong “ban bệ” của chúng tôi.
Thật ra từ khi tôi đoán được chính anh đã thuyết phục Nguyễn Văn Bông từ chối đứng cùng liên danh với Trung Tướng Thiệu mặc dù trước đó anh hứa chắc với tôi là anh chấp nhận. Nên tôi mới thông báo cho Thiệu biết. Vì vậy, sau khi Bông từ chối, tôi phải chịu mất mặt xin lỗi ông Thiệu về việc này. Cái ý nghĩ đồng sàng dị mộng của Thanh tôi cũng đã ngửi thấy mùi từ khi đông đảo chúng tôi công khai tiếp xúc với cụ Hương lần đầu tiên tại Vũng Tàu. Nhưng tôi không ngờ anh hành động đến như vậy. Tôi điện thoại liền cho Thanh, dùng lời lẽ nhỏ nhẹ, giả vờ thông cảm vui vẻ nói:
- Toa ra ứng cử tổng thống sao không cho anh em biết. Có lẽ toa chơi nước cờ cao là ra ứng cử để lấy tiếng, để sau này Tướng Nguyễn Ngọc Loan không dám đụng chạm tới toa phải không?
Thanh trả lời:
- Phải và không phải.
Sáng hôm sau Lý Chánh Trung và tôi đến nhà Âu Trường Thanh với mục đích hỏi cho cặn kẽ mọi việc. Chúng tôi muốn biết thái độ của Thanh, bây giờ và trong tương lai như thế nào? Bởi vì dù sao anh cũng sát cánh với chúng tôi từ lâu, ngay những ngày đầu vận động cho Trần Văn Hương. Vừa bước vào phòng khách tôi thấy anh mặc bộ quần áo bà ba lụa lèo, ngồi trên ghế xích đu, lắc lư tới lui nhìn chúng tôi anh nói liền:
- Chắc tụi toa nghĩ moa là thằng đểu giả chớ gì?
Lý Chánh Trung phản ứng ngay.
- Toa là thằng đểu giả chớ còn nghĩ cái gì nữa?
- Tụi toa nghĩ sao cũng được, phần moa hành động theo những gì moa tính toán và cần phải làm. Moa có lập một liên danh ứng cử thượng nghị sĩ do bà Trần Văn Văn đứng đầu danh sách.
Câu nói của Thanh đủ để tôi đánh giá sự việc lúc đó. Nhưng nó làm cho Lý Chánh Trung càng bực tức, lồng lộn, cãi vã vô bổ. Phần tôi, dù tính tình nóng nảy, ăn nói không cần lựa lời, nhưng đối với những người “sớm trắng chiều đen”, tôi xem người đó như không có hiện diện trước mặt tôi. Dù là trước kia đã từng thân thiện với nhau. Tôi kéo Lý Chánh Trung ra về. Tình thế đã như vậy cãi vã làm gì nữa, lời qua tiếng lại cũng vô ích thôi.
Trở lại với liên danh Nguyễn Văn Thiệu, trước khi Thiệu và Kỳ sát nhập thành một liên danh, anh Trường và tôi có tiếp xúc nhiều lần với Thiệu để ước tính và dự trù sự việc trước và sau ngày bầu cử. Có lần chúng tôi đề nghị với Thiệu nếu Trần Văn Hương đắc cử thì đề nghị Thiệu giữ chức Thủ Tướng, ngược lại nếu Thiệu đắc cử thì Trần Văn Hương sẵn lòng nhận chức vụ này. Trung Tướng Thiệu trả lời:
- Vị trí đó phải là người thân cận của tụi toa mới được. Moa chỉ yêu cầu để cho moa nắm quân đội vì moa có ý định cải tổ quân đội.
Khi ra về tôi nói với Trường:
-Ông này không có ý đồ hợp tác mà chỉ muốn xí phần. Ðược thì ăn cả ngã vẫn còn muốn làm cha. Nắm quân đội để đảo chánh khi bất bình như ông đã từng đoạt quyền của Thủ Tướng Phan Huy Quát. Ông Thiệu đã có kinh nghiệm đảo chánh ông Diệm, rồi tới Phan Huy Quát. Bây giờ có mưu đồ cho tương lai hay sao đây?
Anh Trường cười nói:
- Toa đa nghi còn hơn Tào Tháo.
Cái gai trong mắt của Trung Tướng Thiệu hiện tại là Nguyễn Cao Kỳ. Bởi vì khi Phan Huy Quát ra đi thì mọi quyền hành đều tập trung về Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia chỉ là ông chủ nhà có nhiệm vụ tiếp khách, dự lễ và dự tiệc thôi. Theo lời Nguyễn Văn Thiệu nói với tôi hồi đó thì Ước Pháp tạm thời do ông Bùi Diễm, đương kiêm Tổng Trưởng Phủ Thủ Tướng thảo, cho nên mọi quyền hành quy định thuộc về Thủ Tướng. Còn Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia chỉ là “ngồi chơi xơi nước”. Thiệu rất bất bình về vấn đề đó. Gần Ðây tôi có hỏi lại Ðại Sứ Bùi Diễm thì ông không còn nhớ rõ, nhưng ông bảo có thể là do Trung Tướng Phạm Xuân Chiểu, hay nhà báo Như Phong Lê Văn Tiến thảo.
Chúng tôi chủ quan đánh giá cuộc bầu cử này chỉ có ba liên danh Thiệu, Kỳ, Hương tranh nhau quyết liệt thôi. Mục tiêu chính của chúng tôi là tranh với Nguyễn Cao Kỳ, người được dư luận xem như là đương nhiên đắc cử. Vừa có tiền vừa có quyền và nắm hết guồng máy dân cũng như quân. Tại sao bất ngờ hai liên danh đối chọi Nguyễn Văn Thiệu và Nguyễn Cao Kỳ sát nhập thành một? Dư luận bên ngoài bàn tán xôn xao, biết bao nhiêu sự ước đoán và thêu dệt về vấn đề nầy. Riêng tôi được nghe một sĩ quan thân cận với Nguyễn Cao Kỳ, nhìn trộm qua lỗ khóa nghe thấy câu chuyện của hai ông thuật lại. Và lời tường thuật đó được chính Nguyễn Cao Kỳ xác nhận với tôi đầy đủ chi tiết hơn, cách đây năm năm, trong một bữa cơm tại nhà ông ở Hacienda Height, Los Angeles. Ông còn nói thêm: “Ðiều moa hối hận nhứt trong đời là nhường quyền ứng cử và chịu đứng phó cho Nguyễn Văn Thiệu”.
Thượng tuần Tháng 6 năm 1967, Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu tuyên bố tại Huế: Sự tranh cử giữa hai quân nhân không có hại gì cho tình đoàn kết quân đội cả. Phải chăng ông đã nghe “tiếng chì tiếng bấc” không có lợi cho ông nên ông muốn đánh tan những “lời qua tiếng lại” giữa các quân nhân cao cấp về vấn đề hai liên danh của hai vị Chủ Tịch hai cơ quan tối cao nhà nước tranh nhau chức Tổng Thống. Ðằng sau vấn đề, ai cũng biết có mâu thuẫn trầm trọng giữa Thiệu và Kỳ từ lâu. Nhưng Nguyễn Cao Kỳ đã chọn đi một bước trước mà kết quả ông lại về sau.
Ông thuật với tôi:
- Moa cho triệu tập tất cả tướng lãnh về Tổng Tham Mưu họp để bàn về việc của moa và ông Thiệu cùng tranh cử chức vị Tổng Thống. Mọi việc được sắp xếp trước hết rồi. Chiều hôm trước anh em thỏa thuận để cho ông Thiệu ra ứng cử với tư cách tư nhân và dân sự. Có nghĩa là phải giải ngũ để ra ứng cử Tổng Thống. Ðiều này chắc chắn đã lọt vào tay ông ta rồi. Ngày hôm sau các Tướng Lãnh họp tại Tổng Tham Mưu, moa ngồi ngoài không tham dự để cho anh em thảo luận không phải ngại ngùng vì sự có mặt của moa. Mục đích phiên họp là giao quyền Lãnh Ðạo Quốc Gia lại cho Cao Văn Viên Xử Lý Thường Vụ. Có biên bản đường hoàng. Vì biết trước kết quả rồi nên Nguyễn Văn Thiệu chần chừ không đến, đợi phải có người mời đến ghi nhận kết quả thì “lủy” mới chịu đến. (tiếng Pháp: Lui có nghĩa là nó, ổng). Trước mặt moa ông ta nói mà rơm rớm nước mắt, anh em quyết định sao thì ông ta chịu vậy. Ông ta xin anh em cho phép ở lại với quân đội.
Cao Văn Viên sắp đọc biên bản, Kỳ ngang nhiên khoát tay bảo:
“Không cần, tôi nhường cho anh Thiệu ứng cử lần này, kỳ sau sẽ đến lượt tôi. Nhưng tôi yêu cầu anh Thiệu phải duy trì hội đồng quân nhân. Mọi quyết định quan trọng yêu cầu anh phải tham khảo ý kiến của các Tướng Lãnh...” Thiết nghĩ trong hoàn cảnh đó bất cứ điều kiện gì đưa ra Thiệu đều phải vui lòng chấp nhận. Kể cả việc cử Luật Sư Nguyễn Văn Lộc làm Thủ Tướng một khi Thiệu đắc cử Tổng Thống.
Tiếc thay cho Nguyễn Cao Kỳ, mủi lòng vì một hai giọt nước mắt của kẻ xuống ngựa, ông tỏ vẻ quân tử Tàu, lấy cảm tình giải quyết chuyện chính trị. Thực tế chứng minh ông sai lầm, khi được việc rồi Thiệu cư xử tồi tệ với Kỳ thì mọi chuyện đã quá muộn. Có thể nói định mệnh của Thiệu và Kỳ xui khiến cho xảy ra việc nhường nhịn phi lý đó. Và vận nước khiến cho ưu thế chính trị lọt vào tay Nguyễn Văn Thiệu.
Có người bảo rằng mọi chuyện đều do người Mỹ áp đặt. Sự thật sai hoàn toàn. Mấy ngày trước đó, Ðại Sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Washington, ông Bùi Diễm có điện thoại cho Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương xác định rằng chính giới Mỹ ủng hộ Kỳ. Ðiều đó có thể xác nhận thông qua nhiều tài liệu giải mật của Mỹ trong đó có đoạn nói rằng Ðại Sứ Hoa Kỳ Cabod Loge đã trở thành người của Nguyễn Cao Kỳ.
Người ta hay đổ thừa cái gì cũng do Mỹ. Sự thật theo chỗ tôi nhận xét qua nhiều sự việc và kinh nghiệm bản thân là những việc quan trọng người Mỹ hoặc đặt thẳng vấn đề với chính phủ Việt Nam, hoặc dùng ảnh hưởng của hệ thống cố vấn Mỹ rỉ tai, tuyên truyền gây ảnh hưởng. Nhưng mọi việc do mình quyết định, chấp nhận hay không, rồi sau đó họ mới tùy cơ phản ứng bằng cách này hay cách khác, chứ không phải cái gì cũng do Mỹ ra lệnh. Ðó là lối suy đoán của nhiều người tưởng tượng theo sự tự ti. Một ví dụ nhỏ điển hình: khi tôi còn ngồi trong nội các, có một phiên họp Thủ Tướng nêu đề nghị của Mỹ để hỏi ý kiến anh em. Vấn đề là các cố vấn Mỹ ở tỉnh muốn lấy quyền sử dụng tiền của ngân sách ngoại viện cấp cho Tỉnh Trưởng một quĩ đen, ngân khoản một triệu đồng lúc nào cũng phải có đầy. Tôi phản đối, vì chấp nhận như vậy thì các vị Tỉnh Trưởng của mình sẽ không cần liên hệ về mặt tài chánh với chính phủ trung ương nữa. Chừng đó sẽ có một loại sứ quân do Mỹ điều khiển. Nếu người Mỹ muốn cấp cho Tỉnh Trưởng một quỷ đen riêng biệt thì phải dùng ngân khoản đặc biệt khác. Còn khoản tiền Quốc Hội Mỹ viện trợ cho Việt Nam Cộng Hòa là thuộc toàn quyền sử dụng của chính phủ trung ương. Cố vấn Mỹ không có quyền đá động đến. Ða số bạn đồng liêu biểu đồng tình. Thủ Tướng yêu cầu Trương Thái Tôn liên lạc lại với Mỹ để thông báo quyết định. Kết quả việc đó bỏ qua.
Tuy nhiên phải công nhận người Mỹ thường sử dụng những cố vấn quân sự của họ từ cấp đại đội hay cố vấn dân sự từ cấp chánh sở để òn ỉ, rỉ tai, truyền tin tức theo chủ trương của họ. Từ đó tiếng đồn nhanh chống Mỹ sắp xếp như thế này thế kia. Thực tế mọi việc phần lớn do mình quyết định nếu mình có bản lãnh. Người Mỹ hoặc uốn theo, hoặc phá bĩnh bằng cách khác. Cũng như có lần Mỹ đề nghị việc gì không được mình thỏa mãn, tôi không nhớ rõ nhưng hậu quả là gạo viện trợ từ Thái Lan chậm trễ kéo dài, thị trường xáo trộn. Cố vấn Mỹ của Bộ Kinh Tế viện cớ có bảo nên tàu Mỹ không chuyên chở được. Sự thật không hề là như vậy. Những áp lực đó tùy mình lượng định mà chấp thuận hay tìm biện pháp hóa giải.
Tôi còn nhớ lần đó bộ kinh tế “thấu cáy ngược” bằng cách cho quân xa chở hết gạo tồn kho chạy khắp Saigon bán giá chính thức. Kết quả thương buôn người Hoa mở cửa chành lúa gạo của họ tuôn ra bán, thị trường ổn định trở lại. Tàu Mỹ chở gạo viện trợ lại bình thường.
Cựu Tổng Thống Ðại Hàn Pak Chung Hy đã trao đổi kinh nghiêm với Thiếu Tướng Kỳ về vấn đề viện trợ và áp lực của Mỹ trong bữa tiệc khoản đãi ông khi viếng thăm Việt Nam năm 1966. Ông nói: “Người Mỹ chẳng biết gì về nội tình của chúng ta cả. Các ông cứ làm theo quyết đoán của mình. Khi Mỹ thấy thành công họ sẽ hoan nghênh và ủng hộ mạnh hơn nữa, chính bản thân tôi đã có kinh nghiệm về điều đó tại Ðại Hàn. Còn nhiều vấn đề khác tôi biết được khi tôi thăm viếng Ðài Loan nhưng thiết nghĩ không cần phải đề cập thêm ở đây.
(Còn tiếp)
LTG.- Phần đầu hồi ký của tôi đã hoàn tất, nay đang trong thời ký hiệu đính để in thành sách. Trong phần đầu, có người khen, người chê, có người chấp nhận, có người phản bác. Trong trách nhiệm của một tác giả, tôi đã làm hết sức mình để hiệu chỉnh những điều lầm lẫn hay bảo vệ những chuyện mà tôi tin là sự thật vì đã tự thân trải qua, chứng kiến.
Tiếp tục ghi lại phần thứ II ký ức của mình, tôi muốn xác nhận một lần nữa là tôi chỉ ghi lại những sự việc đã xảy ra liên quan đến cuộc đời tôi, hoặc chính tôi chứng kiến xa gần hay do những người quen biết cùng thời, cùng giới, hiện còn sống thuật lại với tôi. Nếu có những ai cũng biết cùng một sự việc nào đó và có cái nhìn hay ý kiến khác biệt tôi vẫn luôn luôn tôn trọng, nhưng tôi vẫn cương quyết giữ nguyên vẹn những gì tôi trình bày vì tin chắc rằng đó là sự thật không thể thay đổi.
Cũng có một vài việc làm hay hành động liên quan đến nhân vật này hay nhân vật khác mà tôi không thể tự cho phép mình viết ra, dù là nhiều nhân chứng hãy còn sống biết rõ nhưng vì các nhân vật đó đã qua đời nên không còn có thể xác nhận hay phản biện. Ðó là lý do tôi đã phải thất hứa khi trong phần đầu tôi đã hứa viết về các sự việc diễn ra liên quan đến họ.
Nếu tôi có những lời phê phán về ý kiến hay hành động chính trị của ai đó hay về thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng qua cũng là vì chính bản thân tôi từng lặn lội khá nhiều trong chính trường miền Nam thời gian trước năm 1975 và chẳng qua cũng là những sự việc chẳng đặng đừng. Người ta có thể đồng tình với tôi hay chỉ trích tôi, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận, vì đó là quyền tự do tư tưởng.
Sau cùng viết hồi ký là bắt buộc phải nói đến cái tôi. Xin độc giả thứ lỗi nếu cái tôi có xuất hiện nhiều lần. Như tôi đã viết, mục đích tập hồi ký này là “để cho con cháu tôi biết được cha ông chúng nó đã sống như thế nào trong thời gian khá hỗn độn của tình hình đất nước.”
Những điều chưa được nói đủ về nền dân chủ của miền Nam Việt Nam
I.- Cuộc bầu cử cuối năm 1966
(tiếp theo)
Mâu thuẫn quân nhân-dân sự và Nam-Bắc bao trùm cuộc bầu cử
Xáo trộn chính trị của miền Trung làm lung lay uy tín của chính phủ trung ương. Dân chúng mất tin tưởng đối với các quân nhân lãnh đạo mặc dù họ luôn luôn trong nhờ sự bảo vệ của quân đội chống Cộng Sản Bắc Việt. Cộng thêm vào đó có sự từ chức tập thể của các vị tổng trưởng người miền Nam nên cái mâu thuẫn chính trị “quân nhân-dân sự” “Nam-Bắc” càng hiện rõ. Rõ hơn nữa do những lời tuyên bố vô ý thức của Ðại Tướng Nguyễn Khánh nói: “Quân đội là cha” và của Trung Tướng Nguyễn Ðức Thắng: “Dân sự là tép riu” được báo chí thời đó lặp đi lặp lại rất nhiều lần. Cho nên để đáp ứng với hiện tình chính trị thời điểm đó, chúng tôi nghĩ một liên danh dân sự ứng cử tổng thống sẽ có hy vọng chiếm được lòng dân. Và cũng vì vậy mà anh em chúng tôi không ngần ngại đề nghị cụ Trần Văn Hương ra ứng cử chỉ vì nghĩ rằng tiếng đồn cụ là người miền Nam, liêm chính, can đảm, từng bị tù đày vì chống chính sách gia đình trị của Tổng Thống Ngô Ðình Diệm, từng hiểu biết về Cộng Sản nên mới từ chối không đi tập kết ra Bắc, mặc dù cụ là Ðại Biểu Nhân Dân tỉnh Tây Ninh thời Việt Minh. Một nhân vật như cụ mới có hy vọng chiếm được sự ủng hộ của quần chúng.
Thời gian đó người ta hay nghĩ việc gì cũng phải có sự ủng hộ của đồng minh Hoa Kỳ, đặc biệt là vấn đề chính trị. Mặc dù chúng ta còn có các đồng minh khác như Ðại Hàn, Úc, Phi Luật Tân, nhưng Hoa Kỳ là chính vì đồng tiền viện trợ Mỹ khổng lồ và quân số tham chiến của nước này lên đến trên 500,000 người. Thời gian đó Hoa Kỳ là cường quốc lãnh đạo thế giới tự do trong mặt trận chống sự bành trướng Cộng Sản, đặc biệt ở Á Châu, Cộng Sản Trung Cộng đứng đầu. Do đó báo chí Mỹ thường xuyên gán cho chúng ta danh từ là “Tiền Ðồn Chống Cộng” và Tổng Thống Mỹ cũng đã từng giải thích với quốc dân Hoa Kỳ là: tốt nhứt chúng ta đưa quân đánh giặc ở ngoài nước Mỹ còn hơn chống giặc tại Hoa Kỳ. Các quân lính đồng minh khác tham chiến do Hoa Kỳ gánh chịu phí tổn về mọi mặc, lại còn đài thọ thêm một ngân khoản đặc biệt khác. Bằng cớ là tổng lợi tức quốc gia của Nam Hàn thời điểm đó có mục ghi là “nhập cảng trắng”, chuyên gia Việt Nam hỏi đối tác Ðại Hàn có trách nhiệm về kinh tế được trả lời: “Tiền viện trợ Mỹ vì lý do lính Ðại Hàn tham chiến ở Việt Nam.”
Như tôi đã đề cập ở đoạn trên về sự can thiệp của Mỹ, theo chỗ tôi biết: người Mỹ luôn tránh can thiệp theo kiểu ra lệnh hay đưa điều kiện như người ta thường rêu rao và đặt câu hỏi: “Mỹ đã bật đèn xanh chưa?”, “Không có bàn tay lông lá (ý nói người Mỹ) thì không làm gì được”. Thực tế họ sử dụng cách liên lạc để khuyên giải hay thông qua các “cố vấn” của họ đưa tin với mục đích thay chiều đổi hướng, nhằm đạt mục tiêu theo chủ trương và chính sách của Hoa Kỳ. Thời gian 1968, quân đội Mỹ trực tiếp tham chiến với toàn lực. Chính phủ Mỹ đang triệt để ủng hộ đồng minh Việt Nam Cộng Hòa với thiện tâm thiện ý, quyết thắng Cộng Sản hay ít ra là cầm chân Hà Nội như Nam-Bắc Ðại Hàn. Cuộc bầu cử đầu tiên của nền đệ nhị Cộng Hòa có tầm quan trọng đặc biệt đối với Mỹ. Bởi vì Hoa Thịnh Ðốn muốn chứng minh sự viện trợ tài chánh và tham chiến của quân đội Mỹ với mục đích bảo vệ miền Nam Việt Nam tự do là đúng. Bầu cử tự do lần nầy của Việt Nam Cộng Hòa chứng minh cho dân chúng Mỹ và thế giới thấy chiến lược toàn cầu và “chính sách Domino của Hoa Kỳ đạt kết quả. Cho nên các tham vụ ngoại giao tòa đại sứ Mỹ hoạt động ráo riết, hết tiếp xúc với liên danh nầy tìm hiểu lập trường, đến liên danh khác để biết chủ trương và thực lực. Quan trọng hơn cả là khuyên giải, trình bày ý kiến, thậm chí thương lượng, dàn xếp, đề nghị những công thức chính trị khả dĩ ổn định tình hình để quân đội Mỹ-Việt chiến đấu chống Cộng.
Trong tinh thần và mục tiêu đó, đệ nhứt tham vụ ngoại giao Robert Okley thường xuyên liên lạc tiếp xúc với tôi để bàn thảo, thu nhặt tin tức. Ông không ngần ngại nói thẳng với tôi rằng: Mâu thuẫn “quân nhân-dân sự và Nam-Bắc” là vấn đề cần phải được giải quyết êm đẹp. Vì vậy ông đề nghị với tôi nếu liên danh Trần Văn Hương chấp nhận cho Thiếu Tướng Nhuyễn Cao Kỳ tiếp tục làm thủ tướng thì Trần Văn Hương sẽ đương nhiên đắc cử không cần vận động. Bởi vì tổng thống dân sự cai trị với thủ tướng quân nhân, tổng Thống người Nam hợp tác với thủ Tướng người Bắc. Dĩ nhiên tôi hiểu hai chữ “đương nhiên” của Robert Okley là sự rỉ tai của các cố vấn quân sự và dân sự Mỹ với người Việt Nam có ít nhiều quyền thế trong guồng máy quốc gia và ảnh hưởng với xã hội bên ngoài. Nhóm người Mỹ nầy nếu họ vận động cho ai thì có hiệu năng hơn và họ đông gấp bội những vận động viên do mình trả chi phí hay chịu tham gia vì cảm tình.
