Monday, April 1, 2013

HỒI KÝ VÕ LONG TRIỀU - PHẦN 1 - CHƯƠNG 21 - CHƯƠNG 30


Hồi ức về chương trình Phát Triển Quận 8 (2)
Quay sang tôi, ông nói:
- Ðấy anh chứng kiến, chung quanh tôi là những người như thế nào. Bây giờ anh có thấy anh từ chối không hợp tác với tôi là một sự sai lầm lớn lao không? Nếu anh có lòng với đất nước, với dân tộc, thì một lần nữa tôi yêu cầu anh nhập cuộc. Chúng ta hiệp sức hoàn thành một cuộc cách mạng và chiến thắng cộng sản. Trước mắt chúng ta có tới hai nhiệm vụ. Một là xây dựng đất nước, hai là chiến thắng cộng sản.
Ông nói một cách hăng say, thao thao bất tuyệt. Còn tôi thừ người ra, bối rối suy nghĩ về những gì tôi mới chứng kiến, đến nỗi tôi không chú ý những gì ông Kỳ đang và tiếp tục nói, mà ông tin rằng tôi đang nghe. Hình như tôi bắt đầu có cảm tình với vị Tướng trẻ tuổi nầy, người mà trước đây tôi xem thường. Tôi đang nghĩ về trách nhiệm của mình đối với số đồng bào ở Quận 8, những người dân cũng mới bắt đầu tin tưởng và hy vọng chúng tôi tiếp tay với họ để cải thiện xã hội. Tôi cũng nghĩ trách nhiệm của tôi đối với bốn ông bạn, “Tứ Ðại Gan Lì” của tôi đã kiên trì chấp nhận sự thử thách vì muốn cuộc thử nghiệm nầy phải thành công. Những suy nghĩ của tôi về tổ chức xã hội, về công tác lôi cuốn thanh niên và đồng bào vào một phong trào to lớn để xây dựng quê hương và chống xăm lăng Bắc Việt thôi thúc tôi phải nhập cuộc. Hình như không nói ra mà tôi có cảm giác mình đã chấp nhận tham gia rồi, mình đã muốn hợp tác với ông Tướng nầy rồi. Một cảm giác lạ lùng, gần như thân thiện bất ngờ. Tôi hoàn hồn, không biết ông Kỳ đã nói gì thêm, tôi phát biểu ngắn gọn:

- Tôi sẽ về suy nghĩ về những đề nghị của Thiếu Tướng để xem tôi có nên tham gia hợp tác với ông không?
- Tôi chờ anh. Chương trình quận 8 cho đến bây giờ đã có sức hấp dẫn đối với quần chúng. Nếu anh bỏ dở thì sẽ hoài công anh em, và uổng lắm. Nếu anh tham gia nội các thì sẽ có người bao che thúc đẩy, đưa chương trình nầy đến chỗ thành công dễ dàng hơn. Tôi sẽ cải tổ nội các nếu cần. Anh dạy kinh tế nông nghiệp phải không? Tôi đề nghị anh giữ bộ kinh tế, tôi đang cần một ông Tổng Trưởng Kinh Tế tài ba để ổn định thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoang mang.
- Một mình tôi vào nội các thì cũng không giúp được ông nhiều.
- Tôi sẵn sàng chấp nhận tất cả những người anh giới thiệu, miễn là cùng chí hướng với chúng ta, và không phải là thứ ăn hại đái nát.
Ra khỏi dinh Thủ Tướng, hình như tôi đã quyết định tham gia nội các rồi. Ðiều mà trước nay tôi từ chối vì nghĩ không thể hợp tác được với nhóm quân phiệt và vì, theo suy nghĩ của tôi, một số không ít quân nhân hiện đang lãnh đạo đất nước không biết nhiều về tổ chức quốc gia, xã hội, kinh tế, chính trị. Họ chỉ là những thanh niên gan lì cầm súng dẹp giặc và may mắn còn giữ được mạng sống để lên Tướng rồi đảo chánh, chỉnh lý, cầm quyền trong thời loạn ly, quốc gia mất kỷ cương. Vả lại lịch sử thế giới chứng minh đa số các quốc gia do quân nhân cai trị đều mất dân chủ, vi phạm nhân quyền.
Nhưng đứng trước thiện chí và sự thành tâm của ông Kỳ, người có lòng yêu nước, hăng say muốn làm một cái gì tốt cho quê hương dân tộc, rất dễ bị ông Tướng trẻ nầy cảm hóa và lôi cuốn. Có lẽ vì trong thời điểm đó ông và tôi nuôi cùng một lý tưởng và có cùng một mục đích. Tuy lòng đã siêu nhưng tôi muốn để cho mọi việc lắng dịu, suy nghĩ thật chín mùi, nên chưa trả lời dứt khoát.
Trong khi chờ đợi, nhân dịp Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey viếng thăm Việt Nam, Thiếu Tướng Kỳ cho biết ông Humphrey muốn viếng một nơi nào có thể chứng minh viện trợ của Hoa Kỳ đem lại kết quả tốt cho Việt Nam. Nhưng chính phủ Việt Nam không có chỗ nào khác hơn là quận 8 để trình diễn cho vị khách quí nầy ghi nhận thành quả, ngõ hầu về Mỹ phô trương với báo chí. Vì vậy trước đó một ngày, tôi đang dạy học tại trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc, bỗng nhiên cô thư ký vào thông báo: “có Thủ Tướng điện thoại yêu cầu giáo sư ra văn phòng trả lời”. Tôi nhờ cô thơ ký nhắn với Thủ Tướng là tôi sẽ gọi lại ông một giờ sau khi lớp học chấm dứt. Vài phút sau anh Lê Văn Ký Giám, Khoa Trưởng hớt hải chạy vào lớp vừa nắm tay tôi kéo vừa nói: “Anh làm ơn ra trả lời téléphone giùm tôi, Thiếu Tướng Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương nói nếu tôi không để cho anh trả lời thì ông ấy sẽ đóng cửa trường ngay hôm nay bởi vì chuyện nầy gắp lắm. Anh Ký phân trần với tôi: “Có ai dám cấm cản anh đâu mà ông ta hiểu lầm như vậy khổ chúng tôi lắm”. Tôi cười xòa trấn an anh Ký: “Không có gì đâu, để tôi đính chính rõ ràng cho anh”.
Sự kiện nhỏ nhặt nầy chứng minh cái tính bốc đồng và cái tật phát ngôn bừa bãi của Tướng Kỳ nên báo chí tặng cho ông biệt danh là “Tướng cao bồi”. Tôi theo anh Giám đốc Lê Văn Ký đến văn phòng của anh để trả lời điện thoại. Bên kia đầu dây:
- Triều đó hả?
- Triều đây, Thiếu Tướng cần gì tôi?
- Mời anh lên phủ gặp tôi ngay, có chuyện gấp.
- Tôi sẽ lên ngay.
Vài phút sau tôi đã vào văn phòng Thủ Tướng vì trường Cao Ðẳng Nông Lâm Súc ở góc đường Cường Ðể cạnh số 2 đường Thống Nhứt là dinh Thủ Tướng. Vừa thấy tôi Tướng Kỳ niềm nở:
- Phó Tổng Thống Hubert Humphrey muốn đi thăm một nơi nào chứng minh được viện trợ Mỹ có kết quả tốt. Moa nghĩ không còn đâu hơn quận 8 của tụi toa. Ðó là kết quả của sự tham gia quần chúng xây dựng lại quê hương. Toa phải mau mau gọi anh em của toa tổ chức tiếp rước đàng hoàng.
- Chừng nào ông Phó Tổng Thống Mỹ xuống viếng quận?
- Ngày mai.
- Tại sao ông không cho tôi biết trước? Bây giờ làm sao chuẩn bị cho kịp?
- Có gì đâu, thì mình cứ hướng dẫn ông ta đi viếng một vòng, xem một vài nơi, có người giải thích và cho ông ta gặp một hai người dân là xong.
- Không thể như vậy được. Ðể tôi tính.
- Về phần Thiếu Tướng, tôi yêu cầu ông ra lệnh cho quân đội dựng một căn lều lớn nhứt. Sáng sớm ngày mai phải có. Ðịa điểm do quận trưởng chỉ định.
- Bảo đảm sẽ có ngay.
- Vậy xin chào Thiếu Tướng, tôi về để chuẩn bị. Ngày mai anh em của chương trình sẽ tiếp phái đoàn lúc 10 giờ sáng tại khu đông dân cư, nghèo khổ. Vấn đề an ninh thì cảnh sát công an của Thiếu Tướng chịu trách nhiệm. Nói xong tôi từ giã Tướng Kỳ, về sở ngay. Một mặt tôi thông báo cho Nhuận và Mạnh gom góp tài liệu cùng với Minh và Liêm đến sở Thống Kê Kinh Tế Nông Nghiệp của tôi hội bàn. Mặt khác tôi gọi ông Như, họa sĩ của sở vào văn phòng. Tôi ra lệnh:
- Ông Như, tôi cho phép ông về nhà bây giơ, nghỉ cho đến 4 giờ chiều sẽ trở lại sở, chiều hôm nay ông sẽ về nhà rất trễ, có thể đến khuya, Vậy ông nên thông báo cho người nhà biết. Ngày mai tôi sẽ cho ông nghĩ phép một ngày để bù trừ.
Sau khi bàn thảo, chúng tôi quyết định phải chọn những vụ việc nào để trình bày, phải tóm gọn những ý kiến gì, và nhứt là phải chứng minh bằng những số thống kê, có đồ biểu phân minh, do họa viên Như của sở phải thức khuya vẽ cho xong, theo đúng cung cách của một cuộc thuyết trình khoa học. Anh Ðoàn Thanh Liêm, người nói được lưu loát Anh ngữ lãnh trách nhiệm thuyết trình. Tôi đề nghị chỉ đặt có hai ghế ngồi, một cho Phó Tổng Thống Humphrey và một cho Thủ Tướng Việt Nam mà thôi. Ngoài ra Ðại Sứ Mỹ cũng như toàn thể khách quí đều đứng hết. Một bàn duy nhứt đặt những trái dừa xiêm vạt đít sẵn nhưng chưa khui, có người đứng tiếp để khui liền nếu vị khách nào muốn giải lao. Sáng hôm sau, Phó tổng thống Humphrey đến thăm dưới sự hướng dẫn của ông Kỳ và phái đoàn chính phủ.
Sau khi anh Liêm giới thiệu người trong ban quản lý, mặt mũi anh nào anh nấy còn non choẹt, ông Humphrey đi từ ngạc nhiên nầy đến ngạc nhiên khác, kể cả việc cầm nguyên trái dừa dùng ống hút nút nước giải lao, miệng cười niềm nở. Cuộc viếng thăm kết thúc sau khi đi xem một vài đường hẻm và nhà tôn mới lợp. Trước khi rời Việt Nam, tại sân bay Tân Sơn Nhứt, Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humphrey tuyên bố với báo chí là những gì ông chứng kiến và hiểu được ở quận 8 Saigon là “Cốt lõi của một cuộc cách mạng” (nguyên văn: “C'est l'essence même d'une révolution” (Journal d' Extrême Orient Saigon). Báo chí trong và ngoài nước khởi sự loan tin và nói tốt về một chương tình phát triển cộng đồng do giới trẻ Việt Namthực hiện.
Tham gia nội các
Hai ngày sau cuộc viếng thăm của Phó Tổng Thống Mỹ, Tướng Kỳ điện thoại mời tôi đến gặp ông. Vừa thấy mặt là ông nói ngay:
- Thế nào, toa đã suy nghĩ chín chắn chưa. Còn suy nghĩ cái mẹ gì nữa? Những ông trí thức của tụi toa thường hay nói: “quốc gia hưng vong thất phu hữu trách” kia mà, chẳng lẽ toa vô trách nhiệm sao? Chẳng lẽ toa không muốn bảo vệ cho sự thành công của chương trình phát triển cộng đồng của toa sao?
- Cái đó còn tùy, nhận trách nhiệm để làm cái gì và với những ai? Chắc toa cũng đoán được moa đã nghĩ gì rồi. Thôi thì moa nhận tham gia nhập cuộc.
Sở dĩ tôi bắt đầu gọi ông Thủ Tướng bằng toa là vì ngạc nhiên thấy ông tự nhiên xưng “toa moa” với tôi. Thông thường đối với người Pháp “tutoyer” (gọi nhau toa moa) là tỏ ý muốn thân thiện. Ðối với phái nữ mình khởi sự “tutoyer” là một cách xin phép làm thân, nếu người ta không vừa ý thì trả lời ngay bằng cách gọi “ông, bà hay cô” trở lại, mình phải hiểu ngay rằng cửa đó đã đóng, hay ít ra là chưa mở liền. Bắt đầu từ đó ông Kỳ và tôi “à toi à moi” (xưng toa toa, moa moa) với nhau một cách thân thiện. Lần đầu tiên tôi bàn chuyện quốc gia với ông, tôi hỏi:
- Vấn đề gì làm toa đau đầu nhứt trong mấy tháng qua?
- Kinh tế. Tôn giáo, nói thẳng ra là Phật Giáo. Mấy ông thầy không chịu ngồi yên tu mà cứ yêu sách mãi. Toàn những yêu sách độc không hè.
- Vậy toa giải quyết như thế nào?
- Thì dang đầu dang cổ ra mà năn nỉ. Tìm cách kéo dài thời gian. Chả còn phải biết tính sao, chả còn làm ăn cái gì được hết. Bên ngoài người ta đồn đãi chính phủ sẽ đổ trong vài tháng nữa. Toa có dám nhào vô không?
- Ðối với tôi, nhào vô hay không, đâu phải đổ hay còn. Người lính đi đánh giặc đâu có nói trận nầy có thể thua, vậy mình đánh hay không đánh? Sự thật Phật Giáo đòi hỏi gì? Anh có biết rõ và đoán chắc được không?
- Mấy ổng muốn ban hành qui chế tôn giáo theo ý mấy ổng, và áp lực đòi chia ghế trong nội các nhiều hơn, thanh trừng cần lao và chế độ cũ.
- Moa nghĩ vấn đề tôn giáo chỉ là cái cớ bề ngoài thôi, sự thật là vấn đề chính trị, đó là chưa kể moa còn nghĩ có thế lực bên ngoài đốc xúi nữa là khác. Toa nói kinh tế làm toa đau đầu mà chính xác là vấn đề gì làm cho toa đau đầu chứ?
- Thú thật, tớ đâu có biết gì về kinh tế. Thị trường giá cả lên xuống, hàng hóa khan hiếm bất thường, giải quyết như thế nào? Moa có biết đâu. Mọi chuyện moa giao cho ông Tổng Ủy Viên Kinh Tế lo. Mà hình như ông ta lo không xong. Ngày nào báo chí cũng kêu ầm lên: Ðầu cơ tích trữ, vật giá leo thang. Moa đề nghị toa lãnh bộ kinh tế cho moa đi.
- Nhìn tổng quát mà nói, moa thấy có hai cách: trong thời buổi chiến tranh, một là áp đặt chế độ phân phối và tiếp tế, hai là chính phủ phải trực tiếp can thiệp vào thị trường, bằng nhiều cách, chớ không thể để cho tự do mua bán như thời bình được. Chỉ cần gian thương tích trữ để nâng giá, hay kẻ thù gieo một tin đồn thất thiệt, là đủ để làm xáo trộn thị trường. Nhưng moa sẽ không bao giờ nhận ghế Tổng Ủy Viên Kinh Tế. Bởi vì moa mới bước chân vào chính trường mà ngồi trên cái ghế có vàng, dù moa không lấy, người ta cũng đồn là đít của moa có dính vàng.
- Vậy toa muốn nhận bộ nào?
- Thì bộ Thanh Niên như ngày đầu toa đề nghị với moa. Toa muốn thay người ở Bộ Kinh Tế thôi hay còn bộ nào toa muốn thay nữa?
- Thay tất, nếu cần, trừ Bộ Quốc Phòng. Moa đã nói với toa rồi, mình phải tìm một “équipe” (đội ngũ) đồng ý chí, dám hy sinh.
- Toa cho moa vài ngày để thăm hỏi bạn bè.
Trong thời gian đó Tướng kỳ và tôi liên lạc thường xuyên qua điện thoại. Tôi tìm bạn tâm giao, rủ rê tham gia nội các, đa số từ chối, K.S. Lâm Ngọc Diệp, Phó Tổng Giám Ðốc Air Việt Nam, không muốn làm chính trị vì bà vợ không đồng ý. K.S. Nguyễn Văn Ðạt, Giám Ðốc Nha Thủy Vận, nói thẳng là không dám. K.S. Lưu Văn Lê, Giám Ðốc Nha Hợp Tác Xã không biết làm chính trị, không biết chỉ huy. B.S. Ðỗ Cao Huệ, Chánh Sở Mục Súc không dám. K.S. Nguyễn Văn An Phó Giám Ðốc Nông Vụ cũng chê. Những người nói không dám, tình thật hình như họ không tin là nội các có thể tồn tại hơn vài tháng chiếu theo những gì đã xẩy ra. Trần Ngọc Oành cựu Tổng Trưởng Công Chánh có ý muốn nhập cuộc một lần nữa, nhưng tôi quen biết Oành từ lâu, ngày từ khi ở Paris, nên tôi hiểu anh thích chức vụ hơn là tận tụy hy sinh nên tôi không giới thiệu, T.S. Nguyễn Văn Hảo, Tổng Giám Ðốc Nông Tín Cuộc và Hợp Tác Xã, là người chỉ ưa thích trình diễn. Cuối cùng tôi đề nghị với Tướng Kỳ hai người. Ðó là Trương Văn Thuấn giữ bộ Giao Thông, một sai lầm của tôi như đã nói qua ở đoạn trên. Âu Trường Thanh giữ bộ Kinh Tế, còn tôi giữ bộ Thanh Niên. Ðồng thời tôi cũng góp ý: nên thành lập một Tổng Cục Tiếp Tế để nếu cần mình sẽ can thiệp vào thị trường bằng cách nhập cảng, dự trữ, tung hàng ra, hoặc thu mua để can thiệp trực tiếp vào thị trường. Trung Tá không quân Trần Ðỗ Cung, người của ông Kỳ, phụ trách Tổng Cục nầy. Sáng hôm sau ông Kỳ mời tôi lên phủ Thủ Tướng có chuyện gấp. Tôi phân vân tự hỏi chuyện gì đây? Chắc là có trở ngại chăng. Ðúng như tôi dự đoán. Vừa bắt tay ngồi vào ghế, Tướng Kỳ đẩy về phía tôi một chồng hồ sơ dầy cộm bọc trong bìa cứng màu xanh lợt, bề dầy độ hơn một tấc tây và nói:
- Âu Trường Thanh là cộng sản mà toa giới thiệu nó vào nội các chiến tranh của mình? Hồ sơ đây, xem đi rồi nói chuyện tiếp.
- Moa chơi với Âu Trường Thanh khá lâu, sinh hoạt với nhau thường, moa có thể biết được tư tưởng của anh ta. Dĩ nhiên moa không thể đoan chắc 100% bởi vì “Sông sâu còn có kẻ dò, lòng người nham hiểm ai đo cho cùng”. Ðành rằng khi du học bên Tây anh Thanh có vẻ học đòi thiên tả theo “mốt” của sinh viên Pháp thời đó, tham dự trại hè hòa bình kiểu như bà L.S. Nguyễn Thị Vui, thích nói chuyện về học thuyết bất bạo động của Mahatma Gandhi, nhưng moa không nghĩ anh ta là cộng sản. Moa không cần đọc tập hồ sơ nầy. Xin toa nghe moa nói hết ý kiến của moa rồi toa tự ý quyết định. Moa không ép và cũng không đặt điều kiện bởi vì Âu Trường Thanh cũng không phải phe nhóm gì với moa cả. Hiện tại mình cần một người có khả năng điều khiển bộ kinh tế và ổn định cho bằng được thị trường đang xáo trộn làm dân chúng hoan mang phải không? Nếu như vậy thì cho dù Âu Trường thanh là một đảng viên cộng sản, bây giờ mình giả sử như nó là Hồ Chí Minh đích danh đi để cho dễ nói chuyện. Trong giai đoạn nầy, trong điều kiện hiện tại mà Hồ Chí Minh giúp mình ổn định được tình hình kinh tế cho dân mình nhờ, cho nội các đứng vững thì cám ơn. Nếu nó ló cái đuôi cộng sản thì mình còng đầu tức khắc. Mình nắm cán mà sợ gì? Tùy toa quyết định. Nếu đứng chỗ của toa thì moa sẽ mời nó hợp tác. Nhưng xin lập lại một lần nữa, hoàn toàn do chính toa quyết định nhé. Moa không thuyết phục toa nhận hay không nhận nó đấy.
Ông Kỳ lộ vẽ suy nghĩ, ngồi im, chấp mấy ngón tay trước ngực, dựa lưng vào ghế, bật tới bật lui độ hơn 30 giây ông nói:
- Mời Âu Trường Thanh lên đây đi.
Tôi bước tới cạnh bàn của ông lấy điện thoại gọi Âu Trường Thanh:
- Thanh đấy hả? Thiếu Tướng Chủ Tịch mời toa lên dinh ở số 2 đường Thống Nhứt ngay bây giờ.
Bên kia đầu dây tiếng anh Thanh nói:
- Toa đừng có cà rỡn. Ai thèm mời moa mà gọi. Moa không tin chuyện “phong thần” của toa đâu, chừng nào có xe của ông Thiếu Tướng xuống rước thì moa mới tin.
Tôi hơi bực mình, nhưng suy đi nghĩ lại, muốn cho được việc thì chuyện nầy là chuyện nhỏ.
Bỏ điện thoại xuống tôi nói với Tướng Kỳ:
- Thanh nó không tin, nó nói phải có xe của toa xuống Sicovina rước, nó mới tin.
Tướng kỳ nổi nóng ngay:
- Ð.M..., bộ hắn là bố của moa sao mà đòi phải có xe của Thủ Tướng rước?
- Toa nề hà chi chuyện đó mà nổi giận. Ðồng ý là phi lý và vô lễ, Nhưng toa có nhớ ngày xưa Lưu Bị mời Khổng Minh như thế nào không? Thằng Thanh chưa phải là Khổng Minh nhưng mình chỉ cần nó ngồi đó dẹp yên trận giặc kinh tế cho mình có thì giờ và cơ hội làm việc lớn được.
- Không biết tướng Kỳ nghe thuận tai hay vì nể mặt tôi mà ông nhận chuông. Thiếu Tá Liệu chạy vào.
- Liệu, anh xuống Sicovina rước ông Âu Trường Thanh lên đây tức khắc.
(Còn tiếp)
Hồi ký Võ Long Triều (22)
Friday, December 22, 2006


Chưa đầy 20 phút sau có tiếng gõ cửa, Thiếu tá Liệu đưa Âu Trường Thanh vào. Anh ta vừa khúm núm, vừa ngỡ ngàng, vừa mắc cỡ, tay mặt nắm cổ áo, tay trái chỉ đôi dép cao su, miệng xin lỗi tía lia.
-Xin lỗi Thiếu Tướng tôi có xin ông Thiếu tá cho phép tôi về nhà thay đồ nhưng ông không cho vì lệnh buộc phải đi tức khắc nên tôi không có cà vạt, không mang giày cho đủ lễ. Tôi bật cười, Tướng Kỳ tỉnh queo mời Âu Trường Thanh qua phòng khách ngồi nói chuyện cho thoải mái. Trà nước vừa đặt xuống bàn xong, Tướng Kỳ vào đề ngay:
- Anh Triều có giới thiệu với tôi anh đã từng làm Tổng Trưởng Kinh Tế trong nội các Nguyễn Ngọc Thơ rồi phải không?
- Dạ đúng.
- Anh nghĩ lần nầy anh có khả năng ổn định thị trường kinh tế đang làm dân chúng hoang mang không?
- Dạ có thể được với điều kiện.
- Ðiều kiện gì?
- Thứ nhứt Thiếu Tướng phải tin tôi và không nghe bất cứ ai cố vấn, nửa chừng buộc tôi phải sửa đổi biện pháp.
- Ðồng ý.
- Thứ hai, có thể có những sắc lệnh tôi trình ký liên quan đến việc ổn định thị trường xin Thiếu Tướng đừng nghe người khác mà từ chối.
- Ðược.
- Thứ ba... Thứ tư... thứ năm... vân vân... và vân vân... Âu Trường Thanh tiếp tục đặt một hơi đúng 13 điều kiện. Mỗi lần có điều kiện gì thuộc lãnh vực chuyên môn ông Kỳ lộ mắt nhìn tôi có vẻ muốn hỏi ý kiến, tôi khẽ gật đầu, ông Kỳ trả lời chấp nhận. Âu Trường Thanh tới Phủ Thủ Tướng lúc 11 giờ 20, anh đặt điều kiện và giải thích rành mạch xong xuôi, tôi nhìn đồng hồ đúng 1 giờ trưa. Thiếu Tướng Kỳ hỏi:
- Hết điều kiện chưa?
- Dạ hết.
- Bây giờ đến lượt tôi đặt điều kiện: Anh phải giải quyết vấn đề kinh tế một cách ổn thỏa, đem lại sự hài lòng và niềm tin cho dân chúng. Tôi đã chấp nhận tất cả những yêu cầu của anh mà nếu anh không thành công, trái lại gây thêm tai tiếng cho chính phủ thì chừng đó tôi sẽ hỏi tội anh, có chấp nhận không?
- Dạ chấp nhận.
Xong cuộc tiếp xúc, Tướng Kỳ mời tôi ở lại dùng cơm để bàn việc tiếp. Tướng Kỳ là người Bắc mà thích ăn mắm thái Châu Ðốc. Tôi thường dùng những bữa cơm rất giản dị với ông tại phủ Thủ Tướng, gần như bữa nào cũng có mắm thái Châu Ðốc, hợp khẩu vị với tôi.
Nội các chiến tranh của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, cải tổ lần thứ nhứt và trình diện ngày 21 tháng 2 năm 1966. Cái khó đầu tiên của tôi là tìm một ông Tổng Giám Ðốc Thanh Niên có uy tín đối với các bạn trẻ, có lý tưởng và năng nổ hăng say. Ðỗ Ngọc Yến và Hồ Ngọc Nhuận giới thiệu với tôi anh Ðỗ Quí Toàn. Tôi hết lời nài nỉ, thuyết phục nhưng anh Toàn không nhận. Tôi đành phải ép buộc Hồ Ngọc Nhuận giao chức quận trưởng lại cho anh Mai Như Mạnh và anh về lãnh vai trò Tổng Giám Ðốc Thanh Niên. Văn phòng Tổng Trưởng của tôi có hai anh bạn trẻ là Ðỗ Ngọc Yến và Trần Văn Ngô đóng vai Công Cán Ủy Viên. Ngồi vào ghế Ủy Viên tôi liền ra lệnh giải ngân tiếp cho hết 22 triệu dành cho chương trình phát triển quận 8. Từ đó anh em có điều kiện tối thiểu để kết nạp thêm nhiều bạn trẻ tình nguyện tham gia.
Một vài em đang bỏ học chơi bời lêu lổng, nay vì ham vui nhập cuộc mà thay đổi tính tình và nếp sống. Cha mẹ các em đến cám ơn những người phụ trách chương trình. Anh em chúng tôi tạo cho các bạn trẻ một nếp sống có kỷ luật, hòa nhã tử tế với bà con trong quận. Tiếng tốt đồn xa, nhiều bạn trẻ khác lần hồi gia nhập. Một hành động mà anh em xem như bình thường là mỗi sáng chào quốc kỳ rồi mới tản hàng làm việc, đối với tôi nó có ý nghĩa đặc biệt, đó là sự trung thành với quốc gia, sự bày tỏ lập trường, sự xác định chính nghĩa. Thói quen này không phải tôi bày ra mà không biết vị nào trong “Tứ Ðại Gan Lì” Minh, Nhuận, Liêm, Mạnh đề ra thật đáng khen đáng kính. Ðầu óc tôi lúc nào cũng chủ tâm lôi cuốn giới trẻ, gây cho họ có ý thức trách nhiệm, tham gia xây dựng xã hội tốt đẹp hơn làm mất đi cái môi trường thuận lợi để cộng sản có thể tuyên truyền mị dân là họ sẽ san bằng cái hố nghèo giàu, chống bất công xã hội. Các ông bạn của tôi thường tổ chức những buổi họp với đồng bào trong khu phố, vào buổi chiều khi họ rỗi việc để bàn thảo với nhau mọi vấn đề liên quan đến cộng đồng dân cư trong khu phố. Có những buổi tối mà tôi không bị ràng buộc bởi hội hè hay tiếp tân thì tôi cũng tham dự rất nhiều lần để góp ý. Vì vậy mà mọi việc đều có thể giải quyết một cách ổn thỏa với sự đồng ý và tham gia của tất cả. Những người vắng mặt thì nhờ sự giải thích của bà con láng giềng hiện diện trong những phiên hợp đó.