Khi sang Mỹ năm 2002 tôi có liên lạc với Robert Okley, cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Pakistan, tại Somalie, và viện trưởng Viện Chống Khủng Bố một thời. Ông khẳng định với tôi: “Les amis sont toujours des amis” (những người bạn lúc nào cũng là bạn).
Tôi xem đề nghị của Robert Okley rất đáng được lưu ý và có thể là một giải pháp lý tưởng trong khi vấn đề tài chánh của liên danh Trần Văn Hương không thể nào so sánh nổi với ngân quỹ của liên danh Nguyễn Văn Thiệu- Nguyễn Cao Kỳ. Tôi không dám đoan chắc rằng đương kim Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia Nguyễn Văn Thiệu không trích quỹ đen của thủ tướng, của Ủy Ban Lãnh Ðạo hay của cảnh sát quốc gia để chi dùng trong vấn đề bầu cử nầy, đó là chưa kể các tài phiệt người Hoa như Lý Long Thân hay người Việt như Nguyễn Cao Thăng, ngấm ngầm yểm trợ. Tôi vội vã bàn với anh Nguyễn Văn Trường và chúng tôi quyết định ra Vũng Tàu gặp Trần Văn Hương để lấy ý kiến.
Sáng hôm sau Trường và tôi đến Vũng Tàu ghé qua biệt thự nơi tạm giam ông Hương thì được biết người con của ông Nhứt đưa ông Hương đi dạo ở Bãi Dâu. Chúng tôi đến đó thấy cụ Hương ngồi trên đồi cao, hai tay chống trên đầu cây gậy, mặt trầm ngâm nhìn biển. Tôi tường thuật những gì Robert Okley đề nghị với tôi và bày tỏ ý kiến của tôi là nên chấp thuận. Mặc dù anh Trường không nói thêm để can thiệp vào nhưng ngày hôm trước anh đã biểu đồng tình với tôi về việc nầy. Cụ Hương phản ứng ngay gần như bị chạm trúng độc dị ứng:
- Không được đâu. Giao chức thủ tướng cho Nguyễn Cao Kỳ cũng bằng giao trứng cho ác, ông ta muốn đảo chánh bất cứ lúc nào cũng được.
Có lẽ ý nghĩ đảo chánh và bị giam lỏng ở đây còn ám ảnh cụ Hương nặng quá nên cụ không muốn cân nhắc lợi hại gì cả. Tôi phản bác, cố gắng lý luận để thuyết phục cụ:
- Một khi nắm chính quyền rồi thì mình toàn quyền cắt cử những vị quân nhân nào đáng tin cậy giữ những chức vụ then chốt để ngăn ngừa đảo chánh. Vả lại mình có thể vịn vào hiến pháp để dàn xếp với dân biểu, nghị sĩ Quốc Hội bãi chức thủ tướng khi thấy có triệu chứng bất đồng.
- Không được, em không có kinh nghiệm bằng qua đâu. Em còn trẻ, nhẹ dạ, thời buổi nầy mình không thể tin ai được đâu !
- Nếu chúng ta không chấp nhận đề nghị nầy, mà tôi thấy là hữu lý, thì tôi e rằng cuộc vận động của mình sẽ gian nan. Thôi thì tôi tin bác, bây giờ mình chỉ còn trông cậy vào uy tín của bác và đặt hết hy vọng vào sự sáng suốt của quần chúng.
Anh Nguyễn Văn Trường can thiệp vào câu chuyện rất ít, tôi không còn nhớ anh đóng góp ý kiến gì nhưng không ngoài những gì chúng tôi đã thảo luận và đồng ý hôm trước.
Cuộc tiếp xúc lần nầy cho tôi thấy cụ Hương không hành xử như một “sắc thần” theo lời cụ nói với tôi ngày trước. Dĩ nhiên tôi tôn trọng quyết định của cụ, nhưng không khỏi thắc mắc về thái độ cứng rắn mà cụ tỏ lộ, cụ không chịu phân tích lợi hại, không xét đoán với lý lẽ chính trị, không tương nhượng để đạt mục tiêu. Thú thật tôi hơi nản lòng. Nhưng tự nhủ mình: dù sao cụ Hương cũng là nhân vật chính. và mình cũng đã chọn mặt gởi vàng rồi thì cứ đành liều mà đưa chân. Tôi thầm nghĩ rồi đây còn biết bao nhiêu điều mình phải biện bác với cụ Hương nữa?
Có lẽ lối suy nghĩ của tôi nhuốm màu sắc chính trị của hiện tình đất nước. Cách lý luận của tôi dựa vào lý trí và lô-gíc. Khác biệt hoàn toàn với định kiến, cảm tính, và sự cứng lì của cụ Hương.
Tôi tự hỏi phải chăng mình đã nhẹ dạ và ngây thơ thật, cả tin vào lời của cụ Hương ngày trước khi mới gặp nhau: qua như là “sắc thần, các em là hương chức hội tề đem sắc thần ra mà làm lễ cúng đính”. “Các em tính sao thì qua nghe theo vậy”. Tôi khởi sự ngờ vực và trên đường về Saigon tôi nói năng lung tung, bực bội về lối suy nghĩ và thái độ của cụ Hương. Còn anh Trường thì chỉ cười nhiều hơn tiếc rẻ hay buồn phiền. Không biết anh cười tôi hay cười cho việc làm của hai đứa.
Mọi việc rồi cũng nhanh chóng trôi vào quên lãng, bởi lẽ chúng tôi còn phải phân công vận động, còn phải tiếp xúc thảo luận để lập liên danh ứng cử thượng nghị sĩ. Cho đến một ngày, Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ Katzenback viếng thăm Saigon, tham vụ Robert Okley yêu cầu tôi dàn xếp để ông thứ trưởng mời được cụ Trần Văn Hương dùng cơm và đàm đạo. Tôi nhận lời ngay vì nghĩ rằng đây là cơ hội tốt để cho liên danh Trần Văn Hương có thể phơi bày tường tận quan điểm chính trị và nhận xét của mình về tình hình quốc nội cũng như lập trường và đường lối chống Cộng Sản. Ðồng thời còn có thể dọ hỏi ý đồ của người Mỹ xem họ có thay đổi gì không?
Anh Trường và tôi lại đi Vũng Tàu thông báo lời mời cụ Hương dùng cơm. Cụ trả lời ngay:
- Không đi được vì trên đường về Saigon Thiệu-Kỳ cho người đón đường giả Việt cộng thủ tiêu mình thì sao?
Sự dè dặt của cụ quá đáng nhưng không phải vô lý. Bởi vì Nguyễn Ngọc Loan khét tiếng ngang tàng và sắt máu. Tôi về Saigon gặp lại Robert Okley, đề nghị với ông nếu muốn mời Trần Văn Hương thì phải dùng trực thăng Mỹ rước ông từ Vũng Tàu và đưa về. Dĩ nhiên, Robert Okley mừng rỡ hẹn ngày giờ ngay. Chúng tôi trở ra Vũng Tàu thông báo và điều quan trọng là căn dặn cụ Hương đừng bao giờ nhận làm thủ tướng cho liên danh Thiệu-Kỳ. Bởi vì mình đã từ chối giao chức vụ nầy cho Nguyễn Cao Kỳ. Chúng tôi lặp đi lặp lại nhiều lần vấn đề then chốt nầy và còn giải thích rõ ràng nếu cụ nhận lời làm thủ tướng thì mình không cần vận động nữa, bởi vì thất cử là chắc chắn. Mỹ sẽ dùng cố vấn của họ rỉ tai vận động cho Thiệu Kỳ. Nếu cụ không chấp nhận làm thủ tướng thì chúng mình còn hy vọng tranh cử ngang ngửa với nhau. Một bên là Thiệu-Kỳ có tiền và có quyền còn một bên là mình có uy tín, có cảm tình của quần chúng. Cụ Trần Văn Hương hứa chắc với tôi không bao giờ chấp nhận làm thủ tướng. Chúng tôi yên chí trở về Saigon chuẩn bị những bước kế tiếp cho cụ Hương.
Tôi không nhớ ngày nào cụ Hương dùng cơm trưa với thứ trưởng ngoại giao Mỹ tại tư gia của đại sứ Hoa Kỳ ở gốc đường Phùng Khắc Khoan-Phan Thanh Giản. Nhưng khoảng hai giờ chiều, giám đốc văn phòng đài truyền hình Nhật Bản NHK, ông Kimura với thông dịch viên tên Ðoan, đến nhà tôi ở gần đó, số 28ter đường Mạc Ðĩnh Chi. Câu nói đầu tiên của ông Kimura là:
- Ticket của ông thất cử rồi. (Ticket: liên danh)
- Tại sao ông nói vậy?
- Tại vì ông Hương chấp nhận làm thủ tướng cho Thiệu-Kỳ thì còn tranh cử làm gì nữa?
- Không khi nào có chuyện đó, bởi lẽ tôi đã căn dặn kỹ lưỡng và ông Hương đã hứa chắc với tôi không khi nào chấp nhận làm thủ tướng.
- Tôi mới vừa phỏng vấn ông thứ trưởng ngoại giao Mỹ tại nhà ông đại sứ đây.
- Tôi không tin là ông Katzenback nói thật. Ðó chỉ là ước muốn của ông ấy và lời tuyên bố của ông ta chỉ là một trái bóng thả dò đường hay gợi ý mà thôi.
- Nếu ông không tin tôi thì xin ông chờ mười lăm ngày nữa, khi chính thức vận động, các ông sẽ họp báo, câu hỏi đầu tiên của tôi đối với các ông là câu hỏi về vấn đề nầy.
Tôi bán tín bán nghi, lòng nóng như lửa đốt, gọi anh Trường cùng đi với tôi ra Vũng Tàu sáng hôm sau. Ðến nơi chúng thăm hỏi cụ Hương về bữa tiệc hôm qua và nhân tiện tôi tìm lời xác nhận của cụ Hương:
- Bác có hứa với ông thứ trưởng ngoại giao nhận chức thủ tướng nếu mình thất cử không?
- Không có đâu !
- Tại sao ông Kimura giám đốc văn phòng đài truyền hình NHK khẳng định với tôi là bác đã hứa rồi?
- Qua đã nói với em là không có,
Rồi ông cười hơi gượng gạo. Tôi càng nghi ngờ. Trên đường về tôi cứ xoay quanh vấn đề nầy, anh Trường hơi khó chịu, anh nói: “Chờ mười lăm ngày nữa là toa biết liền chớ gì?”
Hình như anh Trường cũng ngờ vực như tôi, nhưng tánh anh trầm tĩnh, hiền hòa nên kềm chế dễ dàng sự bất mãn hay bực tức của anh. Tôi phải chịu đựng sự thắc mắc trong đầu mười lăm ngày, cho đến lúc họp báo. Sau lời tuyên bố bằng tiếng Việt và tiếng Anh do ông Tôn Thất Thiện đại diên đọc xong. Ông Kimura là người đầu tiên đưa tay xin hỏi như ông đã hứa.
- Theo chỗ chúng tôi được biết thì cụ đã nhận lời, nếu thất cử, sẽ làm thủ tướng cho liên danh Thiệu-Kỳ có đúng không?
Trần Văn Hương trả lời:
- Nếu người ta cho tôi thực quyền, nếu vì quyền lợi quốc gia, tôi chấp nhận.
Nguyên văn câu trả lời nầy được toàn bộ báo chí Saigon đặt “tít” lớn tám cột trên trang nhứt. Tôi nín hơi. Thất vọng tràn trề. Những gì xẩy ra kế tiếp tôi không để ý đến nữa. Ngồi hàng ghế đầu cạnh Trần Văn Hương, tôi triền miên suy nghĩ về câu trả lời của ông, về cá nhân ông, về bản thân tôi, về thái độ và hành động của tôi trong những ngày kế tiếp, về tương lai chính trị của Trần Văn Hương, của tôi và của đất nước tôi. Mọi ý nghĩ lẫn lộn và cảm giác bàng hoàng.
Sau cuộc họp báo tôi về cùng với cụ Hương tại căn phố cụ ở tạm đường Nguyễn Du, do một nha sĩ bạn của cụ cho mượn. Tôi nặng lời trách móc cụ trước mặt người cháu của cụ hình như là một đại úy hải quân, tên là Lễ, sau nầy là đổng lý văn phòng Bộ Công Chánh dưới thời Tổng Trưởng Lương Thế Siêu. Tôi hỏi tại sao những vấn đề quan trọng như vậy cụ Hương không chịu bàn thảo với chúng tôi, mà trái lại giấu diếm nếu tôi không muốn nói là gạt gẫm. Cụ xem chúng tôi là ai? Là những cộng sự viên? Là những người hết tình giúp đỡ và cộng tác với cụ? Những người không ngại tai tiếng nguy hiểm, tháo gỡ cho cụ trong tình trạng bị giam lỏng với một trung đội lính canh chừng? Hay chúng tôi là những đứa trẻ nhẹ dạ ngây thơ tin lời cụ nói thật? Cụ Hương ngồi lặng thinh. Có lẽ cụ không ngờ sự thỏa thuận ngầm giữa cụ và Thứ Trưởng Ngoại Giao Hoa Kỳ Katzenback bị công khai phơi bày như vậy. Câu cuối cùng tôi nói với cụ Hương là: “Dù biết chắc là thua trận rồi nhưng tôi cũng phải đánh tiếp vì danh dự, người Pháp thường nói là ‘Baroud d'Honneur’. Khi ra khỏi cửa nhà cụ Hương, anh Nguyễn Văn Trường buồn bã nói với tôi một câu nhẹ nhàng: “Toa nói nhiều quá để làm gì? Cũng vô ích thôi...”
Trong sự buồn tức vì có cảm giác bị cụ Hương xem thường, không phải một mình tôi, mà cả nhóm anh em trí thức có tên tuổi miền Nam, có khả năng, có lòng với đất nước, nào là Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Văn Trường, Nguyễn Khắc Thành, Nguyễn Bá Nhẫn... Các dân biểu và giáo sư đã từng trực tiếp nghe cụ luôn miệng xác nhận: Qua là “Sắc Thần” và “Các em quyết định sao qua nghe theo vậy”. Cụ nghĩ gì về những người bạn đang ủng hộ và vận động cho cụ? Những người đó sẽ nghĩ gì khi cụ hứa một điều mà làm một ngả. Nhứt là về một vấn đề quan trọng như vậy? Cụ Hương không thấy rõ điều lợi hại. Cụ không theo dõi được hiện tình quốc nội và quốc tế vì cụ bị cô lập trong thời gian quá lâu dài trong một biệt thự không có người dám đến thăm.
Tôi đoán già đoán non rằng có thể cụ Hương thấy tuổi đã cao mà không thành công, không có gì bảo đảm cho hậu vận, thôi thà chấp nhận “nếu người ta cho mình thực quyền” cũng là một dịp để thử thách. Còn đối với những bạn trẻ ủng hộ mình thì dù có bị bội tín cũng chẳng sao. Bàn tay họ đã tự nhúng chàm vào việc bầu cử nầy rồi. Vả lại, cũng có thể cụ nghĩ rằng chuyện nầy chỉ có một mình cụ và Katzenback biết mà thôi nên cụ Hương mới giấu kín với chúng tôi như vậy. Cụ không thể ngờ đã bỏ cơ hội tốt và do đó cụ đã tự lìa xa những người bạn trẻ chí tình với cụ.
Thực tế, Nguyễn Văn Trường và tôi có thể nhân danh là người đại diện chính thức của liên danh Trần Văn Hương trả lời ngay cho Robert Okley rằng chúng tôi bằng lòng hợp tác với Nguyễn Cao Kỳ, vì dù sao Trường và Tôi cũng từng là tổng trưởng của ông ta và được ông ta coi trọng. Nhứt là cụ Hương đang còn bị giam lỏng ở Vũng Tàu và cụ không dám về Saigon dự tiệc bằng đường bộ. Nếu chúng tôi nhân danh Trần Văn Hương chấp thuận giải quyết cái mâu thuẫn chính trị “Quân sự-dân sự và Nam-Bắc” bằng công thức Tổng Thống Trần Văn Hương và Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ thì sự vận động của chúng tôi sẽ dễ dàng hơn.
Nhưng chúng tôi không làm như vậy vì chúng tôi không thuộc hạng người đầu tư chính trị mà chúng tôi chỉ nghĩ lợi ích quốc gia và lúc nào cũng muốn giữ sự trung tín đối với người mình hợp tác.
(Còn tiếp)
LTG.- Phần đầu hồi ký của tôi đã hoàn tất, nay đang trong thời ký hiệu đính để in thành sách. Trong phần đầu, có người khen, người chê, có người chấp nhận, có người phản bác. Trong trách nhiệm của một tác giả, tôi đã làm hết sức mình để hiệu chỉnh những điều lầm lẫn hay bảo vệ những chuyện mà tôi tin là sự thật vì đã tự thân trải qua, chứng kiến.
Tiếp tục ghi lại phần thứ II ký ức của mình, tôi muốn xác nhận một lần nữa là tôi chỉ ghi lại những sự việc đã xảy ra liên quan đến cuộc đời tôi, hoặc chính tôi chứng kiến xa gần hay do những người quen biết cùng thời, cùng giới, hiện còn sống thuật lại với tôi. Nếu có những ai cũng biết cùng một sự việc nào đó và có cái nhìn hay ý kiến khác biệt tôi vẫn luôn luôn tôn trọng, nhưng tôi vẫn cương quyết giữ nguyên vẹn những gì tôi trình bày vì tin chắc rằng đó là sự thật không thể thay đổi.
Cũng có một vài việc làm hay hành động liên quan đến nhân vật này hay nhân vật khác mà tôi không thể tự cho phép mình viết ra, dù là nhiều nhân chứng hãy còn sống biết rõ nhưng vì các nhân vật đó đã qua đời nên không còn có thể xác nhận hay phản biện. Ðó là lý do tôi đã phải thất hứa khi trong phần đầu tôi đã hứa viết về các sự việc diễn ra liên quan đến họ.
Nếu tôi có những lời phê phán về ý kiến hay hành động chính trị của ai đó hay về thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng qua cũng là vì chính bản thân tôi từng lặn lội khá nhiều trong chính trường miền Nam thời gian trước năm 1975 và chẳng qua cũng là những sự việc chẳng đặng đừng. Người ta có thể đồng tình với tôi hay chỉ trích tôi, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận, vì đó là quyền tự do tư tưởng.
Sau cùng viết hồi ký là bắt buộc phải nói đến cái tôi. Xin độc giả thứ lỗi nếu cái tôi có xuất hiện nhiều lần. Như tôi đã viết, mục đích tập hồi ký này là “để cho con cháu tôi biết được cha ông chúng nó đã sống như thế nào trong thời gian khá hỗn độn của tình hình đất nước.”
Những điều chưa được nói đủ về nền dân chủ của miền Nam Việt Nam
I.- Cuộc bầu cử cuối năm 1966 (tiếp theo)
|
Trên bình diện chính trị phải nhận định rằng: Nội tình của nước Mỹ thời đó buộc chính phủ Hoa Kỳ phải chứng minh cho dư luận quần chúng thấy rằng sự trực tiếp can thiệp của họ vào Việt Nam có mục đích giúp xứ này giữ được nền tự do dân chủ, để không bị nhuộm đỏ bởi CSBV. Vì vậy nếu miền Nam Việt Nam có được một chính phủ dân sự thì điều đó sẽ gây ảnh hưởng tốt cho Hoa Kỳ không những tại Mỹ mà còn đối với thế giới bên ngoài nữa. Nếu thực tế không được như vậy thì ít ra Hoa Kỳ cũng giúp cho miền Nam có được sự ổn định chính trị tương đối để quân đội đồng minh tiếp tục chiến đấu.
Tại quốc nội, lời tuyên bố của Trần Văn Hương đã dẫn đến việc những thương gia có máu mặt dồn sự ủng hộ tài chánh cho liên danh Thiệu-Kỳ như Nguyễn Cao Thăng, Lý Long Thân và một số những người khác không muốn lộ diện.
Phần chúng tôi, tuy không hài lòng về suy nghĩ và hành động của cụ Trần Văn Hương, nhưng cũng phải tiếp tục ủng hộ cụ vì “tay đã lỡ nhúng chàm”. Cái “Baroud d' Honneur” đó khiến chúng tôi phải tận sức, vận động hết mình với hy vọng biết đâu lòng dân sáng suốt sẽ làm đảo ngược được thế cờ. Thành công hay thất bại chúng tôi vẫn thấy hài lòng vì chúng tôi đã làm hết sức mình. Nếu chúng tôi buông trôi, thất bại sẽ nặng nề, cụ Hương được quá ít phiếu, tai tiếng đó không tốt, chỉ có chúng tôi phải mang, bởi vì chúng tôi gánh trách nhiệm ủng hộ cụ Hương ra tranh cử chứ tự cụ không thể rời khỏi nơi ông bị giam lỏng và cũng không thể tập hợp được một “ban bệ” như hiện tại để tổ chức vận động bầu cử cho chính mình.
Công tác vận động không có gì đáng nói, ngoại trừ ngày 6 Tháng Bảy 1967 Ðại Tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu trưởng và bốn vị tư lệnh bốn vùng chiến thuật gởi thơ phản đối Quốc Hội đã chấp thuận đơn ứng cử của Ðại Tướng Dương Văn Minh vì Hội Ðồng Quân Lực không chấp nhận cho Tướng Minh hồi hương. Văn thơ đó là một dấu hiệu rõ ràng chứng minh quân đội trực tiếp can thiệp vào công việc bầu cử tự do. Văn thơ đó cũng cho thấy một áp lực tinh thần đối với quân nhân các cấp rất nặng, có lợi cho liên danh quân sự Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ. Chưa kể các tướng lãnh tư lệnh bốn vùng chiến thuật có thể chỉ thị trực tiếp buộc những vị quân nhân hiện nắm quyền tỉnh trưởng và quận trưởng trên toàn quốc phải vận động qua hệ thống hành chánh mà họ điều hành ủng hộ liên danh Thiệu-Kỳ. Ảnh hưởng của đa số công chức địa phương sẽ đem lại số phiếu đáng kể để liên danh này đắc cử mà không cần phải gian lận, tráo đổi thùng phiếu hay cho người bỏ phiếu thêm vào thay cho cử tri vắng mặt.
Chúng tôi chia nhau chạy khắp xứ, từ Nam ra Trung. Riêng Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, cựu đổng lý tại Bộ Quốc Phòng lãnh nhiệm vụ đi vùng II chiến thuật nơi mà ông đã từng giữ chức tỉnh trưởng ở Ban Mê Thuột. Trong cuộc vận động đó ông đã nặng lời chỉ trích Trung Tướng Nguyễn Văn Thiệu. Trên lý thuyết, và chiếu luật bầu cử, mọi lời phát biểu được tự do và không thể bị kết tội hay trả thù. Do đó Luật Sư Trương Ðình Dzu chẳng những phê bình sự kém khả năng lãnh đạo của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ mà còn lôi đời tư của ông và gia phả của ông ra phê phán. Sau cuộc bầu cử Nguyễn Cao Kỳ không trả đũa Trương Ðình Dzu được vì ông là luật sư và là dân sự. Riêng Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh còn trong hệ thống quân đội nên bị Trung Tướng Thiệu đày ra vùng I Chiến Thuật và bị đặt dưới quyền chỉ huy của một sĩ quan cấp bực nhỏ hơn cốt để làm bỉ mặt ông một thời gian.
Tôi còn nhớ đêm chờ kết quả bầu cử Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh và anh Nguyễn Văn Trường nằm tại nhà Giáo Sư Nguyễn Văn Bông ở đường Phan Thanh Giản. Các anh ấy cố ý chờ tôi đến góp mặt nhưng tôi biết trước là thất cử rồi nên không muốn đến vì tôi nghĩ bàn tán về những cái “tại sao” thất cử thì càng buồn tức thêm. Sáng hôm sau Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh trách móc tôi, dĩ nhiên là trong tình bạn cười xòa nhưng lời xỉ vả không thiếu ngôn từ nặng ký. Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh hiện định cư tại Orange County.
Kết quả bầu cử ngày 4 Tháng Chín năm 1967, liên danh Trần Văn Hương-Mai Thọ Truyền thất cử như đã tiên đoán. Không phải tại vì Mỹ không bật đèn xanh hay đèn đỏ gì cả, càng không phải tại “bàn tay lông lá” ngăn cản mà là tại liên danh Trần Văn Hương-Mai Thọ Truyền không chịu lợi dụng cơ hội, không chịu khai thác lợi điểm, không nhìn rõ tình hình chính trị quốc tế và quốc nội.
Thiết nghĩ ứng cử tổng thống không phải là một chuyện “thử thời vận” như mua giấy số để cầu may, ngược lại phải do sự nhận định, phân tích tình hình, tính toán chính trị và kết hợp những dữ kiện có thể đưa đến thành công. Cụ Hương không có khả năng đó vì cụ bị cô lập khá lâu trong khi mọi diễn biến chính trị dồn dập thay đổi không ngừng hàng ngày. Chỉ tiếc rằng cụ đã có được một nhóm trí thức và dân biểu trẻ đầy nhiệt quyết ủng hộ nhưng cụ không tin và không nghe sự tư vấn của họ do chủ quan tin rằng uy tín của mình cao, đủ để thắng cử. Cũng có thể cụ Hương toan tính đăng cá bằng hai cái “lờ” đặt kế tiếp nhau (tiếng miền quê chỉ một cái võ lớn đan bằng tre có lỗ hom cá vô được mà không ra được), dự trù nếu không đắc cử tổng thống thì cũng sẽ nắm ghế thủ tướng.
Ðối với chúng tôi, sự thất cử của Trần Văn Hương vẫn đem lại một sự an ủi và niềm hãnh diện bởi vì tại thủ đô Saigon liên danh Trần Văn Hương-Mai Thọ Truyển dẫn đầu với số phiếu:
Trần Văn Hương-Mai Thọ Truyền: 151.102 phiếu.
Nguyễn Văn Thiệu-Nguyễn Cao Kỳ: 148.933 phiếu.
Trương Dính Dzu-Trần Văn Chiêu: 83.374 phiếu.
Cứ xét theo kết quả của Saigon, nơi mà các sĩ quan của quân đội không thể gây áp lực để ảnh hưởng như tại các tỉnh thì có thể nói được là liên danh Trần Văn Hương có nhiều khả năng thắng cử tổng thống nếu các tỉnh trưởng đứng trung lập. Trần Văn Hương thắng phiếu tại Saigon cho thấy rằng tình hình chính trị của miền Nam trong thời gian đó rất tế nhị và phe quân nhân kiểm soát tình hình.
Bởi vì tình hình chính trị thế giới trong thời điểm chiến tranh lạnh, Hoa Kỳ và các nước đồng minh tự do của họ chủ tâm thực hiện chiến lược toàn cầu là “be bờ” cộng sản. Hoàn cảnh đó đòi hỏi nhà lãnh đạo Việt Nam phải có hiểu biết rộng, theo sát biến chuyển chính trị quốc tế, đủ khôn khéo, có bản lĩnh và gan lì để đối phó không những với cộng sản, bọn nằm vùng mà còn cả đối với những mưu toan chính trị của đồng minh. Dù thế nào, Hoa Kỳ cũng phục vụ quyền lợi của họ trước nhất và chính vì thế nếu không có cương nhu phối triển thì không thể phá vỡ được những toan tính của những chính trị gia Tòa Bạch Ốc.
Riêng tôi sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, bị cộng sản lùa vào tù cùng với đa số đồng đội đồng hành, tôi thường suy nghĩ về vận nước, nghĩ đến từng sự việc liên quan đến bản thân tôi, từng thái độ và hành động của chính mình. Từ sự từ chức tổng trưởng, không chấp nhận vai trò đại sứ, chấp nhận thi hành nghĩa vụ quân dịch, từ chối không tham gia đảo chánh và lập chính phủ, từ chối nhũng lời mời tham gia nội các v.v... Khi thì tôi hối tiếc vì nghĩ rằng mình đã phạm sai lầm, khi thì tôi hãnh diện vì đã hành động theo lương tri, lập trường, nhứt là về hai câu trả lời của tôi khi đối đáp với Cáp Xuân Diệm, phó giám đốc sở công an thành phố tại trại giam Phan Ðăng Lưu khoảng cuối năm 1977. Diệm dùng hết lời tâng bốc, khuyến dụ tôi hợp tác với “cách mạng” không thành, ông nói:
- Chính phủ ngu lắm mới không dùng những người có tài như anh, nhưng bây giờ không biết anh theo ai đây?
- Tôi hoàn toàn không có tài, nếu tôi có tài chắc chắn các anh không chiếm được miền Nam. Còn vấn đề tôi theo ai thì các anh đã biết rồi còn hỏi tôi làm gì?
Và lần thứ hai khoản đầu năm 1978 tại sở công an thành phố, nha cảnh sát đô thành cũ, Cáp Xuân Diệm lại dụ dỗ:
- Tôi kính phục những người thức thời như một số anh em đã từng cộng tác với anh, tại sao anh không chịu hợp tác với “cách mạng” như các bạn đó?
- Dân tộc Việt Nam hiện có 45 triệu người. Thống kê của các anh cho con số 2 triệu đảng viên. Vậy 45 triệu người đâu phải ai cũng làm cách mạng? Tôi không theo cộng sản đi làm “cách mạng” với các anh thì cứ xem như tôi hèn nhát không dám làm cách mạng đi.
- Này, hèn là anh nói đấy nhé, hèn là phản bội, đó là quy luật.
Tự ái của tôi bị xúc phạm nặng nề, tôi phản ứng:
- Xin lỗi anh, tôi bị các anh bắt vào đây là đã xem như mất tất cả, kể cả mạng sống, nhưng tôi không để mất danh dự của mình. Xin anh đừng dùng ngôn ngữ đó.
Cáp Xuân Diệm nổi giận đập bàn nói:
- Vậy hả? Ði xuống.
Tôi vừa nói vừa cười ruồi theo giọng “cà khỉnh” của dân miền Nam:
- Xuống thì xuống.
Từ đó tôi bị đày đọa, bỏ đói, ở hết biệt giam khu tử hình đến các khu khác. Tóm lại con đường tôi đi có gian nan có vui buồn khổ cực nhưng tôi bằng lòng chấp nhận số phận của mình cũng như vận mạng của muôn ngàn người Việt Nam khác chìm nổi theo cơ trời vận nước.
Trở lại cuộc bầu cử 1966, liền ngay sau kết quả bầu cử, bào huynh của Tân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến tận nhà tôi bàn việc hợp tác để thành lập chánh phủ. Tôi từ chối một cách dứt khoát với lời lẽ thiếu cảm tình đối với Nguyễn Văn Kiểu. Tôi nói thẳng:
- Anh Kiểu, tôi rất quí anh, tụi mình quen biết nhau khá nhiều. Tôi thú thật nếu anh là tổng thống tôi sẵn sàng làm bí thư, tùy viên hay thư ký để anh sai vặt. Còn Nguyễn Văn Thiệu tôi không có hứng thú để làm việc chung mặc dù tôi và ông ấy cũng đã từng hiểu nhau qua nhiều sự việc.
Nguyễn Văn Kiểu cố tâm thuyết phục tôi không được. Cuối cùng anh yêu cầu tôi giới thiệu người. Tôi trả lời:
- Anh quen biết giới chính trị nhiều hơn tôi, anh có kinh nghiệm già dặn hơn tôi nhiều, làm sao tôi dám múa rìu qua mắt thợ?
Câu chuyện chấm dứt nơi đây. Ba ngày sau Nguyễn Văn Kiểu trở lại. Chúng tôi cười nói vui vẻ, trà nước hồi lâu thuật nói chuyện tiếu lâm rồi cười nghiêng ngả với nhau. Anh Kiểu là người rất hoạt bát, bụng đầy những mẩu chuyện tiếu lâm và anh thường dùng các chuyện tếu đó để làm cho những cuộc họp mặt vui vẻ thoải mái. Cuối cùng anh nói:
- Triều à, hôm trước tụi moa đề nghị toa hợp tác nhưng toa không chịu. Bây giờ moa đề nghị với toa tụi mình tổ chức đối lập đi. Ðối lập xây dựng với nhau.
Tôi nóng mặt nói liền:
- Anh Kiểu, anh xem tôi là ai? Tụi mình quen biết nhau khá nhiều chẳng lẽ anh đánh giá tôi rẻ như vậy sao? Có phải anh đề nghị tôi làm cò mồi cho Nguyễn Văn Thiệu không? Hay anh đề nghị tôi làm đối lập cuội để đội trên đầu một anh chàng tôi không coi trọng? Nếu anh còn xem tôi là bạn và anh còn muốn duy trì tình bằng hữu giữa chúng mình thì xin anh tiếp tục uống trà nói chuyện tiếu lâm tốt hơn là bàn việc của Nguyễn Văn Thiệu với tôi.
Sau cuộc trà đàm, anh Kiểu và tôi chia tay nhau trong tình thân mật như cũ.
Sở dĩ tôi dứt khoát từ chối hợp tác với Tân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là vì như tôi đã trình bày trong quyển hồi ký tập I của tôi. Thứ nhứt về việc tôi từ chức, ông xác nhận với tôi là ông triệt để ủng hộ vì là việc hữu tình hữu lý, và ông còn khuyên tôi nới rộng vấn đề, ông kể thêm tên vài người khác ông không vừa ý mà tôi không tiện viết ra đây, ông nói: “Ðàng sau lưng toa có moa Triều”. Nhưng trước mặt ban lãnh đạo quốc gia và nội các thu hẹp trong bữa cơm thông cảm ông hoàn toàn nói theo ý kiến ngược. Thứ hai ngày anh Trường và tôi gặp ông tại tư thất trong Bộ Tổng Tham Mưu ông nhiều lần gạn hỏi: “Triều toa có biết người Mỹ muốn gì không”? Hai sự kiện nêu trên khiến tôi không phục người tiền hậu bất nhứt và xem quyền lợi đất nước dân tộc nhẹ hơn tham vọng hay quyền lợi cá nhân mình. Tôi đối chọi với Tổng Thống Thiệu không phải vì tình cảm vì cố chấp mà vì lợi ích xã hội, vì quyền lợi đất nước dân tộc, do từng việc làm, từng thái độ chính trị của ông đối với từng vấn đề. Những bài viết của tôi và những lời tuyên bố hay hành động của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đều được báo chí miền Nam và ngoại quốc thời đó đăng tải và vẫn còn tồn trữ trong nhiều thư viện.
Mười ngày sau cuộc bầu cử, 14 Tháng Chín năm 1967 tôi trình diện nhập ngũ tại trường võ bị Thủ Ðức khóa 26. Mùi vị đầu tiên khá lý thú: vừa bước qua khỏi cổng trường, một huynh trưởng khóa đàn anh ra lệnh phải xách túi đồ chay theo anh ta, miệng anh hô: một, hai sặc mùi nhà binh. Suốt thời gian mấy tháng chịu khổ luyện không làm tôi buồn phiền, hối tiếc cuộc sống vàng son trước khi nhập ngũ. Trái lại có một vài kỷ niệm bây giờ nhớ lại cảm thấy vui vui. Trước tiên là tôi thuộc quân số của tiểu đoàn 3, đại đội 3, trung đội 1, cấp chỉ huy trực tiếp của tôi là Thiếu Úy Nhàn trung đội trưởng. Trung Úy Nở là đại đội trưởng. Thời gian tôi phải chịu sự huấn luyện quân sự tại trường bộ binh Thủ Ðức không lâu để đạt được cấp bực chuẩn úy.
Sắp đến ngày lễ gắn “Alpha”, chấm dứt giai đoạn đầu khóa huấn luyện sĩ quan trừ bị. Trong trường bàn tán xôn xao: Năm nay lễ gắn Alpha không có pháo bông đốt. Tôi nói với trung úy đại đội trưởng nếu cho tôi về phép ba ngày tôi bảo đảm sẽ có pháo bông đốt trong ngày lễ. Ông hỏi ngược lại:
- Anh có dám bảo đảm thật không?
Tôi bảo đảm là thật, bởi vì tôi biết tại kho đạn Gò Vấp còn tồn trữ pháo bông mua của Ðài Loan để đốt trong ngày lễ quốc khánh, nhưng chính phủ không sử dụng vì sợ mang tiếng dùng tiền xa xí trong lúc dân nghèo. Tôi quen khá thân với Ðại Tướng Cao Văn Viên, nên tôi tin có thể xin ông cấp cho trường Bộ Binh Thủ Ðức được.
Ngày hôm sau tôi có giấp phép về Saigon với một xe GMC để chở pháo. Tôi điện thoại cho Ðại Tướng Viên và ông yêu cầu tôi liên lạc với Trung Tướng Nguyện Văn Vỹ, tham mưu trưởng liên quận thời đó. Tôi được cấp giấy lên kho đạn Gò Vấp lấy pháo trong ngày, còn hai ngày sau ở nhà vui chơi với gia đình.
Sau thời gian huấn luyện và tốt nghiệp, tôi được biệt phái về bộ sở quan với cấp bực chuẩn úy. Thời gian chịu sự huấn luyện quân sự tạo thêm cho con người một cách nhìn đời và kinh nghiệm sống phong phú hơn bình thường. Nhứt là khi ngồi dưới hầm trú ẩn nghe hỏa tiễn Việt Cộng pháo kích nổ trên đầu (năm Mậu Thân). Về Bộ Canh Nông tôi làm việc tại văn phòng tổng trưởng.
Bạn bè và cộng sự viên vẫn giữ sự liên lạc chặt chẽ và gặp gỡ tôi thường xuyên. Việc nước có thay đổi nhiều sau cuộc bầu cử, Thiệu giữ lời cam kết với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là phải cử Nguyễn Văn Lộc vào chức thủ tướng.
Luật Sư Lộc không được chính giới biết đến nhiều. Gần nửa năm trời ông không tỏ ra có một sáng kiến hay hành động chính trị nào được dư luận quần chúng hoan nghênh. Trái lại báo chí thường xuyên chỉ trích ông không dám sử dụng quyền hiến định của mình mà luôn luôn bị động trong sự giằng co tranh chấp giữa tổng thống và phó tổng thống. Mâu thuẫn giữa hai vị lãnh đạo quốc gia ngày trở nên trầm trọng đến độ Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ rời Saigon đi Nha Trang nghỉ mát và toan tính lật đổ người mà ông đã tự động nhường ghế ứng cử viên chính thức được xem như đương nhiên đắc cử chưa đầy một năm trước đây.
Tình trạng bế tắc này được báo chí quốc nội khai thác triệt để, và truyền thông ngoại quốc cũng săn đón phê phán nhiều. Hình như đã đến lúc Tổng Thống Thiệu nghĩ phải thay thế vị thủ tướng đàn em của Nguyễn Cao Kỳ đang làm cản trở việc hành xử quyền hành của tổng thống. Bào huynh của ông là Nguyễn Văn Kiểu, ra tay giúp ông củng cố địa vị dựa trên hiến pháp và “ma nớp” chính trị mà Kiểu có thừa kinh nghiệm. Nguyễn Văn Kiểu là một trong những vị lãnh đạo của đảng Ðại Việt đã từng trốn sang Trung Hoa khi thiếu thời. Ông bí mật hoạt động chống thực dân Pháp.
Lại một lần nữa, Nguyễn Văn Kiểu đến tận nhà tôi bàn việc và yêu cầu tôi tiếp tay truất phế Thủ Tướng Nguyễn Văn Lộc.
(Còn tiếp)
|
LTG.- Phần đầu hồi ký của tôi đã hoàn tất, nay đang trong thời ký hiệu đính để in thành sách. Trong phần đầu, có người khen, người chê, có người chấp nhận, có người phản bác. Trong trách nhiệm của một tác giả, tôi đã làm hết sức mình để hiệu chỉnh những điều lầm lẫn hay bảo vệ những chuyện mà tôi tin là sự thật vì đã tự thân trải qua, chứng kiến.
Tiếp tục ghi lại phần thứ II ký ức của mình, tôi muốn xác nhận một lần nữa là tôi chỉ ghi lại những sự việc đã xảy ra liên quan đến cuộc đời tôi, hoặc chính tôi chứng kiến xa gần hay do những người quen biết cùng thời, cùng giới, hiện còn sống thuật lại với tôi. Nếu có những ai cũng biết cùng một sự việc nào đó và có cái nhìn hay ý kiến khác biệt tôi vẫn luôn luôn tôn trọng, nhưng tôi vẫn cương quyết giữ nguyên vẹn những gì tôi trình bày vì tin chắc rằng đó là sự thật không thể thay đổi.
Cũng có một vài việc làm hay hành động liên quan đến nhân vật này hay nhân vật khác mà tôi không thể tự cho phép mình viết ra, dù là nhiều nhân chứng hãy còn sống biết rõ nhưng vì các nhân vật đó đã qua đời nên không còn có thể xác nhận hay phản biện. Ðó là lý do tôi đã phải thất hứa khi trong phần đầu tôi đã hứa viết về các sự việc diễn ra liên quan đến họ.
Nếu tôi có những lời phê phán về ý kiến hay hành động chính trị của ai đó hay về thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng qua cũng là vì chính bản thân tôi từng lặn lội khá nhiều trong chính trường miền Nam thời gian trước năm 1975 và chẳng qua cũng là những sự việc chẳng đặng đừng. Người ta có thể đồng tình với tôi hay chỉ trích tôi, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận, vì đó là quyền tự do tư tưởng.
Sau cùng viết hồi ký là bắt buộc phải nói đến cái tôi. Xin độc giả thứ lỗi nếu cái tôi có xuất hiện nhiều lần. Như tôi đã viết, mục đích tập hồi ký này là “để cho con cháu tôi biết được cha ông chúng nó đã sống như thế nào trong thời gian khá hỗn độn của tình hình đất nước.”
Những điều chưa được nói đủ về nền dân chủ của miền Nam Việt Nam
|
- Dân tộc Việt Nam hiện có 45 triệu người. Thống kê của các anh cho con số 2 triệu đảng viên. Vậy 45 triệu người đâu phải ai cũng làm cách mạng? Tôi không theo Cộng Sản đi làm “cách mạng” với các anh thì cứ xem như tôi hèn nhát không dám đi!
- Này, hèn là anh nói đấy nhé, hèn là phản bội, đó là quy luật.
Tự ái của tôi bị xúc phạm nặng nề, tôi phản ứng:
- Xin lỗi anh, tôi bị các anh bắt vào đây là đã xem như mất tất cả, kể cả mạng sống, nhưng tôi không để cho danh dự tôi bị mất. Xin anh đừng dùng ngôn ngữ đó.
Cáp Xuân Diệm nổi giận đập bàn nói:
- Vậy hả? Ði xuống.
Tôi vừa nói vừa cười ruồi theo giọng “cà khỉnh” của dân miền Nam: - Xuống thì xuống.
Từ đó tôi phải trả cái giá của sự ương ngạnh: bị bỏ đói, chuyển đi hầu hết các khu biệt giam trong nhà tù Chí Hòa, từ biệt giam khu tử hình đến biệt giam ở các khu ED, AH. Tóm lại con đường tôi trải qua trong tù Cộng Sản thật gian nan, có vui, buồn, khổ cực, đói khát nhưng tôi bằng lòng chấp nhận số phận của mình cũng như muôn ngàn người Việt Nam khác chìm nổi theo cơ trời vận nước.
Vai trò của Nguyễn Văn Kiểu
Trở lại cuộc bầu cử năm 1966, liền sau kết quả bầu cử, bào huynh của Tân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đến tận nhà tôi bàn việc hợp tác để thành lập chánh phủ. Tôi từ chối một cách dứt khoát với lời lẽ thiếu cảm tình đối với ông Thiệu trước mặt bào huynh của ông là Nguyễn Văn Kiểu. Tôi nói với Kiểu:
- Anh Kiểu, tôi rất quí anh, tụi mình quen biết nhau khá nhiều. Tôi thú thật nếu anh là Tổng Thống tôi sẵn sàng làm bí thư, tùy viên hay thư ký để anh sai vặt. Còn Nguyễn Văn Thiệu, tôi không có hứng thú để làm việc chung mặc dù tôi và ông ấy cũng đã từng hiểu nhau qua nhiều sự việc. Nguyễn Văn Kiểu cố tâm thuyết phục tôi không được. Cuối cùng anh yêu cầu tôi giới thiệu người. Tôi trả lời ngay:
- Anh quen biết giới chính trị nhiều hơn tôi, anh có kinh nghiệm già dặn hơn tôi nhiều, làm sao tôi dám múa rìu qua mắt thợ?
Câu chuyện chấm dứt nơi đây. Ba ngày sau Nguyễn Văn Kiểu trở lại. Chúng tôi cười nói vui vẻ, trà nước hồi lâu, nói chuyện tiếu lâm cười nghiêng ngả. Ông Kiểu là người rất hoạt bát, đầu chứa đầy chuyện tiếu lâm để làm cho những cuộc họp mặt vui vẻ thoải mái. Cuối cùng anh dịu giọng nói:
- Triều à, hôm trước tụi moa đề nghị toa hợp tác nhưng toa không chịu. Bây giờ moa đề nghị với toa tụi mình tổ chức đối lập đi. Ðối lập xây dựng với nhau.
Tôi nóng mặt nói liền:
- Anh Kiểu, anh xem tôi là ai? Tụi mình quen biết nhau khá nhiều chẳng lẽ anh đánh giá tôi rẻ như vậy sao? Có phải anh đề nghị tôi làm cò mồi cho Nguyễn Văn Thiệu không? Hay anh đề nghị tôi làm “đối lập cuội” để đội trên đầu một anh chàng tôi không coi trọng ? Nếu anh còn xem tôi là bạn và anh còn muốn duy trì tình bằng hữu giữa chúng mình thì xin anh tiếp tục uống trà nói chuyện tiếu lâm tốt hơn là bàn việc của Nguyễn Văn Thiệu với tôi. Sau tiệc trà đàm anh Kiểu và tôi chia tay nhau trong tình thân mật như cũ.