Vấn đề quan trọng nhứt là làm sao thuyết phục được quần chúng chấp nhận hợp tác tham gia, làm sao lôi cuốn được họ vào những công tác, dù nhỏ dù lớn, trong phường khóm, mà chúng tôi thường gọi là “phát triển cộng đồng”. Chỉ có cách hòa mình với họ để lấy cảm tình rồi tạo niềm tin. Một khi dân chúng chấp nhận mình là người của họ thì việc gì họ cũng có thể giúp mình thực hiện đến nơi đến chốn, và khó khăn gì họ cũng có thể hy sinh chấp nhận. Hai công tác khó khăn nhứt, mới nhìn vào hình như không có phương cách giải quyết nổi là chỉnh trang nhà cửa, dù là ổ chuột, nhưng không ai muốn rời khỏi chỗ ở của mình, biết đâu sẽ còn trở lại được không? Diện tích lớn nhỏ như thế nào làm sao thuyết phục để cho mọi người chấp nhận, rời bỏ nhà mình ra che chòi tạm trú chờ xây lại phố xá dù nhỏ nhưng khang trang, đường đi không còn lầy lội.
Công tác gay go thứ hai là làm sao cổ động mọi người tham gia kẻ xe, người gánh, tay bưng, tay xách đất do xáng thổi từ sông lên để san bằng những ao vũng làm thành nền nhà. Tất cả mọi thứ công tác, mọi sự suy bì ngờ vực đều được giải quyết bằng sự cảm thông, bằng sự đồng thuận trong các phiên họp, bằng sự hy sinh quyền lợi nhỏ nhoi, suy bì phi lý, tóm lại tình thương và sự tin tưởng lẫn nhau có thể san bằng mọi thứ quyền lợi.
Chúng tôi khởi sự bằng những công tác đơn giản, nho nhỏ, là đẩy xe 3 bánh hốt “xà bần”, đất cát, đem về lấp những đường hẻm lầy lội. Vấn đề tiên quyết để thành công là phải tạo cho bằng được cảm tình của đồng bào. Rồi sau đó mới có thể lôi cuốn họ tham gia cải biến cuộc sống cá nhân. Về sau khi chúng tôi đặt được cơ bản khá vững chắc rồi thì đề nghị lập trường trung học cộng đồng quận 8. Việc thành lập và và bổ nhiệm giáo sư, nếu người không phải là trong cuộc thì tưởng chừng như rất khó, nhưng sự thật rất dễ dàng bởi lẽ vị Tổng Trưởng Quốc Gia Giáo Dục là bạn thân, anh Nguyễn Văn Trường do chính tôi nài nỉ và giới thiệu cùng tham gia nội các với tôi. Ngoài ra việc can thiệp với Bộ Quốc Phòng cho những quân nhân được biệt phái cũng là việc khó, nhưng tôi phải thú nhận là lúc nào tôi cũng nhờ có sự thông cảm và giúp đỡ tận tình của Tướng Kỳ nên tôi vượt được mọi khó khăn. Chương trình quận 8 thành công, lan rộng sang quận 6 và quận 7 chưa được hoàn tất. Dù sao tinh thần và phương cách đã được khởi xướng, biết đâu nó là một sự gợi ý cho thế hệ đàn em đàn cháu sau nầy sẽ thực hiện tốt đẹp hơn.
Một kỷ niệm khôi hài, xảy ra rất bất ngờ đối với tôi là có một ngày tôi tham gia công tác đẩy xe hốt xà bần, lấp sình lầy trong hẻm, có xảy ra chuyện gì làm tôi bất bình văng tục, đã vậy còn cười đùa rộn rã. Cũng trong chuyến công tác đó có một đoàn hướng đạo Phật Tử do Thượng Tọa Thích Pháp Siêu lãnh đạo. Lời văng tục và sự đùa giỡn của tôi làm chướng tai vị tu sĩ này nên ngài bèn hỏi anh Châu, trưởng toán hướng đạo Phật Tử: “Thằng nào mà lớn lối dữ vậy?” Anh Châu trả lời: “Ông Tổng Trưởng Thanh Niên đấy”. Thượng Tọa Pháp Siêu rất ngạc nhiên tìm tôi nói:
- Xin lỗi ngài tôi không biết ngài là ai nên mới hỏi “thằng nào lớn lối vậy”? Tôi không ngờ một ông Tổng Trưởng như ngài mà đi hốt xà bần với anh em.
- Chính tôi phải xin lỗi Thượng Tọa mới phải vì những lời lẽ bất nhã vừa qua. Xin Thượng Tọa đừng chấp vì tuổi trẻ với nhau chúng tôi ăn nói hơi bừa bãi. Tôi thật tình rất xấu hổ, xin Thượng Tọa tha thứ.
- Nếu ngài Tổng Trưởng không chê thì tôi kính mời ngài ghé qua chùa của tôi dùng chén trà để tôi hân hạnh được tiếp kiến.
Dĩ nhiên tôi bằng lòng chấp nhận nhưng vẫn còn xấu hổ ngại ngùng. Thì ra vị tu sĩ này là trụ trì một chùa tọa lạc bên đường Trần Quốc Toản chạy ra xa cảng, hình như tên chùa là “An Lạc” tại khu An Dưỡng Ðịa. Về tới chùa thượng tọa và tôi bàn bạc về bác ái và từ bi, về tuổi trẻ về hiện tình đất nước, sau nhiều tuần trà vị Thượng Tọa có tặng cho tôi một quyển kinh Phật do ngài phiên dịch hay tự tay ngài biên soạn gì đó để làm kỷ niệm cho cuộc gặp gỡ.
Vài kỷ niệm khác trong những lần công tác ở quận quận 8 làm tôi khó quên. Dĩ nhiên ban ngày tôi phải ngồi ở văn phòng Tổng Trưởng. Chỉ có đêm tôi mới tham gia sinh hoạt, với mục đích khuyến khích bạn bè và dân chúng. Anh em công nhân ở lò heo Chánh Hưng nghe nói ông “quan trẻ” này chịu chơi lắm nên nhắn hỏi tôi có dám xuống uống rượu với họ một lần không? Hay là chê họ là thấp hèn. Ðêm đó họ đãi tôi óc heo chưng, nhậu toàn rượu đế. Chiều lòng anh em và cũng muốn chứng tỏ mình “chịu chơi” thật, nên tôi phải cạn ly với từng người để tỏ tình thân hữu, dù là ly nhỏ nhưng nhiều người cũng đủ làm cho tôi say hết biết mình là ai! Tài xế vệ sĩ đưa về, tôi chỉ nhớ mang máng hai ông kè tôi tới phòng ngủ, bà xã nói lải nhải những gì tôi cũng chẳng biết. Một đêm khác, tôi cho xáng vét sông thổi đất lấp hố làm nền nhà để chỉnh trang khu phố. Tôi cùng với anh em và đồng bào, kẻ gánh, người bưng, người khác khuân vác, còn tôi thì dùng xe “bù-ệt” (cút-kít) cộ đất. Bỗng nhiên có một thanh niên lực lưỡng đi ngang chận tôi lại vừa cười vừa nói giả bộ trách móc:
- ÐM... cảnh sát dí súng lục vào sườn biểu tôi làm, chưa chắc tôi chịu làm, còn ông biểu tôi khiêng đất chết mẹ tôi mà ngày mai tôi còn phải thức dậy 4 giờ sáng đi đạp xích lô nữa nè ông ơi.
Tôi bèn trả lời:
- Ê nhìn kỹ mặt tôi đi ông nội, đáng lẽ giờ này tôi ôm vợ ngủ ngon trong phòng lạnh, tội gì phải đi xe đất chết mẹ để làm nền xây nhà, xây phố cho ai ở đây? Cho cha tôi hay cho cái thằng khỉ đột đứng trước mặt tôi đó?
- Nói chơi mà ông thầy, đừng giận nghe, ngày mai tụi mình xe nữa nhé.
- Còn khuya. “Bỏ đi tám”.
Nói xong cả hai chúng tôi cười ha hả và tiếp tục làm cho đến 12 giờ đêm xáng ngừng thổi theo giờ của ban quản lý ấn định. Một vài sự kiện xảy ra đối với tôi còn biết bao nhiêu việc khác mà nhiều anh em trong chương trình gặp phải. Những sự kiện đó chứng tỏ lòng dân rất dễ thu phục, chỉ cần làm cho họ thấy mình thật lòng lo cho họ thì họ sẽ chết sống nghe theo mình.
(Còn tiếp)
Hồi Ký Võ Long Triều
Friday, December 29, 2006
(Kỳ 23)
Chương trình bắt đầu ghi nhận sự thành công trong nhiều lãnh vực thì bỗng nhiên có truyền đơn của việt cộng rải trong quận kêu gọi đồng bào cảnh giác đối với bọn “con buôn” của “chương trình phát triển quận 8” đang gạt đồng bào lấy đất cất nhà cho Mỹ mướn. Bằng cớ là người Mỹ tới lui thường xuyên để xem nhà xem đất. Sự thật là ký giả ngoại quốc có tới lui thăm viếng quận rất thường sau lời tuyên bố của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humprey. Những truyền đơn của việt cộng làm chúng tôi đau đầu không ít. Bởi vì cảnh sát tuần tiễu không thuộc quyền chúng tôi điều khiển. Vả lại hành động lén lúc lẻ tẻ này khó kiểm soát nhưng dễ loan truyền. Túng thế tôi đành mời ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, đến văn phòng tôi và yêu cầu ông ra lệnh cấm ký giả Mỹ tới quận 8 thường xuyên. Ông Habib phản đối kịch liệt. Thứ nhứt, tự do báo chí là điều ông bị bắt buộc phải tôn trọng. Thứ hai tiền của Quốc Hội Hoa Kỳ chi ra thì phải có báo cáo hoặc phải chứng minh bằng kết quả cụ thể. Kết quả nhỏ nhoi là quận 8 của ông mà nếu ông không cho phép Ký giả của chúng tôi đến quay phim chụp ảnh thì chúng tôi lấy gì chứng minh đây? Tôi phản bác là quí vị muốn thấy tôi thành công hay thất bại? Tôi cho ông Habib biết là dân chúng khởi sự tự hỏi chúng tôi chỉnh trang nhà cửa để cho họ ở hay cho Mỹ mướn đây? Cuối cùng ông Habib hứa sẽ tìm mọi cách để ngăn ngừa Ký giả đến quận 8 nhưng ông không thể bảo đảm ông sẽ thành công. Thực tế ông cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Mỹ hiểu được vấn đề, và kể từ đó không một người Mỹ nào đến thăm chương trình quận 8 của chúng tôi. Công tác phản tuyên truyền bắt đầu, chúng tôi giải thích với đồng bào rằng truyền đơn của việt cộng là láo khoét, chúng tôi đã cấm không cho người Mỹ léo hánh đến đây. Sự thật này đồng bào thấy rõ, đã vậy họ còn tưởng chúng tôi có uy quyền đến độ cấm được người Mỹ đến quận này, nên họ càng tin tưởng, càng hợp tác xây đựng.
Việc của tôi với tư cách Tổng Trưởng là yểm trợ, can thiệp để bao che, cung cấp đầy đủ phương tiện để anh em hoạt động. Can thiệp giữ người, xin biệt phái người từ Bộ Quốc Phòng, mượn phương tiện của Bộ Công Chánh, của USOM. Tôi ước mơ thành lập được những “Kiboutz” theo kiểu của Do Thái, từ đô thành lan rộng về các tỉnh, “tay súng tay cày” để giữ nước và dựng nước. Thú thật tôi bị ảnh hưởng rất nặng khi đọc quyển sách “Tour d'Erza” tả điều kiện Do Thái lập quốc trong bối cảnh hãi hùng bị các quốc gia Á Rập bao vây muốn tiêu diệt. Vì Vậy tôi đã chủ trương muốn gởi một số anh em của quận 8 đi Do Thái và Yougoslavie để học hỏi kinh nghiệm.
Bác sĩ Minh là sĩ quan quân y, Hồ Ngọc Nhuận là sĩ quan bộ binh và một số anh em khác đang cộng tác với chương trình, tôi phải “lộn nài bẻ ống” để xin biệt phái cho bằng được, riêng bộ thanh niên cung cấp người theo yêu cầu của chương trình. Can thiệp với bộ giáo dục để xin giáo sư, do anh em trong chương trình chọn những người quen biết có thiện chí, có lý tưởng và tinh thần, phù hợp với chúng tôi. Can thiệp với bộ giao thông công chánh và USOM để mượn xáng thổi đất lấp vũng lầy làm nền nhà. Tóm lại công tác tại chỗ là do “Tứ Ðại Gan Lì” chỉ huy điều hành, tuyển mộ thêm đồng bạn, mời rủ thêm người thiện nguyện, tổ chức phát triển rộng hơn làm cho vết dầu lan sang quận 6 rồi quận 7.
Kết quả chương trình thành công mỹ mãn. Những khu nhà ổ chuột nay trở thành nhà phố khang trang. Ðồng bào hài lòng, cộng sản “hổng chân”. Nhưng giữa thời gian đó xảy ra một sự kiện vô cùng nguy hiểm, rất may mắn và cũng rất có ý nghĩa. Chương trình có một máy kéo do cháu Phương phụ trách hằng ngày. Buổi sáng đó như thường lệ, cháu Phương ngồi vào ghế tài xế, đút chìa khóa mở máy, tay vừa cầm cây cần sang số bỗng nhiên anh ta thấy có một sợi dây kẽm cột từ cây cần sang số dẫn vô trong máy xe. Cháu Phương bước xuống dở nấp đậy máy xe xem tại sao có sợi dây kỳ lạ này. Thì ra dây kẽm cột vào nút chốt của một trái lựu đạn do cộng sản gài trong đêm. Mọi người tá hỏa, lo lắng có, sợ hãi có, mừng rỡ có. Riêng tôi biết được tin này thấy hài lòng vì đây là dấu hiệu thành công mỹ mãn nên Việt Cộng mới dùng đến phương tiện khủng bố. Dĩ nhiên từ đó chúng tôi cảnh giác cao độ và loan truyền cho đồng bào để họ hợp tác với chúng tôi canh chừng vì chương trình chính là quyền lợi của đồng bào.