Sở dĩ tôi dứt khoát từ chối hợp tác với Tân Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu là vì như tôi đã trình bày trong quyển hồi ký tập I của tôi. Thứ nhứt về việc tôi từ chức, ông xác nhận với tôi là ông triệt để ủng hộ vì là việc hữu tình hữu lý, và ông còn khuyên tôi nới rộng vấn đề, ông kể thêm tên vài người khác ông không vừa ý mà tôi không tiện viết ra đây. Ông còn nói: “Ðàng sau lưng toa có moa Triều”. Nhưng trước mặt ban lãnh đạo quốc gia và nội các thu hẹp trong bữa cơm thông cảm ông có những ý kiến ngược lại. Thứ hai, ngày anh Trường và tôi gặp ông tại tư thất trong Bộ Tổng Tham Mưu ông nhiều lần gạn hỏi: “Triều, toa có biết người Mỹ muốn gì không?” Hai sự kiện nêu trên khiến tôi không phục người tiền hậu bất nhứt và xem quyền lợi đất nước dân tộc nhẹ hơn tham vọng hay quyền lợi cá nhân mình. Tôi đối chọi với Tổng Thống Thiệu không phải vì tình cảm vì cố chấp mà vì lợi ích xã hội, vì quyền lợi đất nước dân tộc, do từng việc làm, từng thái độ chính trị của ông đối với từng vấn đề. Những bài viết của tôi và những lời tuyên bố hay hành động của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu đều được báo chí miền Nam và ngoại quốc thời đó đăng tải và hãy còn tồn trữ trong nhiều thư viện.
Mười ngày sau cuộc bầu cử, 14 tháng 9 năm 1967 tôi trình diện nhập ngũ tại trường võ bị Thủ Ðức khóa 26. Mùi vị đầu tiên khá lý thú: vừa bước qua khỏi cổng trường, một huynh trưởng khóa đàn anh ra lệnh phải xách túi đồ chạy theo anh ta, miệng anh hô: một, hai sặc mùi nhà binh. Suốt thời gian mấy tháng chịu khổ luyện không làm tôi buồn phiền, hối tiếc cuộc sống dân sự trước khi nhập ngũ. Trái lại có một vài kỷ niệm bây giờ nhớ lại cảm thấy vui vui. Trước tiên là tôi thuộc quân số của tiểu đoàn 3, đại đội 3, trung đội 1, cấp chỉ huy trực tiếp của tôi là Thiếu Úy Nhàn trung đội trưởng, Trung Úy Nở đại đội trưởng.
Sắp đến ngày lễ gắn “Alpha”, chấm dứt giai đoạn đầu khóa huấn luyện sĩ quan trừ bị. Trong trường bàn tán xôn xao: năm nay lễ gắn Alpha không có pháo bông đốt. Tôi nói với Trung Úy đại đội trưởng nếu cho tôi về phép ba ngày tôi bảo đảm sẽ có pháo bông đốt trong ngày lễ. Ông hỏi ngược lại:
- Anh có dám bảo đảm thật không?
- Tôi bảo đảm thật, bởi vì tôi biết tại kho đạn Gò Vấp còn tồn trữ pháo bông mua của Ðài Loan để đốt trong ngày lễ quốc khánh, nhưng chính phủ không sử dụng vì sợ mang tiếng phí phạm trong lúc dân còn nghèo. Tôi quen khá thân với Ðại Tướng Cao Văn Viên, nên tôi tin có thể xin ông cấp cho trường võ bị Thủ Ðức được.
- Vậy thì tôi trình ngay với bộ chỉ huy nhà trường.
Ngày hôm sau tôi có giấp phép về Saigon với một xe GMC để chở pháo. Tôi điện thoại cho Ðại Tướng Viên và ông yêu cầu tôi liên lạc với Trung Tướng Nguyện Văn Vỹ, Tham Mưu Trưởng Liên Quận thời đó. Tôi được cấp giấy lên kho đạn Gò Vấp lấy pháo trong ngày, còn hai ngày sau ở nhà vui chơi với gia đình.
Tốt nghiệp, tôi được biệt phái về bộ sở quan với cấp bực Chuẩn Úy. Thời gian chịu sự huấn luyện quân sự tạo thêm cho con người một cách nhìn đời và kinh nghiệm sống phong phú hơn bình thường. Nhứt là khi ngồi dưới hầm trú ẩn nghe hỏa tiễn Việt cộng pháo kích nổ trên đầu năm Mậu Thân. Về Bộ Canh Nông tôi làm việc tại văn phòng Tổng Trưởng.
Bạn bè và cộng sự viên vẫn giữ sự liên lạc chặt chẽ và gặp gỡ tôi thường xuyên. Việc nước có thay đổi nhiều sau cuộc bầu cử. Ông Thiệu giữ lời cam kết với Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ là phải cử Nguyễn Văn Lộc vào chức Thủ Tướng. Luật Sư Lộc không được chính giới biết đến nhiều. Gần nửa năm trời ông không tỏ ra có một sáng kiến hay hành động chính trị nào được dư luận quần chúng hoan nghênh. Trái lại báo chí thường xuyên chỉ trích ông không dám sử dụng quyền hiến định của mình mà luôn luôn bị động trong sự giằng co tranh chấp giữa Tổng Thống và Phó Tổng Thống. Mâu thuẫn giữa hai vị lãnh đạo quốc gia ngày trở nên trầm trọng đến độ Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ rời Saigon đi Nha Trang nghỉ mát để toan tính lật đổ người mà ông đã tự động nhường ghế ứng cử viên chính thức được xem như đương nhiên đắc cử chưa đầy một năm trước đây.
Tình trạng bế tắc nầy được báo chí quốc nội khai thác triệt để, và truyền thông ngoại quốc cũng săn đón phê phán nhiều. Hình như đã đến lúc Tổng Thống Thiệu nghĩ phải thay thế vị Thủ Tướng đàn em của Nguyễn Cao Kỳ đang làm cản trở việc hành xử quyền hành của Tổng Thống. Bào huynh của ông là Nguyễn Văn Kiểu, ra tay giúp ông củng cố địa vị dựa trên hiến pháp và “ma nớp” chính trị mà Kiểu có thừa kinh nghiệm. Nguyễn Văn Kiểu là một trong những vị lãnh đạo của đảng Ðại Việt đã từng trốn sang Trung Hoa khi thiếu thời ông bí mật hoạt động chống thực dân Pháp.
Lại một lần nữa anh Nguyễn Văn Kiểu đến tận nhà tôi bàn việc và yêu cầu tôi tiếp tay truất phế Thủ Tướng Lộc
Sau một vài tuần trà, cười nói vui vẻ, Nguyễn Văn Kiểu là người hoạt bát, nói năng giản dị, khi vui cười lớn tiếng, khi muốn làm ra vẻ bí mật anh lại thì thầm nhỏ to. Sự hiện diện của anh trong tiệc tùng hay hội họp giúp mọi người cảm thấy tự nhiên thoải mái. Ðó là cung cách của một chính trị gia có nhiều kinh nghiệm. Thừa cơ hội đang vui anh nói:
- Ê, Triều, moa có việc nầy nói ra chắc chắn toa đồng ý liền.
- Việc gì mà anh “chắc như bắp vậy”?
- Toa có đồng ý rằng Thủ Tướng Lộc, không phải chính trị gia, không có khả năng lãnh đạo guồng máy hành chánh, không có sáng kiến biến tình hình chính trị miền Nam có lợi thế so với Bắc Việt không?
- Làm sao Nguyễn Văn Lộc có thể so sánh bằng Nguyễn Văn Kiểu được!
Anh Kiểu cười ha hả, ngả nghiêng trên ghế dựa:
-Toa “chộ” moa đó hả Triều.
- Tôi nói thật. Cái lừng khừng của Nguyễn Văn Lộc báo chí Saigon cũng đã phê phán nhiều rồi. Vả lại ông Thiệu phải giữ lời cam kết với Nguyễn Cao Kỳ trước mặt nhiều Tướng Lãnh khi trao đổi vị trí ứng cử viên chính thức của quân đội. Bây giờ ông ta phải ngậm bò hòn làm ngọt cho hết nhiệm kỳ thôi.
- Như vậy là có hại cho quốc gia.
- Anh muốn nói hại cho quốc gia hay là hại cho Tổng Thống Thiệu?
Anh Kiểu cười gượng:
- Toa mỉa mai tụi moa làm gì? Moa nói thật với toa điều nầy: Tổng Thống Thiệu muốn vận động quốc hội truất phế Thủ Tướng Lộc bởi vì thật ra ông không dám tự mình cất chức Nguyễn Văn Lộc. Tại sao vậy? Ðiều nầy toa hiểu quá nhiều không cần moa phải thêm lời bàn của “Mao Tôn Cương” nữa.
- Anh chỉ thành thật với tôi có một phần ba thôi. Ðó là không dám tự mình cất chức ông Lộc. Còn về lời hứa của Trần Văn Hương sẽ nhận chức Thủ Tướng? Lời cam kết ngấm ngầm của hai liên danh đối với Thứ Trưởng Ngoại Giao Mỹ Katzenbach là giải quyết mâu thuẫn quân sự- dân sự và Nam-Bắc bằng công thức Thiệu Kỳ Tổng Thống, Trần Văn Hương Thủ Tướng sao anh không nói? Mặc khác anh phải thú nhận rằng một mình Nguyễn Cao Thăng, Bộ Trưởng Ðặc Trách Liên Lạc Quốc Hội thừa khả năng để mua hai phần ba số phiếu của dân biểu, cần gì anh phải nhờ tôi tiếp tay?
- Tụi moa không có khả năng đó?
- Anh Kiểu, tôi kính trọng anh là đàn anh có nhiều kinh nghiệm, tôi đối xử với anh rất thật tình, nhưng nếu anh cho rằng tôi không đủ khả năng hiểu được toan tính của anh thì tụi mình nên chấm dứt câu chuyện nầy ở đây. Uống trà vui vẻ chờ cơ hội khác tôi mời anh cùng với bạn bè dùng cơm đấu láo.
- Moa thật lòng đấy, toa muốn moa thề độc không?
- Thôi đi bố, tôi nói giùm anh điều mà anh che giấu đó là: phải có nhóm dân biểu dính dáng xa gần với tôi đã từng ủng hộ Trần Văn Hương tiếp tay trong vụ nầy. Như vậy các anh mới chứng minh được với Nguyễn Cao Kỳ là do nhóm người của ông Hương vận động, như vậy Tổng Thống Thiệu dễ ăn nói với Nguyễn Cao Kỳ hơn. Có Phải vậy không?
- Moa bái phục toa thật rồi đó, moa không nghĩ như vậy, moa chỉ muốn có thừa túc số cần thiết để giải quyết vấn đề nầy thôi. Bây giờ toa thêm ý kiến thì vấn đề càng sáng tỏ hơn đối với moa. Như vậy toa đồng ý rồi chớ gì?
- Xưa nay ít khi tôi thấy anh kết luận vội vã như vậy. Tôi có nói đồng ý bao giờ đâu? Xin anh để cho tôi suy nghĩ đã và tôi sẽ bàn thảo với anh em xem sao.
Thật lòng mà nói tôi không muốn xen vào việc của cụ Hương nữa, bởi vì tôi nghĩ anh em chúng tôi đã nếm đủ mùi thất vọng rồi. Bây giờ không phải lúc nhúng tay vào những việc không trực tiếp liên can đến mình nữa. Dù sao tôi cũng gặp nhiều bạn bè thông báo đề nghị của bào huynh Tổng Thống Thiệu. Ða số anh em cùng lứa và cùng vai vế với tôi bàn ra vì đó là việc riêng của Tổng Thống Thiệu, tự ông phải giải quyết lấy. Những người không hề biết bí ẩn của cuộc vận động bầu cử liên danh Trần Văn Hương-Mai Thọ Truyền thì ủng hộ ý kiến phải thay đổi một ông Thủ Tướng không vì quyền lợi quốc gia mà chỉ đi dây trên sự mâu thuẫn tranh chấp giữa Tổng Thống và Phó Tổng Thống. Một vài bạn háo danh hy vọng mình sẽ được tham gia chia ghế thì rạo rực nóng lòng quả quyết phải hành động. Riêng các anh em dân biểu thân hữu liên kết với nhau khoảng hơn chục người thì hoàn toàn đồng ý. Tất cả lý luận cùng một giọng điệu “vì quyền lợi quốc gia” dù ý nghĩ của mỗi người có khác.
Ðắn đo nhiều nhưng tôi cũng quyết xuôi theo ý kiến đa số bởi vì tôi không muốn anh em nghĩ mình bực dọc cụ Hương hay cố chấp về vấn đề cụ hứa nhận chức Thủ Tướng mà không nói thật với tôi. Tôi thông báo với ông Nguyễn Văn Kiểu bằng điện thoại, nói rằng đa số anh em chúng tôi ủng hộ đề nghị của anh. Nguyễn Văn Kiểu rất hài lòng cám ơn rối rít lại còn đùa một câu không đúng chỗ “lúc nào toa cũng sáng suốt”. Tôi chỉ cười trả lời: “Bây giờ banh đã giao về chân anh rồi đấy”.
Thời gian sau khi mọi việc được thực hiện theo ý muốn của Tổng Thống Thiệu, anh Nguyễn Văn Kiểu lại đến nhà thăm tôi để từ giã. Tâm sự với nhau khá nhiều. Một trong những lời nói đầy xúc động của anh làm tôi ghi nhớ mãi cho đến bây giờ:
- Mọi việc nó được như ngày nay là do một tay moa, toa cũng biết mà, bây giờ nó coi moa như... của nó vậy. Moa xin đi sứ thần qua Ðài Loan an nghĩ tuổi già.
Ông Kiểu nói trong khi mắt anh gần như ứa lệ. Cũng vì thế mà tôi không thể quên được lần gặp gỡ cuối cùng với anh Nguyễn Văn Kiểu ngày hôm đó.
Tôi nói đùa một câu để đánh tan sự bất mãn hiểu được qua lời nói và thái độ của người tôi kính trọng như đàn anh:
- Anh đi Ðài Loan để an nghỉ tuổi già hay để phung phí sức già?
Cả hai chúng tôi cười chia tay vui vẻ.
Trần Văn Hương: Thủ Tướng
Biết được tin Quốc Hội bất tín nhiệm Thủ Tướng Lộc và phê chuẩn đề nghị của Tổng Thống Thiệu cử Trần Văn Hương làm Thủ Tướng, Huỳnh Văn Ðạo lập tức ra Vũng Tàu rước Trần Văn Hương về tư gia chăm sóc. Ngược lại trước kia khi còn lên xuống Vũng Tàu đôi khi tôi nhờ ông ấy đi giùm mà ông ta lại từ chối. Bây giờ, ông Ðạo lại tỏ sốt sắng chu đáo vô cùng. Tôi còn nhớ có một lần Âu Trường Thanh thúc giục tôi:
- Triều, toa phải cho đàn em của toa bao vây ông Hương ngay từ bây giờ, nếu không ông ấy sẽ tự ý mình quyết định sai hay là người khác lợi dụng bày vẽ không đúng đường lối chừng đó toa có tiếc cũng đã muộn rồi.
- Thanh à, moa sẽ không bao giờ tiếc bởi vì moa không có ý đồ thao túng hay lợi dụng cụ Trần Văn Hương.
Huỳnh Văn Ðạo đến nhà tôi thông báo đề nghị của cụ Hương như sau:
- Ông già sai tôi đến bàn với anh về những người bạn đã từng giúp đưa ông trở về chính trường một cách danh dự như ngày nay, những người bạn đó của chúng ta không nên trực tiếp tham gia nội các mà chỉ giữ những địa vị “số 2, số 3” như đổng lý, Tổng Thư Ký, hay Tổng Giám Ðốc để kiểm soát nếu cần mà thôi. Nhân tiện ông già bảo tôi mời anh và cũng sẽ mời tất cả những bạn khác đến nhà tôi dùng bữa cơm chung vui để bàn việc.
Tôi trả lời thẳng với Huỳnh Văn Ðạo:
- Anh Ðạo, anh về thưa với cụ Hương: riêng Nguyễn Văn Trường và tôi đã khẳng định ngay từ lúc mới khởi sự, là sẽ không giữ bất cứ một chức vụ nào nếu Trần Văn Hương có may mắn đắc cử Tổng Thống. Chúng tôi không ủng hộ ông ta với mục đích “kiếm ghế”, “dựa hơi, dựa thế” để buôn quan bán chức, càng không phải để lợi dụng danh nghĩa nhằm mục đích trục lợi vật chất. Xin anh thưa với cụ Hương rằng: chúng tôi là những người, tôi nên nói thẳng với anh, đã thành danh, có địa vị trong xã hội, chúng tôi ủng hộ Trần Văn Hương là muốn tìm một chính trị gia có khả năng lãnh đạo đất nước qua những xáo trộn bất lợi cho miền Nam như anh đã thấy. Chúng tôi muốn ủng hộ một Tổng Thống dân sự để có thể tách rời quân đội ra khỏi chính trị, để giữ sự đoàn kết thống nhứt của quân đội bởi vì đó là sức mạnh duy nhứt chống lại cộng sản Hà Nội. Chúng tôi không ủng hộ một chế độ quân phiệt, vì thế tôi và nhiều bạn khác mới từ chức tổng trưởng. Xin anh về thưa với cụ Hương những chức vị tổng, bộ trưởng chúng tôi không màng. Chúng tôi chỉ hy vọng cụ Hương chú tâm đến việc thực hiện công bằng xạ hội. Tạo điều kiện cho có sự đoàn kết quân-dân nhất tâm chống cộng sản xâm lăng.
Huỳnh Văn Ðạo hơi bẽn lẽn. Hình như anh hiểu rằng tôi nói xiên xỏ anh, mặc dù tôi không hề có ý đó, nhưng khi tôi nhìn cử chỉ và thái độ của anh, tôi giật mình suy nghĩ: phản ứng và lời lẽ của tôi có phần chua cay. Chua cay là vì tôi nghĩ cụ Hương thiếu tế nhị khi phái Huỳnh Văn Ðạo đến nhà nói với tôi như vậy.
- Tôi nói tiếp: Người làm chính trị như cụ Hương khi ông dám ra ứng cử Tổng Thống thì sợ gì phải phô trương thân thế, giới thiệu cộng sự viên xa gần của mình, bổ nhiệm người có khả năng quản trị hành chánh và ảnh hưởng sinh hoạt chính trường. Trái lại ông phải hãnh diện phổ biến cho nhân dân biết để tạo niềm tin của quần chúng, cớ sao lại rụt rè che giấu? Hay ông không tin chúng tôi là những người có khả năng thực hiện chí lớn của ông ấy? Chúng tôi cũng thừa hiểu cụ Hương cần phải mở rộng tư thế bằng cách kết nạp với chính trị gia và đảng phái bên ngoài. Nhưng cụ không cần phải thông báo với chúng tôi như lời anh mới vừa nói.
- Tôi sẽ về thưa lại nguyên văn với cụ Hương những gì anh nhắn gởi.
Huỳnh Văn Ðạo cười gượng gạo, bắt tay tôi xụi lơ như không có nắm tay. Bữa cơm gọi là “thân mật” tại nhà anh Huỳnh Văn Ðạo trước khi cụ Hương lập nội các chẳng thân mật chút nào. Bởi vì ngay trước khi cầm đũa vào tiệc, cụ Trần Văn Hương phát biểu: (Tôi không nhớ nguyên văn nhưng ý nghĩa có thể tóm tắt một cách trung thực ngắn gọn, rất nhiều người hiện diện trong bữa cơm tối hôm đó chắc còn nhớ rõ: qua mời mấy em đến dùng cơm tối hôm nay là để cám ơn các em đã hết lòng giúp đỡ qua trong cuộc vận động bầu cử Tổng Thống. Nhân cuộc gặp mặt ngày hôm nay qua cũng xin các em quên tất cả những gì đã qua. Hôm nay là ngày bắt đầu một giai đoạn mới. Vậy xin mời các em cầm đũa).
Suốt bữa cơm tôi không phát biểu một lời, đa số anh em cũng không thấy gì đáng nói. Không biết tôi có nhận xét một cách chủ quan không, nhưng tôi thấy nhiều gương mặt bất mãn, có người nói một lời mà ngụ hai ý, có thể tại vì tôi có ý nghĩ không tốt nên vừa đoán ngầm vừa xuyên tạc ý nghĩ của người khác chăng? Bữa cơm chấm dứt mọi người bắt tay ra về. Lý Chánh Trung kéo tay tôi nói: “Thằng cha già vô ơn bội nghĩa mà còn bội tín nữa”. Tôi không trả lời, lên xe về, đầu óc không suy nghĩ bực tức gì cả vì tôi đã tiên đoán trước mọi việc rồi. Chỉ có một ý nghĩ trong đầu tôi thôi: đó là không nên liên lạc với cụ tân Thủ Tướng nữa.
Cụ Trần Văn Hương thành lập nội các tại nhà Huỳnh Văn Ðạo. Tôi đã có dịp viết sơ qua về việc nầy trong quyển hồi ký tập I. Dĩ nhiên tôi có gặp qua nhiều người chầu chực trước hành lang nhà Huỳnh Văn Ðạo nhân cơ hội tôi đến yêu cầu gạt bỏ kỹ sư Tôn Thất Trình vào chức Tổng Trưởng Canh Nông trước mặt Huỳnh Văn Ðạo và Nguyễn Văn Bông.
Ðiều buồn cười đáng ghi nhớ là trong những ngày hội hè bàn tính tại nhà tôi, hai kinh tế gia Âu Ngọc Hồ, Tổng Giám Ðốc Công Kỹ Nghệ thuộc Bộ Kinh Tế và Lâm Võ Hoàng, Phó Tổng Giám Ðốc ngân hàng Việt Nam Thương Tín, quân nhân biệt phái, sau là Thứ Trưởng Bộ Kinh Tế. Hai anh ấy phát biểu rất ăn ý, cử chỉ hòa nhã, thậm chí Âu Ngọc Hồ luôn khen tặng anh Hoàng trước mặt tôi. Nhưng sau khi Hồ được bổ nhiệm làm Tổng Trưởng Kinh Tế, tôi có điện thoại hỏi Âu Ngọc Hồ:
- Anh có ý định sử dụng anh Lâm Võ Hoàng ở bộ của anh không? Nếu không anh ấy xin chuyển về ngân hàng Việt Nam Thương Tín. Hồ trả lời:
- Dạ thưa anh có chứ.
Tôi yên tâm thông báo cho Hoàng biết.
Hơn một tuần lễ sau, Lâm Võ Hoàng nhận được giấy thông báo cho biết Tổng Trưởng Kinh Tế Âu Ngọc Hồ đã hoàn trả anh về Bộ Quốc Phòng. Trong điều kiện đó Lâm Võ Hoàng phải bị đưa ra mặt trận vì có hành vi phạm kỷ luật hoặc thiếu khả năng nên mới bị hoàn trả. Lâm Võ Hoàng tá hỏa trách tôi dối gạt anh ta. Tôi trấn an anh Hoàng và xác nhận với anh tôi đã hỏi anh Hồ rõ ràng và được đích thân anh Hồ trả lời sẽ giữ anh ở lại Bộ Kinh Tế. Chán ghét trò trở mặt như lật bàn tay, tôi không thèm điện thoại nói năng thêm bớt gì với Âu Ngọc Hồ. Túng thế tôi điện thoại cho Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, xin anh ấy biệt phái Lâm Võ Hoàng về Việt Nam Thương Tín, hoặc về Bộ Canh Nông. Trung Tướng Vỹ trả lời, Tổng Giám Ðốc Việt Nam Thương Tín không đủ uy thế để xin Bộ Quốc Phòng đặt lại vấn đề. Bởi vì quân nhân bị hoàn trả về bộ thì phải bị đưa ra mặt trận ngay. Tôi xin tướng Vỹ chỉ cách cho tôi giúp Lâm Võ Hoàng vì Âu Ngọc Hồ lợi dụng hoàn cảnh hại người. Trung Tướng Vỹ nói:
-Anh phải nhờ một vị Tổng Trưởng nào đó gỏi công văn chính thức xin tôi. Tôi sẽ từ chối bằng công văn. Rồi vị Tổng Trưởng đó lại phải gởi một công văn thứ hai khẩn thiết xin tôi xét lại bởi vì sĩ quan nầy thuộc loại tối cần thiết cho nhu cầu của bộ đó thì tôi mới cứu xét lại và chấp thuận.
Tôi nghe theo lời chỉ dẫn của Trung Tướng Vỹ và yêu cầu anh Trương Thái Tôn, Tổng Trưởng Canh Nông, gởi công văn xin Lâm Võ Hoàng về Bộ Canh Nông với tư cách là chuyên viên kinh tế. Mọi việc được giải quyết êm xuôi. Tôi mới điện thoại cho Âu Ngọc Hồ:
- Anh Hồ, anh chơi xấu Lâm Võ Hoàng mà tại sao anh phải giấu tôi, làm tôi nói dối với anh ta là anh sẽ giữ anh ấy ở lại Bộ Kinh Tế?
Âu Ngọc Hồ lúng túng không giải thích được, xin lỗi một cách bâng quơ, lại còn nói dù sao thì hình như anh Hoàng cũng tự giải quyết được rồi.
- Nhờ sự can thiệp của anh đấy.
Âu Ngọc Hồ giả bộ cười vui vẻ, còn hỏi tôi:
- Thằng cháu con anh có còn thích ăn kem Foremost nữa không.
Số là trước đó gần như mỗi ngày Âu Ngọc Hồ ghé qua nhà gởi cho con tôi một ký kem đến độ thằng nhỏ phát ngán xin cám ơn bác vì không ăn nổi nữa. Lúc đó Âu Ngọc Hồ làm việc cho hãng kem Foremost.
Tôi đã quyết không muốn liên quan đến việc chính trị của Trần Văn Hương nữa nhưng một số bạn cùng tham gia việc đưa Trần Văn Hương trở về chính trường thường gặp tôi, lý luận vắn dài rằng: dù muốn dù không dư luận cũng gán ghép tên chúng mình vào sự chấp chánh của Trần Văn Hương. Tôi từ chối và phản ứng mạnh mẽ rằng nếu các anh và tôi có bị mang tiếng gì thì cũng phải chịu thôi. Hai anh nhiệt tình đề nghị phải tạo một “équipe” (nhóm) đứng ngoài, bên cạnh nội các Trần Văn Hương để phân tích tình hình và cố vấn. Ðó là Nguyễn Văn Bông, người từ chối hai chức vị Tổng Trưởng Giáo Dục hoặc Tổng Trưởng Phủ Thủ Tướng do cụ Trần Văn Hương đề nghị trước mặt anh Huỳnh Văn Ðạo và tôi. Và người thứ hai là Nguyễn Văn Hảo. Tôi đoán trước là chuyện này vô bổ vì kinh nghiệm cho thấy cụ Trần Văn Hương chỉ tin nghe vài ông bạn già và học trò luôn luôn a dua theo ông mà thôi. Những sáng kiến tiến bộ, những quyết định táo bạo cụ không dám nghe, đừng nói chi là dám làm. Ðó là chưa kể còn bao nhiêu con “kỳ đà” vì ganh tị mà cản mũi cụ. Nhưng cuối cùng tôi cũng nghe theo anh em mà tập hợp một nhóm, tôi không còn nhớ hết tên những người đó, đại khái có: Nguyễn Văn Bông, Nguyễn Văn Hảo, Nguyễn Duy Xuân, Nguyễn Văn Trường, Lý Chánh Trung, Lâm Võ Hoàng và một vài vị dân biểu thân tín, xem như một loại “Brain Trust” (nhóm đầu não được tin cậy) của chính phủ hay một đại công ty thường có. Mỗi ngày thứ bảy cuối tuần chúng tôi dùng cơm với Trần Văn Hương và nhiều vị đương kim Tổng Trưởng tại dinh Thủ Tướng ở số 3 bến Bạch Ðằng.
Chúng tôi phân tích tình hình, bình luận, cố vấn, đề nghị vân vân. Ít lâu sau có một ngày Tổng Trưởng Thông Tin Tôn Thất Thiện lên tiếng phiền trách với Trần Văn Hương trước mặt chúng tôi:
-Bác đã cử chúng tôi làm tổng trưởng mà bây giờ còn thêm các vị “super minister” (siêu Tổng Trưởng) nữa thì khó làm việc quá.
Sau bữa cơm chúng tôi tôi bàn nhau nên chấm dứt tình trạng vô bổ nầy.
Anh Nguyễn Văn Bông và Nguyễn Văn Trường tán thành ngay và nhóm gọi là “Brain Trust” của cụ Trần Văn Hương tan hàng từ đó. Các vị dân biểu bất bình về việc làm của Tổng Trưởng Thông Tin liên tục chỉ trích ông tại Quốc Hội và báo chí phê bình ông đến độ khiến ông Thiệu phải từ chức.
(còn tiếp)
LTG.- Phần đầu hồi ký của tôi đã hoàn tất, nay đang trong thời ký hiệu đính để in thành sách. Trong phần đầu, có người khen, người chê, có người chấp nhận, có người phản bác. Trong trách nhiệm của một tác giả, tôi đã làm hết sức mình để hiệu chỉnh những điều lầm lẫn hay bảo vệ những chuyện mà tôi tin là sự thật vì đã tự thân trải qua, chứng kiến.
Tiếp tục ghi lại phần thứ II ký ức của mình, tôi muốn xác nhận một lần nữa là tôi chỉ ghi lại những sự việc đã xảy ra liên quan đến cuộc đời tôi, hoặc chính tôi chứng kiến xa gần hay do những người quen biết cùng thời, cùng giới, hiện còn sống thuật lại với tôi. Nếu có những ai cũng biết cùng một sự việc nào đó và có cái nhìn hay ý kiến khác biệt tôi vẫn luôn luôn tôn trọng, nhưng tôi vẫn cương quyết giữ nguyên vẹn những gì tôi trình bày vì tin chắc rằng đó là sự thật không thể thay đổi.
Cũng có một vài việc làm hay hành động liên quan đến nhân vật này hay nhân vật khác mà tôi không thể tự cho phép mình viết ra, dù là nhiều nhân chứng hãy còn sống biết rõ nhưng vì các nhân vật đó đã qua đời nên không còn có thể xác nhận hay phản biện. Ðó là lý do tôi đã phải thất hứa khi trong phần đầu tôi đã hứa viết về các sự việc diễn ra liên quan đến họ.
Nếu tôi có những lời phê phán về ý kiến hay hành động chính trị của ai đó hay về thời cuộc lúc bấy giờ thì chẳng qua cũng là vì chính bản thân tôi từng lặn lội khá nhiều trong chính trường miền Nam thời gian trước năm 1975 và chẳng qua cũng là những sự việc chẳng đặng đừng. Người ta có thể đồng tình với tôi hay chỉ trích tôi, tôi cũng sẵn sàng chấp nhận, vì đó là quyền tự do tư tưởng.
Sau cùng viết hồi ký là bắt buộc phải nói đến cái tôi. Xin độc giả thứ lỗi nếu cái tôi có xuất hiện nhiều lần. Như tôi đã viết, mục đích tập hồi ký này là “để cho con cháu tôi biết được cha ông chúng nó đã sống như thế nào trong thời gian khá hỗn độn của tình hình đất nước.”
Những điều chưa được nói đủ về nền dân chủ của miền Nam Việt Nam
|
Những điều cần phải nói đủ về cuộc tổng tuyển cử 1966
(Tiếp theo)
Mặc dù tôi muốn quên giai đoạn vận động đưa cụ Trần Văn Hương trở về chính trường và mặc dù trong “bữa cơm thân mật” tại nhà Huỳnh Văn Ðạo, cụ Hương đã yêu cầu chúng tôi nên quên hết những chuyện đã qua vì cụ Hương sắp bắt đầu một giai đoạn mới. Nhưng thực tế ông còn muốn lôi kéo tôi vào cuộc.
Có một buổi trưa, tôi không nhớ ngày tháng, điện thoại reo, đầu dây bên kia có người tự xưng:
- Tôi là tùy viên của thủ tướng, cụ Hương muốn xin nói chuyện với ông Võ Long Triều.
- Tôi Võ Long Triều đây, xin nghe.
- Em Triều đó hả?
Giọng trầm bổng đúng là của Thủ Tướng Trần Văn Hương. Tôi tự hỏi: Có chuyện gì nữa đây? Ðầu dây bên kia, Thủ Tướng Trần Văn Hương nói tiếp:
- Em biết anh Trịnh Hoành Mô, tổng cục trưởng tiếp tế là người của ông Kỳ. Bây giờ muốn thay thế anh ấy thì rất bất tiện, “qua” (người Nam hay dùng chữ qua để xưng hô với người thân và nhỏ hơn mình thay vì tự xưng anh, chú, hay bác) sợ bứt dây động rừng, chắc chắn ông phó tổng thống sẽ mất lòng rồi sanh sự. “Qua” nghĩ chỉ có mình em mới dám thay thế Trịnh Hoành Mô, chỉ có mình em mới dám đối phó với phó Tổng Thống Kỳ thôi. Vậy xin em vui lòng chấp nhận thay anh Mô giùm qua.
Tưởng cũng nên nhắc lại vấn đề cụ Trần Văn Hương sợ Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh đến mức độ không dám cắt chức người có liên quan xa gần với Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ khi ông nắm quyền thủ tướng. Trước kia, cụ Hương không dám nhận Nguyễn Cao Kỳ làm thủ tướng nếu cụ đắc cử tổng thống. Rồi bây giờ, khi tôi đề nghị nên cử Ðại Tá Phan Văn Minh giữ chức tổng trưởng cựu chiến binh, Thủ Tướng Hương phản ứng ngay:
- Ðại Tá Minh là người thân cận của ông Kỳ.
Lập tức tôi phản đối:
- Ðại Tá Phan Văn Minh là người có nhiều khả năng, tính tình khiêm tốn, có lòng với đất nước, tuy ông làm việc với ông Nguyễn Cao Kỳ nhưng ông luôn luôn xem trọng quyền lợi quốc gia trên hết, tôi biết Ðại Tá Minh nhiều, tôi thường xuyên liên lạc với ông ấy, tôi bảo đảm khả năng và lập trường chính trị của ông Minh. Chẳng lẽ đa số sĩ quan không quân, đàn em của ông Kỳ, mình không dám sử dụng ai hết sao dù người đó có thừa khả năng và là người tốt.
Nói tới nói lui, cuối cùng cụ Hương cũng không dám nhận và yêu cầu tôi đề cử người khác. Tôi cắt ngang, nói là cụ không cần thiết phải nhờ tôi nữa. Vả lại tôi cũng không biết người nào khác có khả năng hơn. Cụ Hương ngán ông Kỳ đến nỗi muốn cắt chức một tổng cuộc trưởng như Trịnh Hoành Mô mà cũng không dám.
Ðể chấm dứt những dính dấp lôi thôi với cụ Hương, tôi dứt khoát:
- Tôi đã quyết định ngay từ đầu và cũng đã từng nói với bác rồi, tôi sẽ không giữ bất cứ một chức vụ chính trị hay chuyên môn nào nếu may mắn cuộc vận động bầu cử tổng thống thành công. Xin bác tìm người khác.
Vài hôm sau, giữa bữa cơm trưa tại nhà tôi, có sự hiện diện của Tổng Giám Mục Nguyễn Văn Bình, Trung Tướng Ðặng Văn Quang, Thiếu Tướng Bùi Ðình Ðạm, cố vấn chính trị tòa đại sứ Mỹ lúc đó là ông Herzt và một vài vị dân biểu khác thì chuông điện thoại lại reo. Tôi cầm ống nghe, bên kia đầu dây tiếng cụ Hương trực tiếp nói:
- Em Triều đó hả? Bây giờ em trả lời với qua coi em có dám hay là hổng dám thay thế anh Mô nè.
- Bác đừng sử dụng những lời khích tướng đối với tôi. Tôi đã trả lời không chấp nhận rồi.
- Thôi, em đang bận tiếp khách, qua mời em đến gặp qua ngày mai lúc 9 giờ có được không?
Ðể khỏi kéo dài câu chuyện trước mặt khách, tôi hứa sẽ đến dinh Thủ Tướng đúng hẹn.
Ngày hôm sau tôi gặp cụ Hương tại dinh Thủ Tướng, ông tiếp tôi niềm nở. Mở đầu câu chuyện khen tôi rối rít, hỏi thăm đủ điều về các vị khách của tôi ngày hôm qua và các bạn bè khác. Sau đó ông vào đề nói:
- Sao? Em bằng lòng nhận chức tổng cục trưởng tiếp tế giúp qua rồi chớ?
- Không lẽ bác sợ Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ đến như vậy sao? Hay là bác muốn mượn cớ này để lôi tôi vào cuộc với bác một lần nữa?
- Nếu em ngồi vào vị thế của qua, em có ngại làm mất lòng ông phó tổng thống không? Nói thật mà nghe, đến ông Tổng Thống Thiệu mà cũng phải e ngại dè dặt đối với người đứng phó của mình huống chi là qua.
- Chắc bác còn nhớ, trước ngày bầu cử tổng thống khi bác lo sợ Nguyễn Cao Kỳ đảo chánh nên không dám nhận ông ấy làm thủ tướng, tôi có đề nghị nếu một khi nắm quyền, bác nên cử Ðại Tá Không Quân Lê Trung Trực thay Trung Tướng Minh giữ chức tư lệnh, và cử Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh thay Nguyễn Ngọc Loan giữ chức tổng giám đốc cảnh sát quốc gia và an ninh quân đội.
- Em không biết Nguyễn Ngọc Loan là con cọp giữ sao?
- Nguyễn Ðình Vinh cũng là con cọp, hiện ngồi chung xuồng với chúng ta mà. Thôi hãy nói chuyện hiện tại là việc bãi chức tổng cục trưởng tiếp tế, tôi dứt khoát trả lời rồi. Tôi không nhận.
- Vậy ai có thể đảm nhận chức vị này?
Nguyễn Bá Nhẫn, tốt nghiệp trường quốc gia thương mại Pháp, có thể giúp bác việc này. Bác gọi anh ấy đi, tôi sẽ khuyên anh ấy nhận. Vậy tôi không còn gì để nói với bác nữa, xin bác cho phép tôi về.
Cụ Hương bắt sang chuyện khác, kể lể dông dài, từ chuyện khó khăn chính trị đến những bạn già của ông và những bạn trẻ của tôi mà ông mới được quen biết trong dịp vận động bầu cử cho ông. Tôi lặng thinh nghe ông nói một mình. Kể lể xong ông hỏi:
- Bộ em còn giận “qua” sao? Lâu nay em và tôi không có dịp nói chuyện riêng với nhau, thôi nán ngồi lại dùng tách trà với qua cái đã. Chắc em phiền qua đã không nói thật với em về vụ cam kết với thứ trưởng ngoại giao Mỹ là sẽ làm thủ tướng chớ gì?
- Tôi không buồn phiền gì cả, càng không giận hờn. Ðã dấn thân vào chính trường thì tôi chỉ biết nhận định, phân tích, hành động. Nếu có sai lầm thì rút kinh nghiệm sửa sai và tiếp tục cuộc hành trình theo lương tri và lý tưởng. Buồn phiền, oán hận chỉ làm lạc hướng nhận định của mình mà thôi. Tôi nói thẳng, tôi không nhận cộng tác với bác trong bất cứ điều kiện nào, với bất cứ chức vụ gì bởi lẽ tôi không còn tin tưởng cách đối xử thiếu thành thật và nhứt là sự xét đoán sai lầm của bác về mặt nhân sự cũng như chính trị. Xin bác đừng buồn tôi vì người đời thường nói “lời thật mất lòng”. Sở dĩ tôi dám nói với bác bằng những lời lẽ thành thật nhưng thiếu cung kính, kém lễ độ là vì tôi dựa vào sự liên hệ mật thiết giữa bác và tôi ngay từ lúc sơ giao, khi bác còn bị giam lỏng ở Vũng Tàu. Bác ở trần, vận chăn, lận cây súng lục lòng ngắn bên trong, nằm trên võng, mừng rỡ tiếp tôi, đương kim là tổng trưởng, đến thăm bác một cách bất ngờ. Và tôi cũng dựa vào công lao của tôi cùng với nhiều anh em khác đã mưu tính, hành động nhằm mục đích đưa bác trở lại chính trường như ngày hôm nay. Vì vậy tôi hy vọng giữa bác và tôi có thể giải bày những thắc mắc mà không sợ mất lòng, có phải vậy không?
Cụ Hương đưa nhẹ tay phải lên rồi để xuống, mặt nhìn chén trà, hai hàng nước mắt chảy dài. Tôi lại nói tiếp:
- Nước mắt của bác không rửa sạch được những sai lầm chính trị của chính bác, không tạo lại được niềm tin của tôi đối với cá nhân bác. Nhưng có một điều tôi phải thành thật xác nhận là tôi không tức hận gì bác cả mà chỉ tự trách mình đã hành động quá nhiệt tình, nông nổi của tuổi trẻ, tin người quá dễ, không kể danh dự hay quyền lợi của bản thân. Nhưng thật lòng tôi không hối tiếc vì tôi đã hành động theo suy nghĩ và tin rằng vì quyền lợi quốc gia trong cơn nguy biến. Có thể tôi sai lầm, có thể tôi thiếu hiểu biết, nhưng tôi thành thật với chính tôi và thành thật với những người bạn đồng hành của tôi và nhứt là với cá nhân bác là cụ Trần Văn Hương được tiếng là một “chính nhân quân tử”. Tôi thất vọng ư? Có! Nhưng tôi không hối tiếc, thật lòng tôi không hối tiếc. Cuối cùng tôi xin bác tha thứ, nếu tôi có lời lẽ xúc phạm làm bác buồn phiền. Riêng tôi không hờn giận trách móc gì bác cả. Mọi việc coi như đã qua, tôi không muốn nhớ đến nữa. Kính chào bác, tôi xin phép về đây.
Cụ Hương đưa tay bắt tay tôi và nắm kéo tôi ngồi xuống.
- Bác muốn nói gì nữa phải không? Xin kính mời bác, riêng tôi không nên nói thêm. Bởi lẽ tôi càng nói thêm càng làm cho bác buồn phiền, vả lại tôi cũng không còn gì để nói nữa.
- Qua ghi nhận những lời phiền trách của em và qua xin em thông cảm cho tình cảnh của qua mà bỏ qua những gì em không vừa ý.
- Tôi đã bỏ qua hết rồi. Tôi biết, và ý thức rõ ràng là bác chỉ tin cẩn những ông bạn già như Lê Văn Thu, Nguyễn Ngọc An, hay những người học trò tỏ lòng trung tín luôn luôn tán đồng quan điểm của bác. Tôi không dám phê phán ai nhưng tôi xin bác lưu ý một điều là với tình hình chính trị quốc tế và quốc nội hiện nay buộc những người gánh trọng trách quốc gia phải theo dõi sát thời cuộc, nghĩ kế hoạch và chiến thuật luồn lách với Mỹ để bảo vệ quyền lợi quốc gia. Tổng Thống Thiệu lúc nào cũng tìm hiểu “người Mỹ muốn gì” để tuân theo, tránh bị đảo chánh và vị giết như Tổng Thống Diệm. Ông ta có để cho bác “có thực quyền” như bác đã tuyên bố với báo chí ngày vận động bầu cử không? Giả sử như bác có thực quyền đi nữa thì bác có khả năng hành động và dẫn dắt đồng bào mình tránh khỏi nạn cộng sản không? Ðó là điều tôi tự hỏi và cũng muốn xin hỏi bác. Xin lỗi bác cho phép tôi về. Tôi không nên ở lại càng phát ngôn càng vô lễ, sẽ làm mất lòng bác vô ích. Tôi cũng xin khẳng định lần gặp gỡ này với bác là cuối cùng. Tự hậu chắc tôi và bác không cần gặp nhau nữa. Tôi thành thật chúc bác gặp nhiều may mắn, có đầy đủ nghị lực, thừa sáng suốt và thành công trong việc công tác quản trị đất nước.
Tôi không còn nhớ nguyên văn những lời phát biểu qua lại khá lâu giữa cụ Hương và tôi ngày hôm đó nhưng tôi khẳng định tin thần, ý nghĩa gói gọn trong đoạn văn này. Tâm sự của tôi trao đổi với cụ Hương lần đó tôi có thuật lại đầy đủ cho Nguyễn Văn Trường, người đã sát cánh với tôi, hết lòng phò trợ để cụ Hương trở lại chính trường năm 1968 (Nguyễn Văn Trường hiện định cư tại Houston, Texas).
Tôi tiếp tục phục vụ tại Bộ Canh Nông và thường xuyên tập họp bạn bè trong chính giới. Mỗi tháng gặp nhau một lần để trao đổi nhận định về tình hình trong và ngoài nước. Trong nhóm có nhiều dân biểu, đương kim hay cựu tổng trưởng, chuyên gia và công chức cao cấp. Tôi phụ trách gởi giấy mời, ấn định ngày họp mặt, nhưng chi phí ăn uống thì luân phiên mỗi vị gánh chịu một lần.
Có một buổi chiều, cuộc họp mặt của chúng tôi được tổ chức tại một quán ăn trong vườn bách thú Saigon. Sau giờ đóng cửa sở thú yên vắng, là nơi lý tưởng để hội hè. Sở dĩ chúng tôi vào được ban đêm là vì tổng trưởng canh nông là Trương Thái Tôn, và tôi cũng làm việc tại bộ, nên mới nhờ được chủ quán chuẩn bị bữa cơm tối sau giờ sở thú đóng cửa. Ðêm hôm đó có Huỳnh Văn Ðạo tham dự. Trước khi vào bàn, anh Ðạo kéo Nguyễn Văn Trường ra ngoài to nhỏ một hồi khá lâu. Sau đó anh lại mời tôi ra nói rằng có tin quan trọng muốn báo. Các anh em khác thản nhiên đàm luận vui vẻ trong nhà.
Anh Huỳnh Văn Ðạo nói:
- Nguyễn Văn Thơ, tổng trưởng giáo dục, từ chức vì bất đồng chính kiến. Lý do chính thức là như vậy, bên trong ông ấy nghĩ gì chúng tôi không biết. Ông già mời anh Trường là người am hiểu vấn đề và cũng là người đã từng điều khiển bộ này hai lần thay thế ông Thơ.