Mặt khác tôi điện thoại cho ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ báo rằng từ nay trở đi ông có thể thông báo cho ký giả Mỹ tha hồ đến kiểm chứng sự thành công của chương trình. Tôi không thể nhớ những con số để chứng minh sự thành công về mặt chỉnh trang khu phố, về số gia đình của dân chúng được hưởng. Tôi cũng không nhớ bao nhiêu con đường lầy lội đã được sửa sang và biết bao nhiêu công trình lớn nhỏ khác do cộng đồng dân chúng trong các quận thực hiện. Nhưng điều quan trọng là đã có một cái gì đó, khác với cộng sản, đã bắt đầu và thành công một phần, tuy nhỏ, nhưng tinh thần, phương cách và khuôn mẫu hãy còn đó để chờ triển khai một cách hoàn chỉnh và tốt đẹp hơn..
Người Mỹ có quay một cuốn phim tài liệu về chương trình phát triển quận 8. Báo chí trong và ngoài nước đặc biệt báo Mỹ và Pháp ca ngợi. Ký giả Vanuxem, cựu thiếu tướng người Pháp đã viếng thăm quận 8, có tiếp xúc với tôi và viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Saigon” nhà xuất bản La Table Ronde 40, Rue Du Bac, Paris, 7e, 1967, trong đó ông nói về tuổi trẻ Việt Nam và chương trình phát triển quận 8 từ trang 127 đến trang 133. ( xin xem phụ bản do Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm phiên dịch. Thành thật cám ơn Giáo sư Liêm đã nhiệt tình giúp đỡ).
“L'espoir à Saigon”
“Thực ra vấn đề chính của xứ này là vấn đề thanh thiếu niên. Ở nông thôn hình như những “Ấp Tân Sinh” có thể đem lại giải pháp tốt. Nhưng ở thành thị, đặc biệt nói về sinh viên học sinh, họ là thành phần hăng say nhưng bất kham, phấn chấn dũng cảm nhưng không kiên định, tích cực ủng hộ chế độ cộng hòa, theo chủ nghĩa Quốc Gia nhưng sẵn sàng chống quân phiệt. Họ đặt đủ mọi thứ vấn đề và chủ trương phải hành động để thực hiện ý kiến của mình.
Vị Tổng Trưởng trẻ nhứt là Tổng Trưởng Thanh Niên, 32 tuổi. Trẻ đối với thế hệ già, già so với thế hệ trẻ. Ở cái tuổi mà con người có thể tự cho mình là già hay trẻ tùy ý. Thanh lịch, phong nhã, ông ta nói tiếng Pháp với một vọng rõ ràng, không đứt đoạn vọng lên xuống lấy hơi lổ mũi như nhiều người Việt Nam khác. Ông thấm nhuần văn hóa và nếp sống của người Pháp. Ông là một kỹ sư canh nông không được chuẩn bị cho một sự nghiệp chính trị, điều mà ông không hề nghĩ đến. Trong một cuộc tiếp xúc, ông chống đối lý luận và chủ trương của Thủ Tướng bằng những lời phê phán gay gắt. Thủ Tướng ngạc nhiên bèn yêu cầu ông trình bày quan điểm, ông ta chấp nhận. Nhưng khi Thủ Tướng mời ông tham gia nội các thì ông từ chối dứt khoát.
Chỉ về sau, nhân dịp cải tổ nội các thì ông mới nhận tham gia mà thôi. Bộ của ông có tất cả những quyền hạn liên quan đến thanh niên, kể cả thể thao, điều mà ông mê say. Nhưng ông chỉ chú trọng có một điểm đặc biệt, tuy không quan trọng, nhưng nếu công tác này thành công thì sẽ cho phép ông áp dụng một cách tổng quát và phổ biến những phương pháp mà ông tin sẽ đem lại hiệu năng và hợp với tình thế.
Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ, cũng giống như thanh niên của nhiều xứ khác, phản ứng một cách hung hăng, có tính khiêu khích đối với thế hệ đàn anh đang lãnh đạo họ. Vì vậy sự va chạm càng nặng khi hai thế hệ không có được sự cảm thông. Thế hệ đàn anh kiên định trong phong cách suy nghĩ theo hệ thống lô-gíc với thói quen đã từng bị người Pháp ảnh hưởng. Cuộc “cách mạng cộng sản” buộc người Pháp phải ra đi và sau đó lại có một nhu cầu là cần phải tìm ra một cung cách suy nghĩ khác lạ hơn với hiện tại, làm cho cả thế hệ thanh niên bị mất thăng bằng. Và ngày nay giới trẻ đó đang tìm một hướng đi.
Sau khi chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, sinh viên học sinh tin rằng mình cũng có góp phần trong đó, họ ủng hộ bên này hay bên kia với một sức sống mãnh liệt. Nhưng họ hành động trong sự rối loạn chưa từng thấy. Mỗi người muốn phục vụ đất nước theo kiểu cách của mình, họ chỉ trích tất cả những gì đã được hình thành và họ muốn sáng tạo một thứ gì độc đáo khác. Do đó kết quả cho thấy một sự không thích nghi với thời thế và sự vô hiệu năng về mọi mặt rất đáng ngại. Sự phân hóa xã hội Việt Nam trong mọi lãnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, ngày càng nhanh chống đến mức đáng sợ. Thanh niên lạc lòi, người đứng tuổi dè dặt, tự chế. Nhiều phe nhóm được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích linh tinh nhưng lần hồi họ tự ý đi vào con đường chính trị. Một số không ít vì ngây ngô bị đảng phái hay chính trị gia mua chuộc.
Người ta nghĩ có thể hướng dẫn sự bồng bột của tuổi trẻ vào con đường phục vụ xã hội, nhưng rồi người Mỹ xen vào với những đồng đô-la của họ. Ðiều đáng lẽ phải tránh. Kết quả người ta thấy sự hư nát ngày càng lan rộng. Và trong lúc đó có một nhóm thử đề ra một ý nghĩ mới, hy sinh quên mình, chấp nhận gian khổ, tận tụy, kiên trì với ý đồ xây dựng lại quê hương ngay trong bối cảnh hỗn độn đó. Khởi đầu là một công trình nhỏ bé, không bề thế, không phương tiện. Ðó là một khởi điểm.
Vị Tổng Trưởng thanh niên trẻ tuổi này ý thức được là ông không thể dùng quyền để chế ngự hay hướng dẫn thế hệ thanh niên trong xứ được. Ông ta nghĩ chỉ còn cách đứng bên cạnh họ, tự hòa mình chung sống với họ, thúc đẩy họ, biến họ thành những phần tử “cách mạng” tự tin rằng mình là hữu ích trong công cuộc xây dựng lại quốc gia. Và ông thực hiện điều đó. Ông tiếp xúc với thanh niên, ông gặp gỡ và bàn thảo với hơn 30 hội đoàn thanh niên và nhiều nhóm khác có mục đích riêng rẽ của họ. Ông sống với họ, hòa mình tự coi mình là người của họ. Ông mất rất nhiều ngày giờ. Nhưng cho tới nay ông tin rằng sự hiện diện và sự tham gia tích cực của ông đã đánh tan được sự nghi ngờ và thái độ lững lờ của họ. Ông còn tin vững chắc là đã được giới trẻ chấp nhận ông, không phải như người thầy, người quản trị, mà là người đàn anh có lời chỉ dẫn và quyền điều khiển của ông được tiếp nhận không mảy may ngờ vực. Ông muốn tạo cho nhóm trẻ này một môi trường thử nghiệm to lớn bằng sự ước mơ của ông. Muốn thực hiện điều đó ông phải đụng chạm với các đồng nghiệp của ông trong nội các, những vị đồng nghiệp đó bảo vệ quyền hạn chính đáng của họ, và còn nhiều cơ quan công quyền khác không chịu nhún nhường để cho giới trẻ rộng đường thi thố tài năng. Ông Tổng Trưởng đẩy họ phải tránh đường và buộc họ phục tùng. Ông ta cử một giáo sư trẻ tuổi làm quận trưởng của một quận Saigon. Và tất cả nhóm trẻ tham gia.
Quận này là một quận nghèo nàn nhơ nhớp nhứt, gần thành phố Chợ Lớn nơi người Hoa Kiều buôn bán tấp nập, nhưng đa số người Việt Nam ở đó đều là bần khốn. Sau nhiều sự do dự và ngỡ ngàng, dân chúng thấy được những sáng kiến táo bạo của nhóm người thiện nguyện trẻ tuổi này, họ hoạt động không khác gì những “giáo sĩ truyền giáo” nên lần hồi chiếm được cảm tình và sự chấp thuận tham gia của quần chúng. Họ thực hiện đủ mọi thứ công tác, giúp đỡ tất cà những người cần có sự giúp đỡ. Họ giúp sửa sang nhà cửa, đặt để những cơ quan từ thiện, khám bệnh và phát thuốc miễn phí, tổ chức hội họp, khuyến dụ quần chúng tham gia. Ða số chấp nhận vì cảm tình hoặc vì tò mò muốn tìm hiểu. Người ta thảo luận về mọi vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong quận, đến tổ chức hành chánh và quản trị, người ta cũng tìm hiểu về chính trị, gây ý thức về nhiệm vụ của người công dân và cổ võ sự đoàn kết trong cộng đồng.
Trong cái thế giới bị đồng tiền làm hư đốn vì con người chỉ biết chạy theo tiền mà thôi, nhóm người trẻ thiện nguyện đó hành động bất vụ lợi, trong sự nghèo khó, với lòng hy sinh tận tụy phục vụ cho lợi ích công cộng làm cho quần chúng tin tưởng nghe theo và họ đã thành công rực rỡ. Dĩ nhiên, thông thường những hoạt động như vậy phải được phô trương quảng cáo, nhưng ở đây mọi sự tuyên truyền phổ biến đều bị cấm chỉ, và mọi sự trợ giúp tiền bạc đều bị từ chối. Ðiều khó khăn nhứt là làm sao ngăn cấm báo chí Mỹ luôn luôn tìm kiếm mọi điều kiện khả dĩ có thể đem lại một giải pháp nào tốt đẹp cho Việt Nam mà họ đang chia xẻ trách nhiệm bảo vệ và phát triển. Cho nên vấn đề là làm sao thuyết phục họ chấp nhận không để cho những máy ảnh và máy quay phim của họ gây nghi ngờ hoang mang có tính phản tác dụng đối với quần chúng. Cuộc thử thách của họ vô cùng khó khăn nhọc nhằn, nó đòi hỏi sự vô tư cao độ, sự chấp nhận một nếp sống đạm bạc gần như khổ hạnh. Nhưng cuối cùng họ đã thành công.
Thêm một quận khác của Sài Gòn được giao cho nhóm trẻ này mở rộng, họ hoạt động theo những căn bản đã được ấn định. Và có cả một chương trình để áp dụng cho toàn quốc.
Sau khi thu thập đầy đủ kinh nghiệm và xác nhận sự thành công của hệ thống tổ chức và hoạt động, phải chăng đã đến lúc phải đặt cho hệ thống tổ chức này một định chế, bởi vì nếu không những sáng kiến là nguồn gốc của hành động sẽ bị đứng sững đó không phát triển thêm được.
Dứt khoát phải có một lý thuyết gia.
Phải chăng ông là người lý thuyết gia đó? Tôi hỏi vị Tổng Trưởng.
Mỉm cười. Hệ thống công tác tự nó có phải là một sự giải đáp đầy tính người, đầy nhân ái và nhạy cảm, thực tế hơn nhiều so với những gì mà việt cộng khoe khoang và đề nghị cống hiến cho đồng bào tôi không?
Chắc chắn rồi. Như vậy những thứ đạo đức mà việt cộng tự trang hoàng cho họ, một cách giả dối, nào là sự tận tụy với dân, lòng tin mãnh liệt đối với một lý thuyết cộng sản hoàn chỉnh, kỷ luật sắt thép của người cán bộ phục vụ nhân dân và xây dựng đất nước, sẽ là những luận cứ chứng minh cho việc làm của ông và của giới trẻ của ông là đúng phải không?
Dĩ nhiên, Nhưng mà chúng tôi chỉ mới bắt đầu. Chỉ có một hột giống mới nảy mầm. Ông chờ xem.
Tôi nhìn vị Tổng Trưởng này, không có vẽ Tổng Trưởng chút nào, ăn vận một cách lịch sự, nói năng như một vị “Tông Ðồ” truyền giáo, làm sao không tin lời nói của ông? Làm sao không tin cậy hành động của ông? Tuổi trẻ luôn luôn suy nghĩ hợp lý. Dù những gì có thể xẩy ra trong tương lai, tôi thấy tuổi trẻ Việt Nam đang tìm đường di động”
Kết quả của chương trình cho phép chúng tôi lan sang quận 6 Ðô thành, hoạt động thành công, và khởi sự tràn sang quận 7. Nhưng điều đáng tiếc là sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên, sự bất hòa và kình chống giữa hai vị Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ gây khó khăn cho việc quản lý và hoạt động của nhóm chủ trương quận 8. Tổng Thống Thiệu ra lệnh phải đặt chương trình phát triển quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, thay vì trước kia thuộc quyền quản trị của phủ Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ. Vị Thủ Tướng này dành mọi sự dễ dàng và thông cảm với nhóm trẻ, nên phong cách sinh hoạt thoải mái đạt được nhiều hiệu năng. Mọi danh dự và tiếng tốt đối với Mỹ và báo chí về sự vận động quần chúng tham gia hợp tác thành công đều hướng về Nguyễn Cao Kỳ, vì vậy nên ông Thiệu muốn lợi dụng cái danh dự đó và cũng có nhiều người của ông muốn gánh vác một việc mà họ tưởng có thể dùng quyền để điều khiển chỉ huy dễ dàng. Thực ra nếu ông Thiệu nghĩ đến quyền lợi của dân chúng thì ông phải ra lệnh cho chính quyền của ông hỗ trợ triệt để vì ông đã từng thấy và xác nhận, khi ông cùng với tôi đến viếng một nơi ven biên của quận 8 với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, ông đã từng chứng kiến nhóm trẻ này có tinh thần và lý tưởng, có chủ trương sâu sắc, sinh hoạt nhịp nhàng với nhau thì cho dù trực thuộc cơ quan nào của chính phủ thì cũng do ông lãnh đạo mà thôi. Tinh thần nhỏ nhen đó thể hiện trong rất nhiều sự việc sau này trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông làm cho ông bỏ lỡ cơ hội trở thành người hùng của đất nước. Bác Sĩ Hồ Văn Minh được Phủ Tổng Thống thông báo tự hậu phải trực tiếp chịu sự điều khiển của người do Phủ Tổng Thống chỉ định.