Nhưng Trường cho biết:
- Có lẽ cần ý kiến của thằng Triều. Nó nắm vững đường lối có thể giải quyết được những tranh chấp của giáo sư trong bộ này về vấn đề bằng cấp hay chứng chỉ của Mỹ hay của Pháp.
Anh Trường gọi tôi ra ngoài. Tôi hỏi Huỳnh Văn Ðạo:
- Anh mời tôi hay ông già mời tôi?
- Ông già mời anh chớ tôi làm sao dám tự tiện mời anh?
- Anh về nói với ông già tôi đã trả lời với ổng từ lâu rồi.
Và nhân cơ hội, tôi cũng thêm một lời bất nhã với Huỳnh Văn Ðạo. Sau bữa cơm anh Trường cằn nhằn tôi, thậm chí gần như trách mắng tôi: “Toa không nhận làm thì thôi, nói chi những lời bất nhã khó nghe làm gì”?
Cụ Hương chỉ nhìn được hiện tình chính trị qua sự trình bày, cố vấn của vị tổng trưởng phủ thủ tướng của mình là Huỳnh Văn Ðạo mà thôi. Mọi việc trong ngoài đều do anh ấy sắp xếp nhân danh thủ tướng. Bằng cớ rõ ràng là anh Trường vừa mới từ chối và đề cử tôi thì Huỳnh Văn Ðạo lập tức mời tôi làm tổng trưởng giáo dục liền. Sau khi chúng tôi từ chối, Huỳnh Văn Ðạo tiến cử Lê Minh Liên thay thế Nguyễn Văn Thơ. Tôi còn nhớ khi Dân Biểu Bành Ngọc Quí thất cử ở đơn vị Gò Công tôi yêu cầu Huỳnh Văn Ðạo tìm việc cho anh Quí làm. Huỳnh Văn Ðạo thông báo không còn chỗ nào trống. Tôi hơi khó chịu, yêu cầu anh phải giải quyết vấn về. Liền tức khắc anh Ðạo đề nghị cho Quí làm công cán ủy viên của thủ tướng.
Ðể kết luận giai đoạn hợp tác với Trần Văn Hương, tôi có thể nói ngay như thế này: Tuổi trẻ hăng say nhưng bồng bột, cả tin, cả nể, và thiếu kinh nghiệm nên dễ bị người khác lợi dụng.
Nếu làm chính trị có mục đích chia quyền, háo danh, trục lợi thì đó là một thiếu sót hay sai lầm. Nhưng chúng tôi bị lôi cuốn vào chính trường vì nghĩ mình có trách nhiệm tham gia việc nước. Vì nghĩ mình có bổn phận góp phần trong việc ổn định hay thay đổi bộ mặt quốc gia và luôn luôn với mục đích ngăn chặn làn sóng cộng sản chủ trương tràn xuống nhuộm đỏ miền Nam Việt Nam. Cho dù có bị lợi dụng chúng tôi không màng. Ngược lại chúng tôi còn cầu mong được người khác lợi dụng hay sử dụng mình trong mục đích làm cho ích nước lợi dân. Nhưng tiếc thay sự hăng say góp sức của chúng tôi không đem lại kết quả mong muốn.
Khi tôi còn ngồi trên ghế nhà trường thường khi gặp trở ngại, tôi hay tự an ủi bằng câu người Pháp thường nói: “L'homme propose, Dieu dispose” có nghĩa là “nhân nguyện thiên định”. Mặc dù chúng tôi không tham gia chính quyền nhưng chúng tôi cũng không ra mặt chống đối chính phủ của ông Nguyễn Văn Thiệu. Vả lại Tổng Thống Thiệu cũng chưa có hành động nào đáng chê trách để chúng tôi phải chống đối. Cho đến sau biến cố Tết Mậu Thân, Tổng Thống Thiệu về quê vợ ở Mỹ Tho ăn Tết nhưng ngay trong lúc biến cố xảy ra giữa đêm mùng một, lẽ ra tổng thống phải trở về Saigon, hay ít ra cũng phải bay về Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn IV chiến thuật lên tiếng trấn an quần chúng và điều khiển cuộc phản công. Trong khi ấy trên đài phát thanh chỉ nghe có một mình Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ hiệu triệu. Ðành rằng tổng thống vắng mặt thì phó tổng thống thay thế, nhưng thực tế tổng thống có thể bay ngay về Dinh Ðộc Lập hay Bộ Tổng Tham Mưu, hoặc một bộ tư lệnh vùng nào đó để nắm quyền chỉ huy. Ông đã không làm thế. Thay vì khen tặng người phó của mình, T.T. Nguyễn Văn Thiệu hẹp hòi ganh tị sợ Nguyễn Cao Kỳ lợi dụng tình thế lấn quyền nên có hành vi cử chỉ không đẹp gây xích mích mâu thuẫn nội bộ làm cho Phó Tổng Thống Kỳ tức giận bỏ ra Nha Trang nghỉ mát cả tuần không về.
Liên danh Thiệu-Kỳ, ngay từ khi mới gặp tai biến chưa đến nỗi nguy hiểm đến độ mất nước đã tự lộ ra rằng họ không đủ bản lãnh và đoàn kết để lèo lái con thuyền quốc gia qua cơn sóng gió. Không đủ bản lãnh và đoàn kết càng làm cho khoảng cách giữa hai người bị nới rộng ra thêm không phương hàn gắn cho đến mãi sau này.
(Còn tiếp)
II. Chính quyền Tổng Thống Thiệu và cái chết của Tướng Ðỗ Cao Trí
Nói ra điều này có thể khiến một số người không bằng lòng hoặc là sẽ chỉ trích tôi là vạch áo cho người xem lưng, nhưng khi đã viết thì khó lòng tránh được phải nói thật: miền Nam Việt Nam đang trong cơn nguy khốn vì cuộc tấn công của CSBV, thay vì phải siết chặt hàng ngũ để chống Cộng thì những nhà lãnh đạo hàng đầu của quốc gia lại tỏ ra tị hiềm thì làm sao khỏi gieo rắc sự hoài nghi cho nhân dân và chính đồng minh Hoa Kỳ của mình?
Khi đã nắm được quyền trong tay, lẽ ra Tổng Thống Thiệu phải ra tay chiêu dụ hòa giải các phe phái, đoàn kết toàn khối quân đội theo đúng tình “huynh đệ chi binh”, thu phục nhân tâm thì sức mạnh trở nên vô song thì làm gì cộng sản Bắc Việt có thể xâm nhập quân đội và vũ khí vào Miền Nam Việt Nam được? Tôi cho rằng sự rạn nứt nội bộ là yếu tố chính làm cho chúng ta mất sức vì xuất huyết nội và dần dà dẫn đến kiệt sức sau khi bị đồng minh Hoa Kỳ bỏ rơi.
Tôi có khá nhiều lý do để từ chối không tham gia chính quyền Nguyễn Văn Thiệu sau lời mời khá nhiệt tình của ông Nguyễn Văn Kiểu bào huynh Tổng Thống Thiệu. Nhưng yếu tố chính là do chuyện tôi không tin tưởng tài lãnh đạo của ông Thiệu và ông lại còn tự lộ cho thấy là người tiền hậu bất nhứt như tôi đã viết trong tập I hồi ký của tôi. Nhưng dù không cộng tác với chính quyền của Tổng Thống Thiệu, nhưng chúng tôi cũng không hề chống đối, và trong nhiều trường hợp còn công khai ủng hộ ông nữa là khác.
Tôi còn nhớ đầu tháng 11 năm 1968, khi Mỹ ngưng oanh tạc Bắc Việt, Tổng Thống Thiệu công khai kêu gọi dân chúng, qua đài phát thanh và truyền hình, tiếp tục chiến đấu và xây dựng quốc gia theo chính sách 4 Không của chính phủ. Lời tuyên bố cứng rắn của ông đã kích động mãnh liệt quần chúng và chính trị gia cả nước. Thượng và Hạ Nghị Viện đều biểu quyết ra thông cáo ủng hộ Tổng Thống. Ðể chứng tỏ sự nhiệt tình ủng hộ, một số Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ, trong đó có các Dân Biểu Ngô Công Ðức, Dương Văn Ba, Hồ Ngọc Nhuận, Nguyễn Hữu Chung, Lý Quí Chung xuống đường cùng với dân chúng cầm cờ đến dinh Tổng Thống để bày tỏ lập trường.
Năm đầu tiên của nhiệm kỳ Tổng Thống, Nguyễn Văn Thiệu muốn tìm sự ủng hộ của quần chúng để giúp ông có uy thế ép Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ ngồi yên vào vị trí của một người phó và bằng lòng với vị trí ấy, nghĩa là ông Kỳ chỉ được đóng vai trò lễ nghi mà không được quyền chia sẻ quyết định chính trị quan trọng. Về phần Tướng Kỳ, vì ngây thơ nghĩ rằng chính ông mới là người được các tướng lãnh đề cử ngồi vào ghế lãnh đạo quốc gia và cũng chính ông đã nhường địa vị nầy cho Thiệu thì lẽ nào ông Thiệu lại cư xử với ông một cách nguyên tắc máy móc như vậy. Ngoài ra các tướng lãnh hiện diện ngày ghép liên danh Thiệu-Kỳ có yêu cầu ông Thiệu phải hứa luôn luôn tham khảo ý kiến Hội Ðồng Tướng Lãnh về những vấn đề trọng đại của đất nước trước khi hành động. Nhưng thực tế Hiến Pháp đã không hề có một điều khoản nào bó buộc ông Thiệu phải thực hiện lời ông đã hứa.
Thông thường chính trường cũng như thương trường, một bước sai lầm đưa đến thất bại, đó là qui luật tự cổ chí kim, Ðông, Tây vẫn là như vậy. Trong một giây phút Tướng Kỳ xiêu lòng vì giọt nước mắt của Tướng Thiệu không những gây thất vọng cho nhiều tướng lãnh đã từng ủng hộ ông Kỳ và sau này chính ông Kỳ cũng có những phản ứng chứng tỏ ông thất vọng bởi quyết định của chính ông. Còn về phần Tổng Thống Thiệu khi thì dựa vào uy tín hay mượn bàn tay của Thủ Tướng Trần Văn Hương, khi thì dùng quyền hiến định, ông loại trừ dần những người thân cận của Tướng Kỳ trong guồng máy quản trị quốc gia như các Tư Lệnh Vùng, Tổng Giám Ðốc Cảnh Sát Quốc Gia, Ðô Trưởng Saigon và nhiều nhân vật trong chính phủ khác, kể cả các tổng bộ trưởng nào lộ ra dấu hiệu thân với Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ. Nói ra những chi tiết này, không phải là một cách để trách cứ mà chỉ là để vẽ lại một bối cảnh, một bức tranh đen đối của đất nước vào giai đoạn đó. Khi vẽ lại được bối cảnh đó, chúng ta có thể sẽ nhẹ bớt đi những buồn phiền, những khắc khoải, những trách cứ nhau, dù rằng mỗi người đều phải mang nỗi đau cho riêng mình.
Tổng Thống Thiệu là người ít tiếp tục thực hiện những chương trình hay kế hoạch của người đi trước. Chẳng hạn, tôi có thể đơn cử chương trình phát triển quận 8 làm thí dụ. Chương trình này gặt hái được thành công đáng kể và chắc Tổng Thống Thiệu khi còn làm Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia cũng đã biết đến chương trình này. Nhưng chương trình phát triển quận 8 do cựu Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ nhiệt tình bảo trợ như tôi đã viết trong tập I quyển hồi ký. Bây giờ Tổng Thống Thiệu muốn dành lại ảnh hưởng nên buộc chương trình phải chịu sự trực tiếp điều khiển của phủ Tổng Thống do những người thiếu hiểu biết về thanh thiếu niên, quan liêu không chịu hòa mình với quần chúng. Hành động sai lầm đáng tiếc, có thể nói được là đáng lên án bởi vì ông Thiệu bất chấp sự thành công của tuổi trẻ đang hăng sai “xây dựng đời mới”, đang tạo niềm tin cho đồng bào nghèo khổ, đang khuếch trương vết dầu loang đi các quận khác và sau nầy có thể lan về tỉnh như sự ước tính và chủ trương của chúng tôi lúc ban đầu khi nghĩ đến các làng Kibouzt của Do Thái. Thực tế cho thấy hình như toàn bộ suy nghĩ của Tổng Thống Thiệu chỉ tập trung vào sự củng cố địa vị và bảo vệ quyền lợi cá nhân nhiều hơn là xây dựng, phát triển, bảo vệ quốc gia.
Báo chí khởi sự chỉ trích, Bộ Thông Tin của ông Thiệu khởi sự tịch thu báo. Bộ trưởng đặc trách liên lạc quốc hội của ông tung tiền quỹ đen của phủ Tổng Thống mua chuộc dân biểu và báo chí. Dân chúng hoài nghi, chính trị gia bất bình. Từ đó hình thành một sự chống đối ngấm ngầm cũng có lúc công khai. Và cũng từ đó có danh từ “Gia Nô” gán cho Dân Biểu hay Nghị Sĩ bị mua chuộc, họ là những dân cử hết lòng phục vụ Tổng Thống đổi lấy danh vọng hay tiền tài.
Dưới thời nội các Trần Văn Hương, tôi làm việc với Tổng Trưởng Trương Thái Tôn, đặc trách kế hoạch của Bộ Canh Nông. Không bao lâu, cố vấn Mỹ đưa ra chương tình “Người Cày Có Ruộng” yêu cầu bộ thảo luận để thi hành. Vị cố vấn Mỹ đề nghị lấy tiền viện trợ bồi thường cho những ruộng đất của điền chủ, hoặc đã bỏ hoang hoặc đang bị chiếm trong những vùng xôi đậu. Tôi phụ trách sở thống kê và kinh tế nông nghiệp trước khi tham gia nội các chiến tranh nên tôi biết rõ là sau đợt “Cải Cách Ðiền Ðịa” của thời đệ nhứt cộng hòa ruộng đất của điền chủ không còn lại bao nhiêu. Chương trình người cày có ruộng do Mỹ tưởng tượng chỉ làm giàu phi lý cho những điền chủ hiện sống ổn định trong những tỉnh thành. Tổng Trưởng Trương Thái Tôn và tôi bàn nhau và đề nghị: khoản tiền chi phí lớn lao nầy không đem lợi ích gì cho nông dân mà chỉ làm mồi ngon cho bọn tham nhũng mà thôi. Sự tiên đoán của chúng tôi thực tế sau nầy chứng minh là đúng. Anh Tôn và tôi không đồng ý bác bỏ chương trình. Thay vào đó chúng tôi đề nghị dùng số tiền viện trợ dành cho chương trình “Người Cày Có Ruộng” để giúp nông dân có điều kiện mua phân rẻ, mua hạt giống tốt hoặc vay vốn để canh tác. Ðó là những biện pháp làm cho nền nông nghiệp cất cánh đi lên. Nhưng Tổng Thống Thiệu nghe theo lời giải thích của cố vấn Mỹ là hữu sản hóa nông dân, dù chỉ bằng giấy tờ, thì họ sẽ không bị cộng sản dụ dỗ, đồng thời Tổng Thống được tiếng tốt là lo cho dân. Nguyễn Văn Thiệu nghe bùi tai nên trách Trương Thái Tôn là muốn cản trở chính sách “Vì Dân” của ông và làm giảm uy tín Tổng Thống. Trương Thái Tôn và tôi từ chức. Liền sau đó Hoàng Ðức Nhã đưa Cao Văn Thân vào thay thế. Nhưng con bài Cao Văn Thân và nhóm chuyên viên đặc biệt cũng không thành công vì ngay chính cả ban chuyên viên cũng không tìm ra được một cách nhìn khác hơn để giải quyết những bế tắc của chính sách nông nghiệp tại nông thôn cũng như chính sách kỹ nghệ hóa để tiến dần đến giai đoạn bớt dần ảnh hưởng của viện trợ như Ðài Loan đã làm cách đó vài năm. Hoa Kỳ luôn luôn dùng viện trợ để làm áp lực, cho nên bất cứ một chính sách nào của VNCH mà muốn tách rời khỏi ảnh hương của viện trợ là điều không được Hoa Thịnh Ðốn ủng hộ.
Sau khi tôi từ chức Phụ Tá Tổng Trưởng Canh Nông, Tổng Thống Thiệu chỉ thị Bộ Quốc Phòng phải gọi tôi trở về quân đội. Với bằng cấp kỹ sư tôi được phân bố về Tổng Cục Tiếp Vận thuộc Bộ Tổng Tham Mưu do Trung Tướng Ðồng Văn Khuyên chỉ huy và tôi phục vụ tại sở kỹ nghệ quân đội với Thiếu Tá Nhàn làm chánh sở. Thời gian phục vụ tại sở kỹ nghệ quân đội thật nhàn rỗi, gần như không có việc để làm. Sở chỉ gồm một đại úy, hai trung úy kỹ sư và tôi.
Những năm đó tôi thường đến nhà mát của Trung Tướng Nguyễn Văn Vỹ, Tổng Trưởng Quốc Phòng ở khu Cầu Kinh chơi. Tôi được ông mời uống nước vối hay uống trà nghe ông kể chuyện binh quyền thời Pháp. Có một lần ông thố lộ với tôi rằng ông chủ trương lập ngân hàng quân đội, dùng tiền của ngân hàng thiết lập một nền kỹ nghệ cho quân đội. Ông muốn phòng xa, nếu Mỹ có gây khó khăn cho mình về mức tiền viện trợ thì ít ra cơ sở ngân hàng và kỹ nghệ quân đội cũng có thể cung cấp lương hướng cho quân nhân chống đỡ qua ngày. Trong tinh thần đó ông đã xin ý kiến Tổng Thống. Tướng Thiệu đồng ý và ra lệnh cho Bộ Quốc Phòng tự động trích một khoản tiền lương rất nhỏ của quân nhân mỗi tháng, tùy theo số lương và cấp bậc để gầy vốn lập ngân hàng quân đội lấy tên là “Kỹ Thương Ngân Hàng”. Tướng Vỹ cử cựu Thứ Trưởng Thương Mại Nguyễn Chánh Lý làm Tổng Giám Ðốc. Trong câu chuyện trao đổi, tôi có đưa ra ý kiến với ông:
- Trung Tướng không nên đụng chạm gì tới lương của quân nhân mà không có sự đồng ý của họ. Tốt nhứt là Trung Tướng ra lệnh cho các đơn vị trưởng của họ cử người đại diện về họp và biểu quyết tán thành việc trừ lương để tránh lời ong tiếng ve. Ðụng chạm đến tiền bạc phiền lắm Trung Tướng ơi !
Trung Tướng Vỹ khẳng định:
- Chính Tổng Thống đã đồng ý đề nghị của tôi và ông ta ra lệnh cho tôi làm như vậy.
Tôi lại khuyên Tướng Vỹ:
- Nếu một khi có người chỉ trích hay thậm chí kiện cáo ông thì Tổng Thống có bảo vệ được Trung Tướng không? Liệu ông ta có can đảm và ngay tình nhận trách nhiệm cho Trung Tướng hay là ông ta đưa Trung Tướng ra làm dê tế thần?
Trung Tướng Vỹ cười và nói đùa:
- Làm gì có chuyện rắc rối đến như vậy?
Tôi gợi thêm ý:
- Thằng Mỹ sẽ không bằng lòng khi thấy Trung Tướng đang tự gắn lông gắn cánh cho mình để không còn chịu sự lệ thuộc của họ nữa.
Tướng Vỹ cười và đáp lại:
- Chúng nó còn cầu cho mình có lông có cánh để nó trút gánh nặng cho mình nữa là khác.
Lời cảnh giác của tôi ứng nghiệm vài năm sau, vấn đề trừ lương quân nhân bị nhiều dân biểu độc lập cũng như thân chính hay đối lập đòi hỏi chính quyền phải giải thích tại sao trừ lương lính và số tiền đó được sử dụng như thế nào? Kết quả Tướng Vỹ mất chức, Kỹ Thương Ngân Hàng tan rã. Nhưng Tổng Thống Thiệu thì bình thản tại vị.
Nói về sự chống đối của khối dân biểu và chính trị gia đối lập mà dư luận thường gán cho cái tên gọi là “thành phần thứ ba” thiên Cộng. Sự thật cái thành phần đó chỉ có một thiểu số dân biểu bị Ðinh Bá Thi móc nối tại Paris và bắt liên lạc được sau nầy như tôi đã trình bày trong tập I quyển Hồi Ký. Cái danh nghĩa thành phần thứ ba là nhái theo nhóm chính trị của Lào do Hoàng Thân Souvana Phouma lãnh đạo có sự ủng hộ của Pháp dưới thời Tổng Thống Charles De Gaulle. Ðối chọi với một bên là Tướng Kong Le, cực hữu theo Mỹ, một bên là Hoàng Thân Soupha Nouvong cộng sản. Cái gọi là thành phần thứ ba có thể do cộng sản gán ghép khi họ tuyên truyền trên chính trường quốc tế với mục đích chia rẽ hàng ngũ quốc gia và xúi giục nội loạn.
Nhưng thực tế cái thành phần thứ ba đó tại miền Nam Việt Nam không có một chủ trương đường lối rõ rệt, cũng không có một tuyên ngôn khẳng định chính thức lập trường, không có nhiều thành viên, cũng không có một nhân vật chánh thức lãnh đạo. Ðại Tướng Dương Văn Minh cũng chưa hề xác định ông là lãnh tụ thành phần thứ ba có mục tiêu rõ ràng. Những người tự xưng là thành phần thứ ba đó đếm không đủ năm ngón của một bàn tay. Người mạnh miệng nhứt là Lý Quí Chung, bị Hoàng Ðức Nhã chế diễu là thành phần “lòng thòng” đứng giữa. Hoàng Ðức Nhã lợi dụng thời cơ đổ cho nhóm người đó làm tay sai phá hoại miền Nam để che đậy sự bất tài bất lực của chính quyền Tổng Thống Thiệu không lãnh đạo được toàn dân toàn quân một lòng chống cộng sản xâm lăng. Còn phía Việt Cộng thì rống cổ kêu gào, quảng cáo, tâng bốc với mục đích tuyên truyền, gây mâu thuẫn làm suy yếu miền Nam.
Sự thật thành phần chống đối cung cách lãnh đạo của Tổng Thống ngày càng đông. Rất nhiều chính trị gia miền Nam có tên tuổi, chống thái độ và hành động của Tổng Thống như Luật Sư Dân Biểu Trần Văn Tuyên, đa số các Dân Biểu Quốc Dân Ðảng như Phan Thiệp, Lê Ðình Duyên, Nguyễn Văn Cử. Khối dân biểu Cấp Tiến do Ðại Tá Nhan Minh Trang đứng đầu. Dân Biểu cựu Thiếu Tá không quân Ðặng Văn Tiếp, vân vân... Tất cả không ai thân Cộng nên sau 30- 4-1975 phải đi tù cải tạo lâu dài, có người vĩnh viễn không bao giờ trở về. Tóm lại thành phần thứ ba chỉ là vài ba tên bị móc nối hô hào cho rộng đám để rồi bên nầy cũng như bên kia lợi dụng hầu thỏa mãn nhu cầu và mục đích của họ mà thôi.
Có một khoảng thời gian sau 1970, dư luận ở miền Nam than phiền: cứ để Tổng Thống Thiệu ôm chân Mỹ kiểu này thì có ngày mất nước. Thời điểm đó, trong quân đội, người ta chú ý đến Trung Tướng Ðổ Cao Trí, đương kim Tư Lệnh vùng III chiến thuật, một trong những người bạn chí thân của tôi. Thậm chí một số người coi tướng Trí là một viên tướng không mấy ủng hộ Tổng Thống Thiệu. Tôi không hiểu dư luận này bắt nguồn từ đâu. Chúng tôi thường tâm tình với nhau tự do thoải mái, từ chuyện tình duyên, dạy dỗ con cái, buồn phiền gia đình đến chính trị và quân sự. Có một hôm Tướng Ðỗ Cao Trí bị cúm, nằm đắp chăn trên giường, tôi đến chơi không đúng lúc, tùy viên đem ghế tôi ngồi đối diện với anh thăm hỏi vấn an. Tôi còn nhớ anh nói với tôi:
- Triều à, moa là thằng lính nhà binh không biết chính trị, nhưng moa thấy ông Thiệu lừng khừng quá. Hình như ông ta không biết mình muốn gì. Hay là ông ta bị Mỹ khóa tay khóa chân. Hoặc ông ta tự mình bán thân cho Mỹ rồi.
Tôi ngạc nhiên hỏi lại:
- Tại sao toa nói như vậy?
- Thì chính toa cũng thấy và chắc toa còn hiểu nhiều hơn moa.
- Chính Tướng Kỳ cũng có than phiền điều đó với moa vài lần. Nhưng biết làm sao bây giờ?
- Nếu moa làm một cuộc đảo chánh, toa thấy có nên không? Thú thật với toa từ khi mới có binh quyền trong tay cho đến ngày nay moa chưa hề đánh thua một trận nào. Tụi Mỹ kính phục moa về vấn đề nầy và chúng nó luôn luôn thỏa mãn mọi yêu cầu của moa.
Tôi giật mình suy nghĩ, Ðỗ Cao Trí nhìn tôi ngạc nhiên vì không thấy tôi trả lời. Trong khi tôi nghĩ rằng: thằng bạn mình muốn dấn thân vào đại sự. Trước kia như tôi đã viết trong hồi ký tập I, Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ có đề nghị với tôi hai lần nhưng tôi không thấy lòng mình có chút lo lắng nào. Lần nầy có lẽ vì Ðỗ Cao Trí với tôi thân thiết nhiều nên tôi có phần lo cho anh nhiều hơn là lo cho tôi. Sự im lặng của tôi gần cả phút làm nặng nề cho cả đôi bên. Tôi hỏi lại?
- Liệu toa có thể đảo chánh thành công không?
- Ðó là chuyện chơi đối với moa.
- Ðừng có đùa. Bộ toa đang lên cơn sốt nên nói sảng phải không?
- Ê, toa quên rằng moa là Tư lệnh quân đoàn III và Trung Tướng Minh là em út ruột của moa, hiện đang nắm quyền Tổng Trấn Saigon sao? Còn bao nhiêu em út khác rải rác mà toa chưa biết. Ðời binh nghiệp của moa toa có biết sơ rồi. Phần toa, liệu có khả năng đảm nhận trọng trách lèo lái con thuyền quốc gia không?
- Khả năng thì chắc chắn có, hơn nữa bạn bè đông, thừa sức hành xử đối phó với mọi vấn đề. Nhưng moa đề nghị tụi mình nên suy nghĩ kỷ việc nầy. Khi toa hết bệnh mình sẽ gặp lại bàn rộng hơn.
Một tuần sau đó, Trung Tướng Trí mời tôi dùng cơm trưa tại dinh Tỉnh Trưởng Biên Hòa, vừa là tư gia tạm của ông vừa dùng làm văn phòng Bộ Tư Lệnh Quân Ðoàn. Cơm dọn xong, tùy viên và người hầu biến mất. Chúng tôi tay đôi bàn việc tương lai, nhận định về những khó khăn chính trị, về nguy cơ quân sự do cộng sản Bắc Việt xâm nhập miền Nam khá nhiều, về chính sách Hoa Kỳ thì chúng tôi chỉ đoán mò. Ðiều chúng tôi biết chắc là Mỹ muốn có một nhà lãnh đạo của miền Nam sẵn sàng bán mình cho họ. Ðối với Việt Nam yếu tố Mỹ vô cùng quan trọng vì sự hiện diện của năm trăm ngàn quân, vì số tiền và vũ khí viện trợ. Nhưng ngược lại lấy trí mà suy thì đối với Mỹ yếu tố Việt Nam cũng có tầm quan trọng tại vì sao?
Nhìn lại cuộc chiến Ðông Dương những năm 45-54, Pháp thua trận tại Paris chớ không phải tại Ðiện Biên Phủ. Phong trào đòi hòa bình cho Ðông Dương làm tê liệt nước Pháp hằng ngày, làm sụp đổ chính phủ liên tục. Cho đến ngày Mendes France bị bắt buộc ký hiệp ước Hòa Bình với cộng sản Bắc Việt vào giờ cuối cùng của đêm khuya sắp chấm dứt hội nghị, chỉ vì lời hứa với Quốc Hội trước khi đi Genève: giá nào cũng phải có hiệp ước Hòa Bình. Nếu Mendes France trở về Pháp tay không thì nội các của ông phải cuốn gói ra đi. Yếu tố Việt Nam đối Với Mỹ quan trọng là vì phong trào phản chiến ngày càng ồn ào chia rẽ nước Mỹ, Dân Biểu và Thượng Nghị Sĩ Mỹ muốn giữ ghế phải chạy theo sự đòi hỏi của cử tri. Người Mỹ không muốn đưa con cái mình đi tìm cái chết ở Việt Nam nữa. Nếu có một chính quyền mạnh ỏ Miền Nam Việt Nam, nếu tập thể quân đội kiên cường anh dũng có được Tướng Lãnh chỉ huy xứng đáng, thì Việt Nam Cộng Hòa hùng mạnh sẽ giúp chính quyền Mỹ mạnh dạn giải thích với nhân dân của họ, thì bọn phản chiến khó sách động quần chúng.
Ðổ hết tội lỗi cho đồng minh Mỹ bỏ rơi Việt Nam Cộng Hòa cũng đúng, nhưng ta nên xét lại mình đã góp đủ phần để cho phép Mỹ giúp ta hết tình chưa? Cái khó là làm cho quyền lợi của mình phù hợp song song với quyền lợi của Mỹ trong giai đoạn đó. Vấn đề là nếu ta có đủ sức mạnh để đương đầu và có đủ khả năng thúc đẩy toàn dân đoàn kết thì thời cuộc có thể chuyển hướng ngược vòng, phần lợi về ta. Chính sách của Mỹ thay đổi tùy thuộc nhiều yếu tố ngoại lại, giải pháp nào có lợi cho nước Mỹ thì họ chọn.
Theo chủ quan của Trung Tướng Ðỗ Cao Trí thì ông có thể tạo được sự đoàn kết trong quân đội và cũng theo chủ quan của tôi thì đông đảo bạn bè có thừa khả năng đặt nhiều kế hoạch kích thích toàn dân tham gia xây dựng kinh tế, thực hiện công bằng xã hội, phá vỡ môi trường hoạt động và tuyên truyền của cộng sản. Chúng tôi bàn thảo sâu rộng, đắn đo cũng nhiều. Cuối cùng quyết định thực hiện kế hoạch thay Tổng Thống Thiệu. Tướng Ðỗ Cao Trí âm thầm và khéo léo chuẩn bị hành động, nhưng dường như Nguyễn Văn Thiệu đánh hơi thấy một điều gì đó, tôi chưa biết rõ nhưng tôi có linh cảm như thế.
Rồi có một ngày Trung Tướng Trí có vẻ lo ngại vừa thông báo vừa hỏi ý tôi về đề nghị của cố vấn Mỹ, yêu cầu anh đưa trực thăng của mình vào bãi đáp của Mỹ để họ giữ an ninh giùm. Tôi hỏi ngược Tướng Trí: “Toa giữ an ninh cho cả một vùng III được mà giữ anh ninh cho một chiếc trực thăng của toa không được sao?” Liền sau đó, Trung Tướng Trí đổi hết phi đoàn trực thăng của ông thay bằng những bà con xa gần trong đó có Thiếu Tá Ðẳng vai chú của Ðỗ Cao Trí. Một tuần lễ sau Trí lại hỏi: “Mỹ bảo moa không chịu đưa trực thăng vào bãi đậu cho nó giữ an ninh giùm mình không chịu vậy thì trước khi bay đưa cho tụi nó kiểm máy lại giùm, ý toa nghĩ sao?
Bất cứ một người bình thường nào cũng phải đánh hàng trăm dấu hỏi, trừ hai người chúng tôi mù mờ, u mê vì ý trời xui khiến hay là số mạng của Ðỗ Cao Trí đến hồi sắp tận, chúng tôi đồng ý nghĩ rằng: Trực thăng do Mỹ sản xuất, thợ sửa máy bay của mình do Mỹ huấn luyện, thì bây giờ đưa trực thăng cho họ kiểm máy là hợp lý và bình thường. Hai ngày sau trực thăng nổ cháy. Toàn bộ phi hành đoàn theo Trung Tướng Ðỗ Cao Trí đều tử nạn.
Khoảng 10 giờ trưa ngày hôm đó tôi đang làm việc tại Tổng Tham Mưu, Ðại Tá Trần Kim Hoa, Chánh Võ Phòng Phủ Thủ Tướng, hiện định cư ở Texas, điện thoại cho tôi báo tin nói: “Ông bạn của ông chết rồi” Tôi hỏi gặn: Ông bạn nào? Bên kia đầu dây trả lời ngắn gọn: “Thì ông Trung Tướng Tư Lệnh bạn của ông đó”. Tôi đờ người bỏ ống nghe xuống, bước ra cửa về.
Thông báo chính thức của chính phủ trên đài phát thanh và truyền hình là trực thăng của vị Tư Lệnh Quân Ðoàn III bị hỏa tiễn Việt Cộng bắn rơi. Mãi về sau này, anh ruột của Ðỗ Cao Trí là nha sĩ Ðỗ Cao Minh, hiện định cư tại Pháp, to nhỏ cho tôi biết về một lời tâm sự của Ðại Tá Chiêm, đàn em của Tướng Trí, Phụ trách ban anh ninh phủ Tổng Thống tường thuật với Ðỗ Cao Minh như sau: Sáng hôm đó ký giả tuần báo Newsweek, ông Francois Sully, diện kiến Tổng Thống Thiệu đúng 8 giờ, sau đó ký giả nầy có hẹn với Trung Tướng Ðỗ Cao Trí lúc 9 giờ để tháp tùng đi thi sát mặt trận Campuchia. Theo thông lệ mọi người vào diện kiến các cấp lãnh đạo cũng phải để xách tay lại văn phòng bí thư hay tùy viên. Francois Sully giã từ Tổng Thống xách cặp của ông ra đi. Không hiểu giữa thời gian đó, có ai bỏ bom nổ chậm trong cặp không?
Ai giết Trung Tướng Ðổ Cao Trí? Việt Cộng chăng? Người Mỹ chăng? Tổng Thống Thiệu chăng? Cho tới nay, chưa có một cuộc điều tra nào khả dĩ khẳng định chính xác nguyên nhân cái chết của Tướng Ðỗ Cao Trí. Tôi nghĩ chỉ có Thượng Ðế mới trả lời được thắc mắc tại sao chiếc trực thăng của Tướng Trí lâm nạn mà thôi. (Còn tiếp)
Tập II
(tiếp theo)
Tổng Thống Thiệu biết tôi và Tướng Trí là bạn thân, mặt khác có thể ông biết được ý đồ của Ðỗ Cao Trí nên ông cho rằng tôi là dính dáng đến một biến chuyển gì đó đang được Tướng Trí xếp đặt. Thêm vào đó, khoảng thời gian các dân biểu thân cận làm việc với tôi đã sử dụng diễn đàn Quốc Hội chỉ trích Tổng Thống Thiệu không ngừng về những vụ tham nhũng. Nhựt báo Tin Sáng của Ngô Công Ðức thường hay mỉa mai chế diễu ông Thiệu trong mục “Thiên Hạ Ðồn Rằng”. Cột báo viết chuyện tếu hằng ngày dựa trên tin đồn hay những chuyện có thật mà ít người biết do một số nguồn tin trong phủ tổng thống tiết lộ với tôi. Những nguồn tin này thường là những nhân vật có mối liên hệ xa gần với gia đình tôi. Những câu chuyện như vậy càng củng cố thêm quyết định trừ khử những ai mà ông để tâm nghi ngờ, và dĩ nhiên tôi cũng không thoát khỏi trường hợp này.
Hơn nữa, còn một chuyện khác xảy ra khi Tổng Thống Thiệu ra lệnh đặt chương trình phát triển quận 8 dưới sự quản trị của phủ tổng thống, tôi có yêu cầu ban quản lý chương trình tổ chức một buổi lễ mời Phó Tổng Thống Kỳ chủ tọa. Bài diễn văn của đại diên ban quản lý ca ngợi công lao của Tướng Kỳ trước khi bàn giao lại cho đô trưởng Saigon. Chuyện vinh danh Tướng Kỳ nhân dịp chương trình sắp được chuyển giao cho một cơ quan khác trong chính phủ là chuyện bình thường. Tuy nhiên chuyện bình thường đó lại xảy ra vào giai đoạn liên lạc không bình thường giữa Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ nên mới sinh chuyện.
Các biến chuyển nói trên được tích lũy đã gây bất bình cho Tổng Thống Thiệu, và riêng đối với Thiếu Úy Võ Long Triều, ông Thiệu ghét cay ghét đắng. Nguyễn Hữu Hanh, cựu thống đốc Ngân Hàng Quốc Gia, đang làm việc tại Ngân Hàng Thế Giới, được Tổng Thống Thiệu mời làm cố vấn. Hanh báo cho tôi biết là trong một buổi họp tại phủ, Tổng Thống Thiệu nói rằng cứ đưa Võ Long Triều ra khỏi Saigon thì sẽ hết chống đối. Hanh đề nghị với tôi:
- Nếu toa cho phép thì moa sẽ xin tổng thống xét lại quyết định của ông ta.
- Không cần làm như vậy. Cám ơn toa có lòng tốt, nhưng moa không thích chạy chọt, nhờ vả người ta sẽ khinh khi mình.
Ít lâu sau nhân cơ hội, như tôi đã viết trong tập I hồi ký, đại sứ Hoa Kỳ chính thức gởi văn thơ lặp lại lời mời của chính phủ Mỹ đề nghị tôi đi du khảo nhiều nước trên thế giới trong ba tháng. Lời mời khi tôi từ chức tổng trưởng thanh niên cuối năm 1967 nay vẫn còn giá trị như ông Philipp Habib đã xác nhận với tôi. Tôi trả lời chấp nhận, nhưng chỉ đi trong một tháng thôi. Sau đó tôi hỏi Tướng Vỹ, tổng trưởng quốc phòng, ông trả lời: “Anh đi càng lâu càng tốt”. Tôi hỏi Thủ Tướng Trần Thiện Khiêm, ông nói: “Anh bảo đứa nào đem passport của anh lên đây tôi ký liền cho. Mọi việc sẵn sàng”. Tôi biết ngày đi, nơi dừng chân đoạn đầu là Honolulu. Ngoài tôi còn có hai người Mỹ, một nhân viên an ninh và một thông dịch viên sẽ theo tôi. Nhưng bất ngờ một vài dân biểu thân cận với tôi cũng đang viếng thăm Mỹ, trong đó có Dương Văn Ba lên tiếng chỉ trích T.T. Thiệu trên báo chí Mỹ và có đề cập đến tên tôi trong cuộc viếng thăm sắp tới.
Tức thì Tổng Thống Thiệu phản ứng. Ngày hôm sau Tướng Vỹ điện thoại cho tôi thông báo quyết định của Tổng Thống Thiệu đưa Thiếu Úy Võ Long Triều ra mặt trận. Tôi phản kháng như tôi đã viết trong hồi ký tập I. Tướng Vỹ phái Ðại Tá Hạo chánh văn phòng của ông tới nhà tôi nhiều lần để thuyết phục tôi chấp nhận lệnh thuyên chuyển. Ðại Tá Hạo hiện định cư tại Orange County chúng tôi có liên lạc nhau thường.
Cuối cùng theo lời khuyên của Tướng Vỹ thì chỉ còn vài tháng nữa là bầu cử Quốc Hội, tôi nên thi hành lệnh để chờ ngày ra ứng cử dân biểu, đắc cử hay thất cử sẽ tính sau. Tôi chấp nhận thuyên chuyển về Bộ Chỉ Huy 5 Tiếp Vận do Ðại Tá Vân điều khiển, trực thuộc Quân Ðoàn I. Khi tôi trình diện thì Ðại Tá Chỉ Huy Trưởng nói liền:
- Trung Tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng có điện thoại cho tôi rồi. Tôi cho dọn sẵn một bàn giấy cạnh văn phòng tôi. Anh ngồi đó tự tiện muốn làm gì thì làm, cả ngày đi tắm biển cũng được. Chỉ có một điều cấm kỵ là xin anh đừng về Saigon.
- Thưa đại tá, trường hợp của tôi khá đặc biệt. Xin đại tá cứ xem tôi như một thiếu úy bình thường như mọi người khác, không nên dành đặc ân hay can dự vào việc này, nếu Tổng Thống Thiệu biết được sẽ gây nhiều phiền phức cho đại tá thì tôi sẽ hối hận.
- Nếu anh muốn vậy thì tôi chuyển anh lên Ban Mê Thuột làm việc tại trại gà của quân đội ở đó. Khi nào anh muốn về Nha Trang tắm biển chơi thì điện thoại, tôi sẽ cho phương tiện đưa anh về đây và đưa anh trở lên khi anh muốn.
- Tôi hết lòng đội ơn đại tá nhưng xin đại tá cứ sử dụng tôi như mọi sĩ quan khác.
Trực thăng đưa tôi lên Ban Mê Thuột, cư dân ở đó đổi tên tỉnh là “Buồn Muôn Thuở”. Miền núi, trời lạnh, ít người. Tôi trình diện Ðại Úy Kỳ, chỉ huy trưởng, một sĩ quan thủ phận với tư cách một “sứ quân” bé nhỏ giữ chìa khóa kho lương thực. Ông dẫn tôi xuống bàn giao cho Trung Úy Ánh trưởng trại gà quân đội. Tôi chào kính theo đúng cung cách nhà binh đã qui định: Xưng tên họ chức vụ số quân và sau cùng hô lớn: Trình diện Trung Úy. Ánh ngạc nhiên trố mắt nhìn tôi kêu:
- Thầy!
Tôi vẫn đứng nghiêm, lòng tự hỏi ai đây? Ánh nhào tới ôm tôi và nói:
- Em là học trò khóa 3, ban súc khoa của thầy đây. Tại sao thầy tới đây?
Trước sự ngạc nhiên của Ðại Úy Kỳ tôi cười nói:
- Thì cuộc đời nhà binh trôi nổi nay đây mai đó cũng như em vậy thôi. Ðại Úy Kỳ cho tôi một giường sắt nhỏ trên gác ở cùng với ba sĩ quan trong căn cứ. Trung Úy Ánh đề nghị:
- Em sẽ làm sự vụ lệnh cử thầy làm sĩ quan kỹ thuật. Em dọn cho thầy một bàn giấy và mướn sách chưởng của Kim Dung về cho thầy đọc. Mọi việc ở đây có em thầy đừng lo.
Tôi cảm động và biết ơn anh học trò còn tỏ tình thương mến với thầy cũ.
Buổi chiều đầu tiên cơm nước xong xuôi, tất cả sĩ quan rủ nhau lên sân thượng ngồi hút thuốc tán dóc. Dĩ nhiên là ai cũng tò mò muốn biết lai lịch và nguyên do tôi được thuyên chuyển về đây. Trung Úy Ánh nói những gì anh biết về tôi. Riêng tôi chỉ cười không thêm không bớt. Nhìn núi đồi bao bọc chung quanh tôi khen đẹp nhưng mấy anh sĩ quan bạn cho biết năm ngoái cũng tại sân thượng này có một vị bị việt cộng bắn sẻ chết tại đây. Ðời binh nghiệp của tôi chỉ ngồi văn phòng nên nghe nói súng đạn chết chóc tôi hơi ngại ngùng nên hỏi liền:
- Tại sao các anh còn lên đây làm bia cho chúng nó?
- Chiều ăn cơm xong còn biết làm gì hơn là lên đây, chẳng lẽ lên giường nằm ngủ liền được sao? Nếu không ngủ thì cũng nằm trên giường tán gẫu, mà chẳng lẽ nằm hoài nên đành phải lên đây nhìn trời đất bao la cho thoải mái hơn.
Ðêm đầu tiên ngủ tại một đơn vị quân đội, nơi rừng núi tôi mới có cảm giác thật sự mình là quân nhân tại ngũ. Suy nghĩ về những diễn biến dồn dập gần đây tôi thấy vị tổng thống của chúng tôi quá tầm thường. Thay vì suy nghĩ về những thiếu sót hay sai lầm của mình để tìm cách sử sai, thay vì cải hóa lấy lại cảm tình của những người chống đối hay thách thức họ chứng minh những hành động của mình là sai trái, thách thức họ đưa ra một chính sách chương trình có ích nước lợi dân hơn để cho đồng bào xét đoán. Hoặc giả cứ để yên, “đường ta ta cứ đi” thay vì lợi dụng quyền thế nhứt thời trù ếm đày ải, chẳng làm ai sợ, còn tạo ra nhiều người chống đối hơn nữa là khác. Một vị lãnh đạo khôn ngoan xứng đáng phải làm thế nào cho mọi người tâm phục khẩu phục thì mới huy động được toàn dân chống cộng. Tổng Thống Thiệu, theo chủ quan của riêng tôi không phải là típ người đó. Sự đày ải của tổng thống không có nghĩa lý gì đối với tôi cả bởi vì đã là quân nhân thì ở đâu cũng vậy thôi. Cho nên, tôi không một chút oán hờn ông mà chỉ tiếc cho ông không vươn lên nổi cho tương xứng với chức vị lãnh đạo của mình với trách nhiệm lèo lái con thuyền quốc gia.
Thời gian ở Ban Mê Thuột có vị trưởng ty thanh niên đến thăm hỏi và an ủi tôi mấy lần. Tôi xác định với anh là tôi không thấy buồn vì được biết thêm một vùng đất lạ và quang cảnh rừng rú hoang dã, mỗi sáng thấy đồng bào thượng xếp hàng một, mang “gùi” (túi đang bằng tre dùng dựng rau quả) làm tôi thích thú. Người thứ hai đến tận nơi thăm hỏi và mời tôi đến nhà nhưng tôi chưa co cơ hội thăm ông. Sau này được biết ông một đồng hương Bến Tre với tôi và có nhà thuốc tây tại tỉnh.
Riêng về phần mình tôi nghĩ ngay phải làm thế nào tổ chức việc ứng cử cho thành công trong lúc xa nhà, xa bạn bè lại còn bị trói buộc trong khuôn khổ sinh hoạt của quân đội. Những ngày kế tiếp tôi bỏ nhiều thì giờ ra nhà bưu điện gọi điện thoại cho hết người này hỏi thăm tin tức, đến người khác yêu cầu làm những việc cần thiết nhằm mục đích chuẩn bị cuộc tranh cử và cũng điện thoại cho nhân viên thuộc các cơ sở kinh doanh của tôi để chỉ thị. Nhân viên bưu điện biết mặt tôi và gần như trở thành thân thiện quen biết từ lâu. Mỗi lần thấy mặt tôi là hỏi số nào ông muốn gọi trước đây ông?