Tôi vô cùng đắn đo, một phần tiếc rẻ cho sự thành công trước mắt, một phần lo ngại người trực tiếp điều hành do phủ Tổng Thống chỉ định không am hiểu sự việc lại cũng không có tinh thần hòa mình với quần chúng, coi đám dân là nhóm người đề mình sai khiến, theo cung cách quan liêu, thì chắc chắn sẽ hư việc. Chi bằng giao trả lại cho Hành Chánh đô thành do Ðại Tá Ðổ Kiến Nhiễu, người của Tổng Thống Thiệu, điều hành là hơn. Tôi đề nghị anh em tổ chức một lễ bàn giao cho đô thành nhưng mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa. Trong buổi lễ bàn giao đó Hồ Ngọc Nhuận thay mặt anh em, kể công ơn của cựu Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và xác nhận sự thành công của giới trẻ một khi người ta biết vận dụng và giao phó trách nhiệm cho họ bởi vì “thanh niên là người tổ quốc mong cho mai sau”.
Lễ bàn giao kết thúc, tôi đặt sẵn một bữa tiệc tại nhà hàng “Trường Can” đường Mạc Ðỉnh Chi, tôi mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ dùng bữa cơm thân mật cùng với những anh em đã từng chia xẻ gian lao, cùng nhau phục vụ một lý tưởng, thực hiện một chủ trương để cám ơn ông đã dành cho giới trẻ chúng tôi sự thông cảm và ủng hộ nhiệt tình. Cho đến ngày nay, mỗi năm những người anh em đã từng tham gia chương trình này, trong cũng như ngoài nước, còn liên lạc, còn họp mặt, còn gởi điện thư nhắc nhở kỷ niệm đáng hãnh diện không thể quên.
(Còn tiếp)
Hồi Ký Võ Long Triều
Friday, December 29, 2006
(Kỳ 23)
Chương trình bắt đầu ghi nhận sự thành công trong nhiều lãnh vực thì bỗng nhiên có truyền đơn của việt cộng rải trong quận kêu gọi đồng bào cảnh giác đối với bọn “con buôn” của “chương trình phát triển quận 8” đang gạt đồng bào lấy đất cất nhà cho Mỹ mướn. Bằng cớ là người Mỹ tới lui thường xuyên để xem nhà xem đất. Sự thật là ký giả ngoại quốc có tới lui thăm viếng quận rất thường sau lời tuyên bố của Phó Tổng Thống Hoa Kỳ Hubert Humprey. Những truyền đơn của việt cộng làm chúng tôi đau đầu không ít. Bởi vì cảnh sát tuần tiễu không thuộc quyền chúng tôi điều khiển. Vả lại hành động lén lúc lẻ tẻ này khó kiểm soát nhưng dễ loan truyền. Túng thế tôi đành mời ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ, đến văn phòng tôi và yêu cầu ông ra lệnh cấm ký giả Mỹ tới quận 8 thường xuyên. Ông Habib phản đối kịch liệt. Thứ nhứt, tự do báo chí là điều ông bị bắt buộc phải tôn trọng. Thứ hai tiền của Quốc Hội Hoa Kỳ chi ra thì phải có báo cáo hoặc phải chứng minh bằng kết quả cụ thể. Kết quả nhỏ nhoi là quận 8 của ông mà nếu ông không cho phép Ký giả của chúng tôi đến quay phim chụp ảnh thì chúng tôi lấy gì chứng minh đây? Tôi phản bác là quí vị muốn thấy tôi thành công hay thất bại? Tôi cho ông Habib biết là dân chúng khởi sự tự hỏi chúng tôi chỉnh trang nhà cửa để cho họ ở hay cho Mỹ mướn đây? Cuối cùng ông Habib hứa sẽ tìm mọi cách để ngăn ngừa Ký giả đến quận 8 nhưng ông không thể bảo đảm ông sẽ thành công. Thực tế ông cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Mỹ hiểu được vấn đề, và kể từ đó không một người Mỹ nào đến thăm chương trình quận 8 của chúng tôi. Công tác phản tuyên truyền bắt đầu, chúng tôi giải thích với đồng bào rằng truyền đơn của việt cộng là láo khoét, chúng tôi đã cấm không cho người Mỹ léo hánh đến đây. Sự thật này đồng bào thấy rõ, đã vậy họ còn tưởng chúng tôi có uy quyền đến độ cấm được người Mỹ đến quận này, nên họ càng tin tưởng, càng hợp tác xây đựng.
Việc của tôi với tư cách Tổng Trưởng là yểm trợ, can thiệp để bao che, cung cấp đầy đủ phương tiện để anh em hoạt động. Can thiệp giữ người, xin biệt phái người từ Bộ Quốc Phòng, mượn phương tiện của Bộ Công Chánh, của USOM. Tôi ước mơ thành lập được những “Kiboutz” theo kiểu của Do Thái, từ đô thành lan rộng về các tỉnh, “tay súng tay cày” để giữ nước và dựng nước. Thú thật tôi bị ảnh hưởng rất nặng khi đọc quyển sách “Tour d'Erza” tả điều kiện Do Thái lập quốc trong bối cảnh hãi hùng bị các quốc gia Á Rập bao vây muốn tiêu diệt. Vì Vậy tôi đã chủ trương muốn gởi một số anh em của quận 8 đi Do Thái và Yougoslavie để học hỏi kinh nghiệm.
Bác sĩ Minh là sĩ quan quân y, Hồ Ngọc Nhuận là sĩ quan bộ binh và một số anh em khác đang cộng tác với chương trình, tôi phải “lộn nài bẻ ống” để xin biệt phái cho bằng được, riêng bộ thanh niên cung cấp người theo yêu cầu của chương trình. Can thiệp với bộ giáo dục để xin giáo sư, do anh em trong chương trình chọn những người quen biết có thiện chí, có lý tưởng và tinh thần, phù hợp với chúng tôi. Can thiệp với bộ giao thông công chánh và USOM để mượn xáng thổi đất lấp vũng lầy làm nền nhà. Tóm lại công tác tại chỗ là do “Tứ Ðại Gan Lì” chỉ huy điều hành, tuyển mộ thêm đồng bạn, mời rủ thêm người thiện nguyện, tổ chức phát triển rộng hơn làm cho vết dầu lan sang quận 6 rồi quận 7.
Kết quả chương trình thành công mỹ mãn. Những khu nhà ổ chuột nay trở thành nhà phố khang trang. Ðồng bào hài lòng, cộng sản “hổng chân”. Nhưng giữa thời gian đó xảy ra một sự kiện vô cùng nguy hiểm, rất may mắn và cũng rất có ý nghĩa. Chương trình có một máy kéo do cháu Phương phụ trách hằng ngày. Buổi sáng đó như thường lệ, cháu Phương ngồi vào ghế tài xế, đút chìa khóa mở máy, tay vừa cầm cây cần sang số bỗng nhiên anh ta thấy có một sợi dây kẽm cột từ cây cần sang số dẫn vô trong máy xe. Cháu Phương bước xuống dở nấp đậy máy xe xem tại sao có sợi dây kỳ lạ này. Thì ra dây kẽm cột vào nút chốt của một trái lựu đạn do cộng sản gài trong đêm. Mọi người tá hỏa, lo lắng có, sợ hãi có, mừng rỡ có. Riêng tôi biết được tin này thấy hài lòng vì đây là dấu hiệu thành công mỹ mãn nên Việt Cộng mới dùng đến phương tiện khủng bố. Dĩ nhiên từ đó chúng tôi cảnh giác cao độ và loan truyền cho đồng bào để họ hợp tác với chúng tôi canh chừng vì chương trình chính là quyền lợi của đồng bào.
Mặt khác tôi điện thoại cho ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ báo rằng từ nay trở đi ông có thể thông báo cho ký giả Mỹ tha hồ đến kiểm chứng sự thành công của chương trình. Tôi không thể nhớ những con số để chứng minh sự thành công về mặt chỉnh trang khu phố, về số gia đình của dân chúng được hưởng. Tôi cũng không nhớ bao nhiêu con đường lầy lội đã được sửa sang và biết bao nhiêu công trình lớn nhỏ khác do cộng đồng dân chúng trong các quận thực hiện. Nhưng điều quan trọng là đã có một cái gì đó, khác với cộng sản, đã bắt đầu và thành công một phần, tuy nhỏ, nhưng tinh thần, phương cách và khuôn mẫu hãy còn đó để chờ triển khai một cách hoàn chỉnh và tốt đẹp hơn..
Người Mỹ có quay một cuốn phim tài liệu về chương trình phát triển quận 8. Báo chí trong và ngoài nước đặc biệt báo Mỹ và Pháp ca ngợi. Ký giả Vanuxem, cựu thiếu tướng người Pháp đã viếng thăm quận 8, có tiếp xúc với tôi và viết một quyển sách tựa đề “L'espoir à Saigon” nhà xuất bản La Table Ronde 40, Rue Du Bac, Paris, 7e, 1967, trong đó ông nói về tuổi trẻ Việt Nam và chương trình phát triển quận 8 từ trang 127 đến trang 133. ( xin xem phụ bản do Giáo Sư Nguyễn Thanh Liêm phiên dịch. Thành thật cám ơn Giáo sư Liêm đã nhiệt tình giúp đỡ).
“L'espoir à Saigon”
“Thực ra vấn đề chính của xứ này là vấn đề thanh thiếu niên. Ở nông thôn hình như những “Ấp Tân Sinh” có thể đem lại giải pháp tốt. Nhưng ở thành thị, đặc biệt nói về sinh viên học sinh, họ là thành phần hăng say nhưng bất kham, phấn chấn dũng cảm nhưng không kiên định, tích cực ủng hộ chế độ cộng hòa, theo chủ nghĩa Quốc Gia nhưng sẵn sàng chống quân phiệt. Họ đặt đủ mọi thứ vấn đề và chủ trương phải hành động để thực hiện ý kiến của mình.
Vị Tổng Trưởng trẻ nhứt là Tổng Trưởng Thanh Niên, 32 tuổi. Trẻ đối với thế hệ già, già so với thế hệ trẻ. Ở cái tuổi mà con người có thể tự cho mình là già hay trẻ tùy ý. Thanh lịch, phong nhã, ông ta nói tiếng Pháp với một vọng rõ ràng, không đứt đoạn vọng lên xuống lấy hơi lổ mũi như nhiều người Việt Nam khác. Ông thấm nhuần văn hóa và nếp sống của người Pháp. Ông là một kỹ sư canh nông không được chuẩn bị cho một sự nghiệp chính trị, điều mà ông không hề nghĩ đến. Trong một cuộc tiếp xúc, ông chống đối lý luận và chủ trương của Thủ Tướng bằng những lời phê phán gay gắt. Thủ Tướng ngạc nhiên bèn yêu cầu ông trình bày quan điểm, ông ta chấp nhận. Nhưng khi Thủ Tướng mời ông tham gia nội các thì ông từ chối dứt khoát.
Chỉ về sau, nhân dịp cải tổ nội các thì ông mới nhận tham gia mà thôi. Bộ của ông có tất cả những quyền hạn liên quan đến thanh niên, kể cả thể thao, điều mà ông mê say. Nhưng ông chỉ chú trọng có một điểm đặc biệt, tuy không quan trọng, nhưng nếu công tác này thành công thì sẽ cho phép ông áp dụng một cách tổng quát và phổ biến những phương pháp mà ông tin sẽ đem lại hiệu năng và hợp với tình thế.
Thanh niên Việt Nam lúc bấy giờ, cũng giống như thanh niên của nhiều xứ khác, phản ứng một cách hung hăng, có tính khiêu khích đối với thế hệ đàn anh đang lãnh đạo họ. Vì vậy sự va chạm càng nặng khi hai thế hệ không có được sự cảm thông. Thế hệ đàn anh kiên định trong phong cách suy nghĩ theo hệ thống lô-gíc với thói quen đã từng bị người Pháp ảnh hưởng. Cuộc “cách mạng cộng sản” buộc người Pháp phải ra đi và sau đó lại có một nhu cầu là cần phải tìm ra một cung cách suy nghĩ khác lạ hơn với hiện tại, làm cho cả thế hệ thanh niên bị mất thăng bằng. Và ngày nay giới trẻ đó đang tìm một hướng đi.
Sau khi chế độ Ngô Ðình Diệm bị lật đổ, sinh viên học sinh tin rằng mình cũng có góp phần trong đó, họ ủng hộ bên này hay bên kia với một sức sống mãnh liệt. Nhưng họ hành động trong sự rối loạn chưa từng thấy. Mỗi người muốn phục vụ đất nước theo kiểu cách của mình, họ chỉ trích tất cả những gì đã được hình thành và họ muốn sáng tạo một thứ gì độc đáo khác. Do đó kết quả cho thấy một sự không thích nghi với thời thế và sự vô hiệu năng về mọi mặt rất đáng ngại. Sự phân hóa xã hội Việt Nam trong mọi lãnh vực, kinh tế, chính trị, xã hội, ngày càng nhanh chống đến mức đáng sợ. Thanh niên lạc lòi, người đứng tuổi dè dặt, tự chế. Nhiều phe nhóm được thành lập phục vụ cho nhiều mục đích linh tinh nhưng lần hồi họ tự ý đi vào con đường chính trị. Một số không ít vì ngây ngô bị đảng phái hay chính trị gia mua chuộc.
Người ta nghĩ có thể hướng dẫn sự bồng bột của tuổi trẻ vào con đường phục vụ xã hội, nhưng rồi người Mỹ xen vào với những đồng đô-la của họ. Ðiều đáng lẽ phải tránh. Kết quả người ta thấy sự hư nát ngày càng lan rộng. Và trong lúc đó có một nhóm thử đề ra một ý nghĩ mới, hy sinh quên mình, chấp nhận gian khổ, tận tụy, kiên trì với ý đồ xây dựng lại quê hương ngay trong bối cảnh hỗn độn đó. Khởi đầu là một công trình nhỏ bé, không bề thế, không phương tiện. Ðó là một khởi điểm.
Vị Tổng Trưởng thanh niên trẻ tuổi này ý thức được là ông không thể dùng quyền để chế ngự hay hướng dẫn thế hệ thanh niên trong xứ được. Ông ta nghĩ chỉ còn cách đứng bên cạnh họ, tự hòa mình chung sống với họ, thúc đẩy họ, biến họ thành những phần tử “cách mạng” tự tin rằng mình là hữu ích trong công cuộc xây dựng lại quốc gia. Và ông thực hiện điều đó. Ông tiếp xúc với thanh niên, ông gặp gỡ và bàn thảo với hơn 30 hội đoàn thanh niên và nhiều nhóm khác có mục đích riêng rẽ của họ. Ông sống với họ, hòa mình tự coi mình là người của họ. Ông mất rất nhiều ngày giờ. Nhưng cho tới nay ông tin rằng sự hiện diện và sự tham gia tích cực của ông đã đánh tan được sự nghi ngờ và thái độ lững lờ của họ. Ông còn tin vững chắc là đã được giới trẻ chấp nhận ông, không phải như người thầy, người quản trị, mà là người đàn anh có lời chỉ dẫn và quyền điều khiển của ông được tiếp nhận không mảy may ngờ vực. Ông muốn tạo cho nhóm trẻ này một môi trường thử nghiệm to lớn bằng sự ước mơ của ông. Muốn thực hiện điều đó ông phải đụng chạm với các đồng nghiệp của ông trong nội các, những vị đồng nghiệp đó bảo vệ quyền hạn chính đáng của họ, và còn nhiều cơ quan công quyền khác không chịu nhún nhường để cho giới trẻ rộng đường thi thố tài năng. Ông Tổng Trưởng đẩy họ phải tránh đường và buộc họ phục tùng. Ông ta cử một giáo sư trẻ tuổi làm quận trưởng của một quận Saigon. Và tất cả nhóm trẻ tham gia.
Quận này là một quận nghèo nàn nhơ nhớp nhứt, gần thành phố Chợ Lớn nơi người Hoa Kiều buôn bán tấp nập, nhưng đa số người Việt Nam ở đó đều là bần khốn. Sau nhiều sự do dự và ngỡ ngàng, dân chúng thấy được những sáng kiến táo bạo của nhóm người thiện nguyện trẻ tuổi này, họ hoạt động không khác gì những “giáo sĩ truyền giáo” nên lần hồi chiếm được cảm tình và sự chấp thuận tham gia của quần chúng. Họ thực hiện đủ mọi thứ công tác, giúp đỡ tất cà những người cần có sự giúp đỡ. Họ giúp sửa sang nhà cửa, đặt để những cơ quan từ thiện, khám bệnh và phát thuốc miễn phí, tổ chức hội họp, khuyến dụ quần chúng tham gia. Ða số chấp nhận vì cảm tình hoặc vì tò mò muốn tìm hiểu. Người ta thảo luận về mọi vấn đề liên quan đến đời sống cộng đồng trong quận, đến tổ chức hành chánh và quản trị, người ta cũng tìm hiểu về chính trị, gây ý thức về nhiệm vụ của người công dân và cổ võ sự đoàn kết trong cộng đồng.
Trong cái thế giới bị đồng tiền làm hư đốn vì con người chỉ biết chạy theo tiền mà thôi, nhóm người trẻ thiện nguyện đó hành động bất vụ lợi, trong sự nghèo khó, với lòng hy sinh tận tụy phục vụ cho lợi ích công cộng làm cho quần chúng tin tưởng nghe theo và họ đã thành công rực rỡ. Dĩ nhiên, thông thường những hoạt động như vậy phải được phô trương quảng cáo, nhưng ở đây mọi sự tuyên truyền phổ biến đều bị cấm chỉ, và mọi sự trợ giúp tiền bạc đều bị từ chối. Ðiều khó khăn nhứt là làm sao ngăn cấm báo chí Mỹ luôn luôn tìm kiếm mọi điều kiện khả dĩ có thể đem lại một giải pháp nào tốt đẹp cho Việt Nam mà họ đang chia xẻ trách nhiệm bảo vệ và phát triển. Cho nên vấn đề là làm sao thuyết phục họ chấp nhận không để cho những máy ảnh và máy quay phim của họ gây nghi ngờ hoang mang có tính phản tác dụng đối với quần chúng. Cuộc thử thách của họ vô cùng khó khăn nhọc nhằn, nó đòi hỏi sự vô tư cao độ, sự chấp nhận một nếp sống đạm bạc gần như khổ hạnh. Nhưng cuối cùng họ đã thành công.
Thêm một quận khác của Sài Gòn được giao cho nhóm trẻ này mở rộng, họ hoạt động theo những căn bản đã được ấn định. Và có cả một chương trình để áp dụng cho toàn quốc.
Sau khi thu thập đầy đủ kinh nghiệm và xác nhận sự thành công của hệ thống tổ chức và hoạt động, phải chăng đã đến lúc phải đặt cho hệ thống tổ chức này một định chế, bởi vì nếu không những sáng kiến là nguồn gốc của hành động sẽ bị đứng sững đó không phát triển thêm được.
Dứt khoát phải có một lý thuyết gia.
Phải chăng ông là người lý thuyết gia đó? Tôi hỏi vị Tổng Trưởng.
Mỉm cười. Hệ thống công tác tự nó có phải là một sự giải đáp đầy tính người, đầy nhân ái và nhạy cảm, thực tế hơn nhiều so với những gì mà việt cộng khoe khoang và đề nghị cống hiến cho đồng bào tôi không?
Chắc chắn rồi. Như vậy những thứ đạo đức mà việt cộng tự trang hoàng cho họ, một cách giả dối, nào là sự tận tụy với dân, lòng tin mãnh liệt đối với một lý thuyết cộng sản hoàn chỉnh, kỷ luật sắt thép của người cán bộ phục vụ nhân dân và xây dựng đất nước, sẽ là những luận cứ chứng minh cho việc làm của ông và của giới trẻ của ông là đúng phải không?
Dĩ nhiên, Nhưng mà chúng tôi chỉ mới bắt đầu. Chỉ có một hột giống mới nảy mầm. Ông chờ xem.
Tôi nhìn vị Tổng Trưởng này, không có vẽ Tổng Trưởng chút nào, ăn vận một cách lịch sự, nói năng như một vị “Tông Ðồ” truyền giáo, làm sao không tin lời nói của ông? Làm sao không tin cậy hành động của ông? Tuổi trẻ luôn luôn suy nghĩ hợp lý. Dù những gì có thể xẩy ra trong tương lai, tôi thấy tuổi trẻ Việt Nam đang tìm đường di động”
Kết quả của chương trình cho phép chúng tôi lan sang quận 6 Ðô thành, hoạt động thành công, và khởi sự tràn sang quận 7. Nhưng điều đáng tiếc là sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh Niên, sự bất hòa và kình chống giữa hai vị Tổng Thống Thiệu và Phó Tổng Thống Kỳ gây khó khăn cho việc quản lý và hoạt động của nhóm chủ trương quận 8. Tổng Thống Thiệu ra lệnh phải đặt chương trình phát triển quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, thay vì trước kia thuộc quyền quản trị của phủ Thủ Tướng Nguyễn cao Kỳ. Vị Thủ Tướng này dành mọi sự dễ dàng và thông cảm với nhóm trẻ, nên phong cách sinh hoạt thoải mái đạt được nhiều hiệu năng. Mọi danh dự và tiếng tốt đối với Mỹ và báo chí về sự vận động quần chúng tham gia hợp tác thành công đều hướng về Nguyễn Cao Kỳ, vì vậy nên ông Thiệu muốn lợi dụng cái danh dự đó và cũng có nhiều người của ông muốn gánh vác một việc mà họ tưởng có thể dùng quyền để điều khiển chỉ huy dễ dàng. Thực ra nếu ông Thiệu nghĩ đến quyền lợi của dân chúng thì ông phải ra lệnh cho chính quyền của ông hỗ trợ triệt để vì ông đã từng thấy và xác nhận, khi ông cùng với tôi đến viếng một nơi ven biên của quận 8 với tư cách là Chủ Tịch Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia, ông đã từng chứng kiến nhóm trẻ này có tinh thần và lý tưởng, có chủ trương sâu sắc, sinh hoạt nhịp nhàng với nhau thì cho dù trực thuộc cơ quan nào của chính phủ thì cũng do ông lãnh đạo mà thôi. Tinh thần nhỏ nhen đó thể hiện trong rất nhiều sự việc sau này trong hai nhiệm kỳ Tổng Thống của ông làm cho ông bỏ lỡ cơ hội trở thành người hùng của đất nước. Bác Sĩ Hồ Văn Minh được Phủ Tổng Thống thông báo tự hậu phải trực tiếp chịu sự điều khiển của người do Phủ Tổng Thống chỉ định.
Tôi vô cùng đắn đo, một phần tiếc rẻ cho sự thành công trước mắt, một phần lo ngại người trực tiếp điều hành do phủ Tổng Thống chỉ định không am hiểu sự việc lại cũng không có tinh thần hòa mình với quần chúng, coi đám dân là nhóm người đề mình sai khiến, theo cung cách quan liêu, thì chắc chắn sẽ hư việc. Chi bằng giao trả lại cho Hành Chánh đô thành do Ðại Tá Ðổ Kiến Nhiễu, người của Tổng Thống Thiệu, điều hành là hơn. Tôi đề nghị anh em tổ chức một lễ bàn giao cho đô thành nhưng mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ chủ tọa. Trong buổi lễ bàn giao đó Hồ Ngọc Nhuận thay mặt anh em, kể công ơn của cựu Thủ Tướng Nguyễn Cao Kỳ và xác nhận sự thành công của giới trẻ một khi người ta biết vận dụng và giao phó trách nhiệm cho họ bởi vì “thanh niên là người tổ quốc mong cho mai sau”.
Lễ bàn giao kết thúc, tôi đặt sẵn một bữa tiệc tại nhà hàng “Trường Can” đường Mạc Ðỉnh Chi, tôi mời Phó Tổng Thống Nguyễn Cao Kỳ dùng bữa cơm thân mật cùng với những anh em đã từng chia xẻ gian lao, cùng nhau phục vụ một lý tưởng, thực hiện một chủ trương để cám ơn ông đã dành cho giới trẻ chúng tôi sự thông cảm và ủng hộ nhiệt tình. Cho đến ngày nay, mỗi năm những người anh em đã từng tham gia chương trình này, trong cũng như ngoài nước, còn liên lạc, còn họp mặt, còn gởi điện thư nhắc nhở kỷ niệm đáng hãnh diện không thể quên.
(Còn tiếp)
Hoạt Ðộng Trong Nội Các
 
Bài 24
Hai ngày sau khi ký bàn giao nhậm chức là tôi phải cãi nhau với đồng nghiệp Giáo Dục đến nỗi cần đến sự can thiệp của Thủ Tướng mới giải quyết được. Nguyên nhân vấn đề là việc tổ chức giải thể thao liên viện do B.S. Trần Ngọc Ninh, Tổng Trưởng Giáo Dục chủ xướng, qui tụ thanh niên các viện Ðại Học Saigon, Ðà Lạt, Huế và Vạn Hạnh. Bộ đã tổ chức không chu đáo mà viên chức cao cấp của bộ còn ra thông cáo phổ biến trên đài phát thanh, thóa mạ sinh viên, nên giáo sư và sinh viên làm reo, không chịu diễn hành trước Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Hành Pháp Trung Ương, và cũng không chịu thi đấu. Dĩ nhiên là phần thể thao thuộc nhiệm vụ của bộ thanh niên. Hai vị Giám Ðốc thanh niên và thể thao là Nguyễn Văn An và Nguyễn Thành Nhơn tiếp xúc với giáo sư và sinh viên tại sân vận động Cộng Hòa, hai anh khuyên tôi không nên xen vào bởi lẽ câu chuyện trở thành gay cấn đến mức độ mà bộ Thanh Niên của mình không thể giải quyết được.
Mặt khác, mình mới nhận chức nên cứ để cho bộ giáo dục tiếp tục hoàn thành công tác của họ, chúng ta chỉ cung cấp trọng tài để chủ trì những cuộc thi đấu mà thôi. Tôi muốn đến hiện trường tiếp xúc với giáo sư và sinh viên nhưng hai vị giám đốc của tôi hết lời ngăn cản. Ý tôi đã quyết. Ngạn ngữ Pháp có câu: “Il faut saisir le teaureau par les cornes” (tạm dịch: Muốn vật bò mộng phải trực diện nắm hai sừng) . Tôi điện thoại yêu cầu ông Tổng Trưởng Giáo dục cùng đi với tôi đến tiếp xúc với sinh viên để dàn xếp sự việc. Ông Ninh cương quyết từ chối. Tôi đành về nhà thay quần jean mặc sơ mi ngắn tay, mang dép lẹp xẹp, với ý nghĩ ngây thơ, ngớ ngẩn, hay là hợp lý cũng chẳng biết, tôi muốn cho có vẻ bình dân hòa mình với anh em. Tôi cho triệu tập giáo sư và sinh viên tại phòng họp để tôi tìm hiểu sự việc và giải quyết vấn đề nếu thật sự có sơ sót hay rắc rối. Hơn 100 sinh viên và giáo sư ngồi trước mặt, tôi dịu giọng hỏi anh em: Việc gì đã xẩy ra? Vì tôi mới nhận chức có hai ngày nên không biết rõ. Một số sinh viên hằn học chỉ trích chính quyền vô trách nhiệm, một số khác chỉ trích cá nhân tôi, tại sao làm Tổng Trưởng mà không có nhân viên phúc trình cho dù mới nhận chức. Họ cho là tôi coi thường sinh viên và giáo sư nên không cần biết việc quan trọng đã xẩy ra. Tôi đích danh yêu cầu một vị giáo sư đại học Huế là anh Nguyễn Hữu Trí xin vui lòng cho tôi biết tự sự như thế nào. Thì ra tôi biết được là bộ mời họ về đây, cho ở tại sân Cộng Hòa, không đủ nước tắm, không có mùng ngủ, muỗi cắn sần mình, thái độ ”đem con bỏ chợ” như thế nầy là khinh thường giáo sư và sinh viên. Vì vậy họ phản đối làm reo, không chịu diễn hành, không thi đấu. Ðổng Lý Văn Phòng bộ giáo dục ra thông cáo đọc trên đài truyền thanh đổ lỗi cho sinh viên, chê là thái độ trẻ con, tố cáo trong số người của họ có phần tử phá rối. Anh Trí nói: “Nếu bộ giáo dục không ra thông cáo xin lỗi, chúng tôi sẽ biểu tình phản đối”.