Có một ngày tôi rong chơi hết phố phường của tỉnh nhỏ, lái xe ra ngoại ô, lòng vòng ngắm cảnh nhưng không dám đi xa. Về tới văn phòng Trung Úy Ánh hoảng hốt thông báo: “Chuẩn Tướng Cảnh Tư Lệnh Sư Ðoàn 23 cho người đến mời thiếu Úy Võ Long Triều, chắc chắn là có chuyện rồi”.
Tôi giật mình hơi lo. Chuyện gì nữa đây? Tôi vội vã lái xe vào bộ tư lệnh sư đoàn. Tâm trạng hơi bối rối. Khuôn viên bộ tư lệnh được canh gác cẩn mật làm cho tội rất hồi hộp. Lúc còn là dân sự tôi tiếp xúc với các tướng lãnh hai sao, ba sao tôi coi họ là khách bình thường mà bây giờ mặc áo nhà binh vào đeo lon thiếu úy tôi coi ông chuẩn Tướng Tư Lệnh bằng Trời. Bước vào văn phòng gặp một thiếu tá, ông nói liền:
- Thiếu Úy vào ngay, Chuẩn Tướng đang chờ đấy.
Tôi càng hồi hộp. Khỏi nói, ông nhà binh nào cũng đều biết trình diện bất cứ ai đeo lon cao hơn mình cũng phải chào kính xưng danh, số quân v.v... theo qui định. Bước vào phòng ông tư lệnh tay chào, miệng nói:
- Thiếu Úy Võ Long Triều số quân...
Tôi chưa kịp nói tiếp... Chuẩn Tướng Cảnh nói ngay:
- Thôi... thôi mời anh ngồi...
Tôi hoàn hồn ngồi xuống. Tướng Cảnh nói ngay:
- Trung Tướng Tổng Trưởng Quốc Phòng có chỉ thị tôi bất cứ lúc nào anh muốn điện thoại cho ổng hay gọi về Saigon thì cứ vào đây nói với ông chánh văn phòng của tôi gọi cho anh nói chuyện. Tôi đã chỉ thị cho chánh văn phòng rồi và mỗi lần đến anh cứ bảo là vào gặp tôi dù không có tôi ở đây, văn phòng sẽ theo y lệnh.
Trời đất! Chỉ có thế thôi mà làm tôi mất hồn. Tôi vội vàng cám ơn vị tư lệnh sư đoàn rối rít và hứa sẽ vào nhờ cậy ông khi cần. Sự thật, đó cũng là lần đầu tiên và lần cuối cùng tôi vào cấm thành của một sư đoàn bộ binh bởi vì thực tế tôi chỉ thích làm phiền nhân viên của nhà bưu điện hơn là văn phòng của ông tư lệnh.
Một việc khác cũng khá buồn cười là có một hôm trại gà giống cho ấp nở ra trên 3,000 gà con mà không có máy bay quân sự chuyên chở về Saigon. Trung Úy Ánh cũng như Ðại Úy Kỳ không biết giải quyết cách nào để cho mấy con gà khỏi chết vì trại gà giống này không được trang bị để nuôi gà thịt. Tôi lợi dụng cơ hội lấy cớ đưa gà về Saigon nên đề nghị:
- Nếu Ðại Úy cho tôi đi phép 3 ngày tôi sẽ can thiệp cho hàng không Việt Nam chuyên chở số gà này về Saigon.
Ðại Úy Kỳ Mừng rỡ hỏi:
- Có thật không?
- Nếu Ðại Úy cho phép tôi dùng điện thoại quân sự gọi về võ phòng phủ thủ tướng thì tôi sẽ có câu trả lời ngay bây giờ.
Tôi điện thoại cho Ðại Tá Trần Kim Hoa, Chánh Võ Phòng Phủ Thủ Tướng (hiện định cư tại Texas), tôi nhờ anh Hoa giải quyết giùm bằng cách can thiệp với hàng không dân sự Việt Nam. Ðương nhiên mọi việc được giải quyết xuôi chèo mát mái. Về Saigon tôi lên tổng tham mưu ghi chuyến bay quân sự để trở về Ban Mê Thuột. Không có chỗ nên tôi cứ nấn ná ở Saigon. Cho đến một ngày Trung Úy Ánh gọi điện thoại về nhà bảo tôi phải lên gấp. Tôi lấy giấy máy bay Air Việt Nam lên ngay. Ngay trong ngày đó, có trực thăng của Ðại Tá Vân đáp và cứ mỗi lần như vậy thì toàn bộ sĩ quan, lính tráng phải dàn chào, xếp hàng cấp cao đứng trước, lính quèn đứng sau. Tôi là thiếu úy, ma mới, chỉ đứng trước vài ông hạ sĩ và lính trơn. Ðại Tá Vân bước xuống không bắt tay ai cả và cũng chẳng chào trả lại ai. Ông đi một mạch đến tìm tôi kéo ra ngoài thì thầm nói:
- Trời ơi! Tôi đã yêu cần anh đừng về Saigon mà sao anh không nghe tôi. Tổng thống xài xể tôi như cái mền!
- Trình đại tá tôi lãnh nhiệm vụ chuyên chở gà con về Saigon.
- Thì anh cứ bỏ mẹ đó, chúng nó có chết hết cũng không sao. Thôi nghe cha, lạy cha, đừng về Saigon nữa giùm con nhé.
Tôi cười và ông cũng cười theo rồi ông quay lại bước lên trực thăng không thèm ngó ngàng tới đám người đang cung tay chào kính. Sau đó các bạn sĩ quan kinh ngạc hỏi tôi việc gì mà đại tá chỉ huy trưởng lên đây lần này là lần thứ ba rồi mà chỉ nói nhỏ to với anh có mấy câu rồi về. Tôi giả vờ nói không biết.
Thì ra là khi tôi về Saigon, đám cảnh sát chìm theo dõi thấy bạn bè tới lui nhà tôi nên mới trình báo đến phủ tổng thống. Chuyện nhỏ và buồn cười, chẳng đáng gì, nhưng tôi phải đề cập tới là vì tình trạng phản ảnh cái cung cách không đúng trong lối hành xử của một nhà lãnh đạo đối với một cựu thành viên nội các của một người đang đứng phó cho mình. Không ưa Nguyễn Cao Kỳ, nhưng sao lại chịu đứng chung liên danh?
(Còn tiếp)
Như đoạn trên đã nói, theo lời khuyên của Trung Tướng Vỹ, tạm thời tôi thi hành lệnh thuyên chuyển đi Vùng I chiến thuật chờ vài tháng sau sẽ ra ứng cử, chừng được hay thua sẽ tính sau. Trong đầu tôi nảy ra hai ý nghĩ, nếu thất cử thì một là vượt biên qua Campuchia đi thẳng sang Pháp, hai là cứ tiếp tục ở lại Việt Nam phục vụ trong quân đội, như vậy tôi còn có điều kiện gần gũi anh em, tiếp tục hoạt động theo lập trường và quan điểm của mình.
Vả lại trong quân đội nhiều bạn bè sẵn lòng che chở bảo bọc tôi. Hơn nữa tôi tin nữa chết sống là mạng trời. Tôi cũng đã từng khẳng định với Ðại Tướng Viên và Trung Tướng Vỹ rằng đất nước này có hàng chục ngàn thiếu úy đâu phải ai cũng chết. Thực tình đã ở trong nhà binh, tôi không sợ gì bị đầy ải hay phải cầm súng ra mặt trận. Thế nhưng cứ phải chứng kiến trò tiểu xảo của một tổng thống để “đì” một anh thiếu úy như tôi vì những chuyện chẳng ra sao cả, tôi đâm ra bực và khi bực thì dễ nóng, có khi làm bậy không có lợi gì mà chỉ hại thêm cho gia đình. Nhưng nếu bỏ trốn sang Tây thì hèn quá cho nên cuối cùng tôi gạt bỏ ý định này và thay vào đó là ý định ứng cử.
Nếu tôi ứng cử tại quận 8, hy vọng đắc cử cũng khá cao bởi vì trong thời điểm đó từ ban quản lý và cán bộ của chương trình phát triển là những người đã từng trực tiếp làm việc với tôi, còn về phía dân chúng, họ có có cảm tình với những người phục vụ trong chương trình phát triển quận 8 bởi vì chúng tôi đã thực sự sống hòa mình với họ.
Tôi bỗng nhớ lại những kỷ niệm đẹp biết bao với dân chúng trong vùng. Có những đêm khuya chúng tôi cùng với họ đẩy xe đất lấp nền nhà cho các khu chỉnh trang. Có những ngày chúng tôi cùng với thanh niên thuộc các đoàn thể thiện nguyện đẩy xe “xà bần” (gạch đá vụng đổ lấp những đường hẻm lầy lội tại các khu “ổ chuột” ở quận 8, và chúng tôi từng sống sát với công nhân lò heo Chánh Hưng. Nhưng có nên ứng cử ở đơn vị này không là điều cần phải suy nghĩ và cuối cùng thì tôi thấy là không nên vì sẽ đụng độ với những người vừa là đàn em của tôi vừa bạn bè thân thiết)
Cuối cùng, tôi quyết định ra ứng cứ tại nơi chôn nhau cắt rún của mình là tỉnh Kiến Hòa (Bến Tre ngày xưa đổi thành Kiến Hòa thời Ðệ Nhứt Cộng Hòa). Hành động như vậy sẽ không mang tai tiếng và có lợi cho tôi. Thứ nhất, những là bạn với tôi và đồng thời là đàn em của tôi trong thời điểm đó không cảm thấy khó chịu. Thứ hai là Tổng Thống Thiệu không thể có ý nghĩ khinh khi và cho rằng tôi đang tìm chỗ an toàn núp gió.
Thực tế thì tôi đã gặp rất nhiều bất lợi. Thứ nhứt bởi vì tôi xa quê hương mười chín năm, thứ hai tỉnh Kiến Hòa là “quê hương đồng khởi” của Việt Cộng, thứ ba thân phụ tôi là cựu phụ tá an ninh tỉnh Bến Tre thời miền Nam còn trong chế độ bảo hộ của Tây nên ông bị Việt Minh lên án tử hình nhiều lần và chúng nó treo giá cái đầu của ông khá cao, thứ tư toàn bộ gia đình tôi định cư tại Saigon từ sau 1958, thứ năm tôi bị Tổng Thống Thiệu trù dập thì đương nhiên tỉnh trưởng, quận trưởng phải theo lệnh của ông để tâng công.
Cho dù có nhiều sự bất lợi thấy trước mắt, nhưng tôi xem đó là một thách thức nên không bó ý định ứng cử tại Kiến Hòa. Trước hết là tôi muốn thách thức đối với Tổng Thống Thiệu và quan trọng hơn tất cả là với chính bản thân tôi. Tôi đã tự ghi tâm khắc trí bốn chữ “ý chí sắt thép” khi tôi còn ngồi tại ghế trường Ðại Học Nông Nghiệp Grignon. Và tâm nguyện của tôi là phải làm những gì có ích cho đời. Vậy thì trên đời này có việc gì mang lợi ích mà không gặp khó? Có chuyện gì mà không cần sự trì chí gan lì, thậm chí nguy hiểm? Ra ứng cử tại quê hương đồng khởi của Việt Cộng thêm vào sự trù ếm của tổng thống là một thách thức mà tôi cần phải vượt qua với bất cứ giá nào.
Suy đi nghĩ lại, người thân tín có thể thay tôi làm những công tác sơ khởi tiền vận động là Dương Văn Long, nghị viên Ðô Thành. Tôi lượng định những yếu tố thành công chỉ vỏn vẹn có hai: một là các giáo sư trung, tiểu học, phần đông họ là học trò của các bạn thân với tôi như Giáo Sư Nguyễn Văn Trường cựu tổng trưởng giáo dục, Giáo Sư Trần Văn Tấn cựu viện trưởng Viện Ðại Học Saigon, khoa trưởng Ðại học Sư Phạm. Hai là người bạn mới quen nhưng nhanh chóng trở thành thân thiết với tôi. Ngoài Dương Văn Long, tôi còn có cựu Chánh Án Bến Tre Phạm Văn Huệ giúp đỡ (ông Phạm Văn Huệ hiện định cư tại Houston, Texas).
Dương Văn Long về Bến Tre sắp xếp hẹn ngày tôi gặp đa số cảm tình viên một lần trong khi tôi từ xứ “Buồn Muôn Thuở” trốn về được. Nhưng chỉ lần đó, còn về sau tôi điều khiển mọi việc thông qua Dương Văn Long bằng điện thoại. Cũng trong dịp gặp gỡ này, Chánh Án Phạm Văn Huệ có giới thiệu cho tôi người đại diện tại tỉnh là một giáo viên có liên hệ gia đình xa gần với ông. Tôi nêu hết những điều mà chúng tôi phải đương đầu và tìm mọi cách để giải tỏa là:
1. Sự chống đối đương nhiên và bắt buộc của chính quyền tỉnh theo lệnh của Tổng Thống Thiệu.
2. Sự chống phá của Việt Cộng.
3. Làm thế nào để thiết lập một hệ thống cảm tình viên thật rộng rãi.
Anh Dương Văn Long thay tôi đi Kiến Hòa thường xuyên làm việc y như anh là ứng cử viên đơn vị Kiến Hòa. May mắn cho tôi là anh cũng đã từng vận động tranh cử cho chính mình nên có thừa kinh nghiêm trong việc này. Sau khi tôi tham khảo ý kiến của luật sư riêng cũng là bạn thân, anh Bùi Chánh Thời và anh Chanh Án Huệ, tôi viết rất nhiều thư, in ronéo thành vài ngàn bản phân phát khắp nơi với mục đích giải bài lập trường, chỉ dẫn phương thức đối phó với chính quyền địa phương, trình bày kế hoạch vận động v.v... Những thư đó ngụy trang dưới hình thức “Tài liệu nội bộ” để tránh bị khiếu nại hay thưa kiện là tôi vi phạm luật bầu cử khi tất cả ứng cử viên chưa có quyền công khai vận động.
Lần thứ hai tôi về Saigon nhân dịp chuyển tải gà con về Cục Tiếp Vận, tôi gặp mặt Dương Văn Long tại nhà trong một bữa cơm trưa. Anh Long lắc đầu:
- Thôi hết hy vọng rồi ông ơi.
- Tại sao?
- Bọn Việt Cộng tuyên truyền và rải truyền đơn ở một vài nơi hăm dọa cử tri và kêu gọi không bỏ cho Võ Long Triều vì ông là con của “Hùm Xám Bến Tre”, ngày xưa làm tay sai cho người Pháp, giết hại đồng bào trong tỉnh.
- Ai nói cho anh biết điều đó?
- Thì gần như tất cả mấy ông thầy giáo của mình đều ngã lòng than với tôi như vậy.
Tôi nhận thức được liền mối nguy hại và tầm quan trọng. Lòng tôi phân vân, lo lắng. Nhưng chỉ vài phút sau tôi lấy lại được sự bình tĩnh, liền bỏ đũa, lấy giấy bút ngồi viết liền một bản văn ngắn, dĩ nhiên là với sự ngụy trang “tài liệu nội bộ” và yêu cầu Dương Văn Long cho quay ronéo thành năm ngàn bản giao cho thân hữu phân phát dần dần tại các quận, phải chuyền tay kín đáo như sự hé lộ của một tài liệu mật dành cho thân hữu vận động viên của mình mà thôi. Kỳ thật là đây là một tài liệu giải độc chống sự tuyên truyền của bọn cộng sản có thâm thù với thân phụ tôi. Nguyên văn tài liệu đó tôi không nhớ rõ từng chữ nhưng nội dung và ý nghĩa như thế này: Cộng sản bịa đặt thêm về những hành động quá đáng của thân phụ tôi vì hận thù đối với một người quốc gia có nhiệm vụ bảo vệ an ninh cho tỉnh bằng mọi cách. Tôi khẳng định trên thực tế thân phụ tôi không thể phạm những lỗi lầm quá đáng trong khuôn khổ của một quốc gia tương đối có pháp luật. Tuy nhiên, giả sử như những chuyện vu cáo đó là có thật thì tôi nghĩ mối giây oan nghiệt nên tháo gỡ hơn là trói buộc. Và nếu như thân phụ tôi có phạm một sai lầm nào đó trong quá khứ thì xin đồng bào cho phép tôi có cơ hội chuộc lại lỗi lầm bằng cách tận tâm giúp đỡ dân chúng tỉnh nhà.
Gần một tháng sau, qua điện thoại Dương Văn Long thông báo cho tôi một tin mừng là các giáo viên thân hữu của mình nghe được nhiều tin đồn ở quận cũng như tỉnh, dân chúng xì xào “cây đắng sinh trái ngọt”. Tôi yên tâm lấy lại niềm hy vọng và can đảm tiếp tục cuộc hành trình như đã định.
Những điều kiện bất lợi cho tôi dần dần trở thành thuận lợi. Nhờ sự tích cực hoạt động của anh Long, cử tri bàn tán nhiều hơn về Võ Long Triều từ việc nói xấu đổi thành lời khen. Dân chúng càng bàn tán thì đây chính là một sự quảng cáo công khai rất có lợi. Trong khoảng thời gian tôi được chính thức nghĩ phép để chuẩn bị tranh cử thì có một ông cậu bà con bên mẹ tôi lên Saigon thăm. Nghề của ông là lái đò máy chạy trên sông Mêkong đưa khách từ Mỹ Tho về Phú Thuận. Một hôm có người lạ mặt gặp ông và yêu cầu ông thông báo với Võ Long Triều: “Nếu ông ấy bằng lòng hợp tác với Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam thì đương nhiên ông ta sẽ đắc cử. Tôi ưng thuận hay không bằng lòng thì cũng phải trả lời. Sẽ có người khác liên lạc với cậu để lấy tin. Tôi gạt ngang ngay, nhưng khuyên ông cậu tôi rằng: Nếu có gặp họ thì trả lời chưa gặp được tôi vì tôi bận quá nhiều việc, tiếp nhiều khách và nay đi đây, mai đi đó nên ông khó gặp được tôi. Mãi cho đến ngày bỏ phiếu ông cũng không trả lời cho người lạ mặt được là tôi có bằng lòng hay không.
Công cuộc chuẩn bị tưởng chừng như chu đáo bởi vì mấy tháng tôi ngồi không chỉ nghiền ngẫm cách thức tổ chức và kế hoạch tranh cử phải như thế nào mới hy vọng thắng.
Nhưng chuyện bất ngờ xảy ra ba ngày trước khi cuộc vận động chính thức theo luật định. Một buổi chiều tôi đang lái xe từ tòa án về nhà anh Huệ bỗng thấy ba chiếc trực thăng ầm ầm hạ cánh trên sân tòa tỉnh trưởng gần bên đó. Tự nhiên linh tính báo tôi biết có chuyện không lành. Tôi quay sang nói với Phạm Văn Huệ:
- Chắc ông Thiệu xuống ra lệnh cho tỉnh trưởng chặn đường tôi vào Quốc Hội đây.
- Làm gì đến nỗi như vậy? Anh đừng quên rằng tôi là Chánh Án Chủ Tịch Ủy Ban Bầu Cử tỉnh sao?
- Nếu họ gian lận tráo đổi thùng phiếu, anh làm gì được họ? Và nếu anh có bắt được làm biên bản báo cáo rồi cũng huề.
- Trời ơi! Bộ anh giỡn mặt sao? Tôi bỏ tù tay nào gian lận rồi sẽ ra sao thì ra. Anh quên rằng Huỳnh Trung Chánh bạn tôi, chánh án Rạch Giá bỏ tù viên trưởng ty cảnh sát rồi à? Anh quên rằng tôi đã ra lệnh cho cảnh sát xét nhà Trung Tá Trần Thanh Nhiên cựu tỉnh trưởng Bến Tre rồi sao?
Chúng tôi về nhà bàn tán qua lại nhưng lòng tôi không khỏi xốn xang nghĩ ngợi cách nào đối phó với sự gian lận mà tôi nghi là sẽ xảy ra. Ðộ vài giờ sau, tùy viên của tỉnh trưởng lái xe Jeep vào sân tư dinh chánh án mời anh Huệ vào dinh tỉnh trưởng có việc khẩn cấp. Lúc đó là đã hơn 4 giờ chiều. Anh Huệ hối hả lái xe vào dinh. Tôi hồi hộp ngồi chờ. Một giờ trôi qua khá nặng nề. Anh Huệ trở về mặt lộ vẻ lo âu. Vừa bước vào cửa anh đã nói vói với tôi rằng:
- Ðại Tá Phạm Chí Kim nổi sùng rồi (cựu Ðại Tá Kim hiện định cư tại Atlanta, Georgia).
- Có phải về vấn đề Tổng Thống Thiệu mới vừa xuống tỉnh gặp ông ta như tôi tiên đoán không?
- Anh đoán không sai. Ðại Tá Kim đá ghế, dằn ly nói với tôi là ông ta ăn cơm chúa nên phải múa theo lệnh, sau nay muốn ra sao thì ra, rồi ông ta thông báo cho tôi biết là chỉ thị của Tổng Thống Thiệu: “Ai đắc cử cũng được, ngoại trừ Võ Long Triều”.
Nghe qua tôi trầm ngâm suy nghĩ, đi tới đi lui trước sân nhà Chánh Án Huệ một hồi lâu. Cuối cùng tôi quyết định viết một thơ ngắn, gởi hỏa tốc cho ông tỉnh trưởng đại ý nói rằng: Tôi ứng cử không phải vì muốn tìm danh vọng trong bằng cớ là tôi đã từ chức tổng trưởng để phản đối chế độ cảnh sát trị, sau đó phải thi hành nghĩa vụ quân dịch. Ngày nay tôi ứng cử dân biểu vì muốn tìm phương thế để tranh đấu cho dân chủ và tự do được bảo tồn tại miền Nam trong công cuộc chống Cộng Sản Bắc Việt, điều mà chính ông Kim đang xả thân và đổ máu để bảo vệ. Và chắc chắn đã có nhiều chiến hữu thân thương gần gũi đã chết trên tay Ðại Tá Kim vì chính nghĩa đó. Vậy thì ngày nay nếu đại tá chủ trương vào hùa với Tổng Thống Thiệu làm những điều mờ ám trong cuộc bầu cử này thì chính ông đã phản bội lại xương máu của chính mình và những đồng đội thân yêu đã ngã xuống để bảo vệ quê hương.
Tôi cho người đem thơ hỏa tốc đến tận dinh tỉnh trưởng lúc 9 giờ tối, bản sao kính gởi Chánh Án Phạm Văn Huệ để kính tường. Tỉnh Trưởng Kim lại cho xe mời ông Chánh Án Huệ vào dinh lần thứ hai. Mãi đến thật khuya anh Huệ mới về nhà. Tôi chờ đợi anh xót cả ruột gan. Thì ra sau khi hai quan chức cao cấp của chính quyền tỉnh giãi bày tâm sự họ còn trà nước bàn việc đại sự.
No comments:
Post a Comment