Sau khi tôi có lời vuốt ve và tỏ ý thông cảm, tôi tuyên bố một cách khẳng định:
- Thứ nhứt cho tôi xem lại chỗ ăn chỗ ở của quí vị và cho tôi thì giờ để xem nội dung bản thông cáo của ông Ðổng Lý văn phòng bộ Giáo Quốc Gia Dục nói gì.
- Thứ hai tôi sẽ điều chỉnh mọi sự việc một cách hợp tình hợp lý nếu quả thật có sai trái như quí vị đã trình bày.
- Thứ ba ông Ðổng Lý phải ra thông cáo xin lỗi, nếu thông cáo trước có ý mạ lị.
- Thứ tư nếu quí vị có lý mà tôi không bênh vực được lẻ phải thì tôi sẽ từ chức ngay trong ngày hôm sau.
- Thứ năm, sau khi giải quyết xong, quí vị phải chấp nhận đi diễn hành và thi đấu.
- Thứ sáu nếu quí vị tiếp tục có hành vi phản đối, hay xuống đường biểu tình thì đích thân tôi sẽ chỉ huy cảnh sát dẹp loạn. Những gì tôi mới phát biểu nếu quí vị đồng ý thì xem như lời hứa hẹn đôi bên, tôi xin tạm thời ngưng cuộc họp hôm nay tại đây.
Ðại đa số vỗ tay đồng ý, một số anh khác còn ấm ức bất bình, đá ghế bỏ ra.
Tôi xem qua chỗ ăn chỗ ngủ đúng như lời của giáo sư Trí tường thuật. Ra về tôi đi thẳng đến Bộ Giáo Dục, gặp đồng nghiệp Trần Ngọc Ninh. Ông Ðổng Lý một mực ngoan cố tố cáo có sinh viên muốn phá rối. Tổng Trưởng Trần Ngọc Ninh bênh vực ông Ðổng lý của mình. Ông Ninh và tôi cãi nhau rất lịch sự nhưng rất quyết liệt. Không ai chịu thay đổi lập trường. Cuối cùng tôi mượn đường dây trực tiếp giữa thành viên nội các và Thủ Tướng, trình bày trước mặt ông Ninh về những sự việc đã xẩy ra mà tôi được chứng kiến tận mắt và đề nghị Thủ Tướng ra lệnh cho ông đổng lý phải ra thông cáo xin lỗi sinh viên, đồng thời tôi cũng yêu cầu Thủ Tướng ra lệnh cho Tổng Cục Tiếp Vận của quân đội kéo vào sân cộng hòa mấy bồn nước cho sinh viên và giáo sư dùng, đồng thời cho họ mượn ghế bố, mùng mền đầy đủ. Nếu lời tôi yêu cầu không được thỏa mãn, tôi sẽ đệ đơn từ chức sáng hôm sau. Tướng Kỳ tức giận nạt dội: “Ðưa moa nói chuyện với anh Ninh”. Tôi không biết hai người nói gì với nhau, đến khi ông Ninh đưa ống nghe lại cho tôi thì Tướng Kỳ cho biết: “Moa đã ra lệnh cho anh Ninh ra thông cáo xin lỗi sinh viên và cất chức đổng lý đó rồi. Chiều nay sau 6 giờ toa lên đây chúng mình đi thăm bọn sinh viên vuốt ve họ một chút”. Câu chuyện kết thúc tốt đẹp, nếu không, tôi đã từ chức và làm tổng trưởng được ba ngày.
Lãnh vực thanh niên cũng như chính trị bao gồm rất nhiều tổ chức và hội đoàn. Mỗi trưa thứ hai đầu tuần, tôi mời tất cả thanh viên ban lãnh đạo của một hội đoàn dùng cơm với tôi để thúc đẩy họ tham gia công tác phát triển cộng đồng quận 8. Hoặc yêu cầu họ tự đề ra bất cứ một công tác nào có ích cho quốc gia, xã hội, tôi đều ủng hộ và giúp đỡ phương tiện, tạo điều kiện cho họ thực hiện.
Mặt khác, tôi biết được ngân sách của Tổng Nha Kiến Thiết năm vừa qua còn dư 192 triệu đồng. Tôi lập tức trình Thủ Tướng xin chuyển khoản tiền nầy cho Bộ thanh niên để tôi dùng xây những “Nhà Thanh Niên” làm trung tâm sinh hoạt cho tuổi trẻ tại Saigon và một số tỉnh lớn. Ðề nghị của tôi được chấp thuận dễ dàng. Trong hoạt động hằng ngày, tôi thường gặp biết bao nhiêu sự bất ngờ, vui có, bực mình có, khó khăn có, an ủi có, hãnh diện có, ngã lòng có.
Cái khó đầu tiên là tôi phải tạo cho bằng được sự nhiệt tình ủng hộ và hăng say làm việc của nhân viên thuộc quyền. Chỉ có điều kiện đó tôi mới hy vọng đạt kết quả trong mọi hoạt động. Tôi chỉ thị cho văn phòng đạt lời mời của tôi đối với toàn thể anh chị em thuộc cấp dự buổi tiếp tân do tôi khoản đãi trước khi tan sở hai tiếng đồng hồ, không ai được phép vắng mặt. Trong buổi tiếp tân, các vị Chủ Sự, Chánh Sở, Giám Ðốc, Thanh Tra, ai cũng muốn tìm cách chuyện trò với tôi để tìm hiểu và gây cảm tình, nhưng sau khi bắt tay nói qua loa xã giao vài tiếng, tôi tìm mấy anh tài xế, lao công và nội dịch, cập cổ từng người ra vẻ như thân mật từ lâu, hỏi chuyện vui buồn của họ trong bộ.
Bộ có đông nhân viên do Tổng Nha Thanh Niên và Bộ Công Dân Vụ của Ðệ Nhứt Cộng Hòa để lại. Có anh thì rụt rè e ngại không dám nói gì, có anh thì vui mừng hãnh diện nói chuyện huyên thiên, có anh thì dè dặt ú a ú ớ không chịu trả lời thẳng. Những viên chức này chắc chắn có vấn đề nhưng không dám tiết lộ. Tôi cố tình gạn hỏi cho bằng được với lời cam kết không tiết lộ với bất cứ ai và bảo đảm an toàn cho những đương sự nào chịu thố lộ tâm tình với tôi, cuối cùng biết được một vấn đề mà tôi cho là khá quan trọng đối với đời sống của một công chức cấp nhỏ. Ðôi khi họ gặp cảnh túng thiếu phải vay mượn. Vấn đề là ông phát ngân viên của bộ lấy tiền ở đâu không biết, cho nhân viên vay lấy lời “cắt cổ”, mỗi tháng ông tự động trừ lương, nhưng cái khổ của con nợ là tháng nào vợ đau con yếu xin khất lại để tháng sau trừ tiền cũng không được.
Buổi tiếp tân chấm dứt. Sáng hôm sau vừa đến bộ tôi gọi bí thư vào văn phòng, tự tôi đọc lệnh cất chức một loạt sáu người, khởi sự từ phát ngân viên và một số chủ sự, chánh sở có liên hệ, đồng thời cử sáu nhân viên khác thay thế, buộc phải bàn giao trong ngày. Mặt khác tôi ký liền quyết định thành lập một ngân quỹ tương trợ ba trăm ngàn đồng, đặc biệt dành để cho nhân viên vay mượn khi cần thiết. Tôi cũng đọc cho bí thư viết luôn điều kiện vay trả. Trong đó nói rõ chỉ cho vay trong thời hạn tối đa ba tháng phải trả, người nào không trả đúng hạn sẽ vĩnh viễn không được phép vay nữa.
Ủy ban duyệt xét và kiểm soát hồ sơ gồm chánh văn phòng, các giám đốc hành chánh, thanh niên, thể thao và một đại diện nhân viên. Tôi còn chỉ thị cho Chánh Văn Phòng không được phép đưa lệnh cất chức nầy và quyết định lập quĩ cho Nha Hành Chánh và Tài Chánh để phổ biến mà chính văn phòng Tổng Trưởng đánh máy và phổ biến luôn. Sở dĩ tôi làm cho ra vẻ bí mật và quan trọng như vậy là vì muốn tạo sự ngạc nhiên sửng sốt để cho có tiếng vang là ông tân Tổng Trưởng chiếu cố đến nhân viên và làm việc ngang ngược bất chấp thể lệ hành chánh. Tôi hy vọng điều đó gây được sự thương kính của nhân viên trong bộ, bù lại những thắc mắc và ngạc nhiên của họ về tuổi tác và dáng dấp còn non trẻ của ông “xếp” mới. Vài tuần lễ sau tôi được biết có “câu lạc bộ” phục vụ nước uống và cơm trưa cho nhân viên, được hưởng trợ cấp ít nhiều của nhà nước. Một buổi trưa, bất chợt tôi buộc toàn bộ nhân viên văn phòng từ bí thư, chánh văn phòng, tham chánh văn phòng, thư ký đánh máy cùng với tôi đến câu lạc bộ dùng cơm trưa. Vừa bước vào tất cả ngạc nhiên, nhiều người đứng dậy chào, chủ câu lạc bộ săn đón, người dọn bàn lao chùi, đổi ly đổi chén, ông chủ gọi bếp phải chiên thêm trứng có tôm khô và cà tô-mát. Tôi vội vã yêu cầu dọn những phần ăn giống y hệt như tôi đang nhìn thấy trên những bàn lân cận. Ngày hôm sau tôi lại tái diễn cái màn kịch hôm trước. Người của câu lạc bộ thắc mắc, nhân viên bàn tán xôn xao, vừa ngạc nhiên vừa đánh nhiều dấu hỏi.
Trưa ngày thứ ba liên tiếp, tôi lại tái diễn cảnh của mấy hôm trước. Sau đó tôi lấy ý kiến của nhân viên văn phòng, ý kiến của hai ông Tổng Giám Ðốc Thanh Niên và Giám Ðốc Hành Chánh. Tất cả đều xác nhận bữa cơm tồi tệ so với giá tiền nhân viên phải trả và trợ cấp của chính phủ. Tôi quyết định hủy bỏ hợp đồng và gọi một nhà thầu khác thay thế, không cần phải đấu thầu lại, chờ lâu lắc rồi cũng đút lót, gian dối nữa thôi. Trong hợp đồng với nhà thầu mới phải ghi “phục vụ tương xứng với số tiền trong điều kiện có thể chấp nhận được”. Lại một việc làm ngang ngược trái phép nhà nước của tôi nữa. Ðiều nầy khiến nhà thầu cũ gởi đơn kiện thưa lên đến Thủ Tướng. Ông Kỳ điện thoại trách hỏi tại sao tôi phá luật lệ? Sau khi tôi trình bày cặn kẽ sự việc xẩy ra ông thông cảm cười nói “Ðáng kiếp tụi nó”. Ðương nhiên, tôi ra lệnh cho bí thư giả vờ úp mở, tung tin cho nhân viên biết rằng Tổng Trưởng bị Thủ Tướng khiển trách về vụ bênh vực quyền lợi của nhân viên nên hủy bỏ hợp đồng câu lạc bộ trái phép. Mặc khác tôi đã gởi danh sách của gần 20 nam huấn luyện viên thanh niên thể dục thể thao sang bộ Quốc Phòng để xin biệt phái họ về nhiệm sở cũ với lý do chuyên môn tối cần thiết, cũng giống như các giáo sư của bộ Quốc Gia Giáo Dục, bởi vì các huấn luyện viên của tôi cũng dạy thể dục thể thao cho các trường trung học cùng một danh hiệu với các giáo sư khác.
Tôi vừa nài nỉ Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Tổng Trưởng Quốc Phòng, vừa phân trần khiếu nại với Thủ Tướng, cuối cùng tất cả nhân viên của tôi xin biệt phái đều được trở về nhiệm sở.
Chiến dịch “tâm lý chiến” để lấy cảm tình không còn cơ hội nào khác để lợi dụng thực hiện được nữa, tôi bèn nghĩ ra chuyện “hốt hồn” thuộc cấp. Có một ngày, khoản 10 giờ sáng tự nhiên tôi bước ra gọi bí thư và chánh văn phòng cùng đi, tôi vào phòng của một cô thư ký và hỏi:
- Cô đang làm việc gì đó?
- Dạ em, em... , em tính, vừa nói cô vừa soạn sắp hồ sơ...
- Chủ sự của cô là ai?
- Dạ ông...
Cô có nói tên một ông chủ sự nào đó mà cho đến nay tôi không nhớ rõ. Tôi gọi ông chủ sự đó ra và hỏi:
- Ông giao nhiệm vụ gì cho cô thư ký của ông?
Ông ta ấp úng. Tôi hỏi tiếp:
- Vậy chánh sự vụ của ông là ai?
Tôi lập lại những câu hỏi tương tự với ông chánh sở mà tới nay, thời gian đã lâu quá rồi, tôi cũng không còn nhớ tên. Và cuối cùng lên đến Giám Ðốc Thể Dục Thể Thao là ông Nguyễn Thành Nhơn, sau nầy lấy biệt hiệu “con kiếng càng”, hiện đang cư ngụ tại Houston, Texas.
Tôi gọi anh Nguyễn Thành Nhơn vào văn phòng, cho anh ta một bài nên thân, và kết luận bằng câu tôi thường hay mỉa mai để khiển trách các cộng sự viên của tôi là: “Tôi giao trách nhiệm cho anh, rồi anh giao cho chánh sở, chánh sở giao cho chủ sự, chủ sự giao cho thư ký, rồi thư ký hoặc để ỳ đó, hoặc kêu anh xích lô giao cho họ là xong việc! Có phải thế không? Trả lời đi?”
Kể từ đó chẳng những tôi chiếm được cảm tình của nhân viên mà còn tạo được sự kính nể vì họ lo có thể bị thanh tra bất thần, nên không dám bê trễ công việc. Tiếng đồn, còn có dậm thêm mắm muối, từ bộ loan về các ty thanh niên ở tỉnh, nhứt là số Trưởng Ty mới được biệt phái về bộ do sự tích cực can thiệp của tôi đối với bộ Quốc Phòng. Guồng máy nhân sự của tôi bắt đầu chạy hăng say với ít nhiều hứng thú.

Mỗi thứ hai tôi họp toàn bộ cấp chỉ huy để trình bày, thảo luận và quyết định những việc làm trong tuần. Giám Ðốc Kế Hoạch là Dược Sĩ Hoàng Ngọc Tuệ, hiện định cư tại Orange County, con người năng nổ thích hoạt động thanh niên, có rất nhiều sáng kiến, quá nhiều sáng kiến, đến độ các đồng nghiệp xỉ vả ông tại sao tuần nào cũng bày vẽ ra thêm nhiều việc cho tôi quyết định thực hiện làm anh em phải “đầu tắt mặt tối”, có khi còn bị rầy vì bê trễ. Phải công nhận mười kế hoạch ông Tuệ trình bày ít ra cũng có một hai cái tốt phải làm. Cho nên gần như tuần nào cũng có việc mới. Vì thế ông bị xỉ vả là phải.
Mỗi trưa thứ bảy tôi quyết định tổ chức một bữa cơm do cộng sự viên từ cấp chủ sự trở lên thay phiên nhau đài thọ. Tại bữa cơm trưa đó, tôi chỉ nghe các lời chỉ trích phê bình, mỉa mai cay đắng mà không có quyền trả lời, không có quyền hờn giận. Tôi sẽ sửa sai nếu thấy hợp lý, ngày thứ hai đầu tuần sau, tôi giãi bày thuyết phục anh em về những lời chỉ trích không đúng. Tinh thần cởi mở đó tạo sự tin tưởng và thoải mái cần thiết cho việc làm hằng ngày.
Cái khó thứ hai về đối ngoại, là tôi không cho phép cố vấn Mỹ đặt văn phòng của ông tại Bộ. Thứ nhứt tôi muốn cho thuộc cấp của tôi thấy sự hoạt động của mình hoàn toàn độc lập đối với cơ quan viện trợ, dù họ rất chí tình và tích cực. Vị cố vấn Mỹ mà tôi không còn nhớ tên thường hay khiếu nại rằng ông ta luôn luôn thỏa mãn mọi yêu cầu của tôi mà tại sao ông chỉ xin một căn phòng làm việc tại bộ tôi lại không cho? Tôi trả lời một cách ỡm ờ rằng Tòa Ðại Sứ các ông đâu có thiếu văn phòng để làm việc, cần chi phải ngồi gần tôi, mỗi khi cần liên lạc thì có điện thoại, cần gặp tôi thì ông đến bất cứ lúc nào. Giằng co cả tháng trời ông cố vấn đành phải chấp nhận. Có lần tôi mượn một chiếc xáng đào kinh của USOM để thổi đất làm nền nhà cho khu chỉnh trang ở quận 8. Ông Giám Ðốc Man hứa với tôi ngày đó tháng đó sẽ có, nhưng thực tế lại không, mà ông Man cũng chẳng thèm báo cho tôi biết. Tôi điện thoại lần thứ hai, lại một lời hứa suông. Tôi bèn than phiền với ông cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ và thẳng thừng chê người Mỹ không coi trọng lời nói là danh dự. Ít hôm sau trong một cuộc tiếp tân tại dinh Khâm Sứ Tòa Thánh Vatican, ông Philippe Habib, gọi ông Man, Giám đốc USOM, đến trước mặt tôi nặng lời khiển trách và kết luận rằng: “Tôi không ưa những người nói dối.” Một tuần sau cơ quan USOM thay đổi Giám Ðốc khác.
Bước đầu của ông Âu Trường Thanh gặp sự chống đối của nhiều tướng lãnh viện cớ là ông “Hiệu Triệu” đồng bào về lề lối sinh hoạt kinh tế. Tướng Kỳ mời tôi lên phủ, ông “giũa” tôi một trận thê thảm về hai chữ hiệu triệu chỉ dành cho Tổng Thống hay Thủ Tướng mà thôi. Tại sao Âu Trường Thanh là ai mà dám dùng hai chữ đó? Tôi công nhận ông Thanh có phần sai trái vì không khéo dùng từ ngữ, nhưng cũng biện hộ cho anh ta về nội dung hữu lý của lời hiệu triệu. Mặc dù bực tức vì thành kiến đối với Thanh do hồ sơ của cảnh sát và chắc cũng vì mấy Tướng Lãnh thân cận ông Kỳ, đặc biệt là Nguyễn Ngọc Loan, tâu vô bàn ra nên ông càng bực tức hơn.
Linh mục Nguyễn Quang Lãm có giới thiệu tôi Ðại Tá Lê Quang Hiền, trong lúc tôi đang tìm một quân nhân giữ chức Ðổng Lý văn phòng, vì xét rằng tôi phải chung đụng hằng ngày với quân nhân từ cấp lãnh đạo quốc gia đến Tướng Tư Lệnh Vùng và Tỉnh Trưởng, Thị Trưởng, trong điều kiện hiện tại nếu có một quân nhân bên cạnh sẽ dễ làm việc hơn. Cho nên tôi nhận anh Hiền vào chức vụ Ðổng Lý thay vì nhận một vị Ðại Tá khác do chính phụ thân tôi giới thiệu. Vài ngày sau anh Hiền lại khẩn thiết yêu cầu tôi nhận một người cháu của anh là Lý Quí Chung, biết viết báo, xin vào làm việc trong bộ. Tôi tin Ðại Tá Hiền nên không kiểm chứng liên hệ gia đình giữa anh và Lý Quí Chung như thế nào. Về sau tôi mới biết Chung và Hiền không có bà con, liên hệ gì với nhau cả. Hình như phụ thân của Chung là Lý Quí Phát, cựu Quận Trưởng, có thời làm việc với Ðại Tá Hiền khi anh còn giữ chức Tỉnh Trưởng.
Những gì tôi viết về Lý Quí Chung trong thời gian anh là cộng sự viên của tôi đều đúng thật. Các chứng nhân, đồng lứa với anh cũng có thời cộng sự với tôi ở bộ Thanh Niên còn sống để xác nhận. Có những vị định cư tại Mỹ như nhà văn nhà báo Ðỗ Tiến Ðức ở Los Angeles, Dược Sĩ Hoàng Ngọc Tuệ ở Orange County, Ðại Tá Nguyễn Ðình Vinh, cựu Ðổng Lý Bộ Quốc Phòng, người đã thừa lệnh ông Tổng Trưởng sai quân cảnh đến bắt Lý Quí Chung tại bộ Thanh Niên về tội trốn quân dịch. Ðại Tá Vinh cũng sống tại Little Saigon, hay những vị còn sống bên nhà mà tôi sẽ có dịp nhắc đến như Hồ Ngọc Nhuận, Dương Văn Ba, Hồ Văn Minh, Dương Văn Long, có thể xác nhận những gì tôi viết về Lý Quí Chung. Chỉ tiếc một điều là anh ta đã qua đời, không còn phản bác hay đối chứng được những gì tôi viết về anh. Nhưng nếu thế giới bên kia có thể cho phép anh nhìn về được bên nầy thì anh cũng phải nhận đúng những gì tôi tường thuật và nhận xét về anh. Thứ nhứt bởi vì tôi đã hứa ở đầu trang hồi ký nầy chỉ phơi bày sự thật, thứ hai là đa số nhân chứng vẫn còn sống tôi không dám viết sai, thứ ba vì lương tri con người và nghề nghiệp ký giả buộc tôi phải viết toàn sự thật. Tôi biết Lý Quí Chung có viết một quyển hồi ký “Không Tên”. Rất nhiều người than phiền với tôi là sai sự thật nhiều quá. Tôi có quyển sách trong tay nhưng chỉ có giờ đọc sơ vài chục trang đầu mà đã thấy sai nhiều chỗ. Về quyển sách nầy tôi sẽ có lời bình luận sau. Không liên quan đến nội dung những trang hồi ký nầy.
Lý Quí Chung trình diện tôi tại văn phòng, tiếp chuyện với anh tôi thấy con người trẻ trung lanh lợi, có thời là ký giả thể thao, anh tự xưng là đệ tử của ký giả thể thao trứ danh Huyền Vũ. Tuổi trẻ, tinh thần hăng say của anh rất hợp ý tôi. Vả lại toàn bộ cộng sự viên của tôi đều cùng trang lứa với tôi, ngoại trừ hai ông Ðổng Lý và Chánh Văn Phòng. Tôi nhận ngay anh Lý Quí Chung vào làm việc tại văn phòng, phu trách báo chí. Không lâu sau đó tôi sửa đổi tổ chức của bộ, cử anh làm Giám Ðốc Tác Ðộng Tâm Lý. Anh ngồi ghế Giám Ðốc chưa kịp biết mình phải làm gì thì một buổi sáng khoản 10 giờ tôi đang làm việc, đột nhiên thấy Ðại Tá Hiền xuất hiện, mặt lộ vẻ sợ hãi, nói năng lúng túng.
- Trình anh có quân cảnh đến bắt Lý Quí Chung.
- Về tội gì?
- Trình anh vì tội trốn quân dịch.
Tôi phát cáu liền hỏi:
- Vậy tại sao nó là cháu anh, trốn lính, mà anh còn dám giới thiệu nó với tôi? Ðại Tá Hiền đứng chết trơ không trả lời được. Tôi vô cùng bực tức một phần vì ông Hiền thiếu thành thật, vì nhục nhả thấy một ông Giám Ðốc của mình bị quân cảnh câu lưu tại bộ về cái tôi trốn trách nhiệm công dân. Thật xấu hổ. Tôi nặng lời xỉ vả Ðại Tá Hiền một hồi lâu, đầu suy nghĩ phải làm sao tìm lối thoát để bảo toàn danh dự cho mọi người. Thôi thì một liều, ba bảy cũng liều. Tôi đành chọn kế vừa ăn cướp vừa la làng, hay cả vú lấp miệng em cũng phải, ỷ thế nằm vạ, la làng cũng được. Tôi bèn ra lệnh cho Ðại Tá Hiền gọi quân cảnh vào phòng tôi hỏi việc.
Ba anh quân cảnh chào kính xong đứng nghiêm.
- Ai sai bảo các anh đến bắt nhân viên của tôi tại bộ?
- Thưa Trung Tướng, Tổng Trưởng của tụi em.
- Các anh chờ tôi chút.
Tôi dùng điện thoại liên lạc nội bộ nhờ bí thư gọi cho tôi nói chuyện với Tổng Trưởng Quốc Phòng.
- Thưa ông, bên kia đầu dây trả lời Tổng Trưởng Quốc Phòng không có tại văn phòng.
- Gọi cho tôi nói chuyện với ông Ðổng Lý.
- Thưa ông, họ trả lời Ðổng Lý cũng vắng mặt.
- Cho tôi nói chuyện với bất cứ ai bên đó.
- Thưa anh tôi là Võ Long Triều, Tổng Trưởng Thanh Niên và Thể Thao đây, tôi xin nói chuyện với bất cứ vị đại diện nào của bộ Quốc Phòng, chẳng lẽ bộ đi ra ngoài hết không còn một người lính nào ở lại giữ bộ sao? Cho tôi nói chuyện với anh lính gác cổng cũng được.
Xin ông Tổng Trưởng chờ chút. Hồi lâu sau, bên kia đầu giây có tiếng trả lời.
- Thưa ông Tổng Trưởng tôi là Trung Tá Vinh, Ðổng Lý bộ Quốc Phòng đây.
- Xin ông Ðổng lý vui lòng hỏi giùm Trung Tướng. Coi bộ ảnh muốn làm nhục tôi chơi hay sao mà sai quân cảnh qua đây bắt nhân viên của tôi trong giờ làm việc tại bộ? Tại sao không chờ nó ra ngoài hay về nhà rồi tới bắt? Tôi không bao che cho người phạm pháp nhưng tôi không chấp nhận quí vị coi thường, thậm chí khinh khi tôi. Nếu vậy thì anh Có và tôi sẽ lên gặp Thủ Tướng ngay bay giờ để giải quyết việc nầy. Xin ông Ðổng lý cho tôi nói chuyện trực tiếp với anh Có.
- Xin ông Tổng Trưởng đừng vội nóng nảy, tụi mình cũng người trẻ tuổi với nhau mà, không biết tại sao câu nói này in sâu trong đầu tôi liền và có không hiểu có phải lời nói đó hay vì cách giải quyết êm đẹp của ông Ðổng lý Văn Phòng bộ Quốc Phòng mà sau này chúng tôi quen biết và kết thân với nhau. Nếu ông Tổng Trưởng xác nhận không bao che cho người phạm pháp thì nên để cho quân cảnh của chúng tôi thi hành nhiệm vụ.
- Vấn đề tôi muốn nói với ông Ðổng Lý là tôi không chấp nhận anh Trung Tướng Có hạ nhục tôi. Chứ không phải vấn đề trốn lính của Lý Quí Chung. Bản thân tôi không chấp nhận trốn lính nên mới từ Pháp về trong tuổi quân dịch thì chẳng lẽ bây giờ tôi bao che cho những người trốn lính sao.
- Ông Tổng Trưởng nói khó nghe quá. Hễ phạm pháp thì bị câu lưu, dù ở bất cứ nơi nào, bất cứ ngày giờ nào, do cơ quan chính quyền quyết định chứ đâu phải do người ngoài chỉ dẫn.
Ðại Tá Vinh hiểu sự việc theo đúng lý lẽ, còn tôi thì bị chạm tự ái và vì bực tức cả hai ông Hiền và Chung đã dối gạt tôi, nên nổi khùng to tiếng:
- Anh Hiền, ra lệnh cho đội cảnh sát của bộ tước khí giới, bắt nhốt ba anh quân cảnh này cho tôi, chờ tôi và Trung Tướng Có gặp Thủ Tướng để ông ấy giải quyết.
Hình như ông Ðổng Lý Vinh nghe rõ tiếng của tôi qua đường dây điện thoại chưa cắt.
- Xin ông Tổng Trưởng cho phép tôi nói chuyện với một quân cảnh của tôi. Tôi đưa ống nghe cho quân cảnh.
Liền sau đó anh ta nói:
- Thưa Tổng Trưởng tôi được lệnh trở về. Ba anh quân cảnh nghiêm chào, quay đi. Tôi còn nặng lời Khiển trách Ðại Tá Hiền rất lâu về việc làm vô trách nhiệm của một ông Ðại Tá già dặn tuổi đời mà chẳng lẽ ông không biết việc đó là quan trọng? Hay ông có lợi lộc, ơn nghĩa gì đây? Sau cơn bão rồi mọi việc cũng yên. Ngày thứ tư trong tuần lễ đó, sau khi họp xong nội các, tôi kéo Trung Tướng Có vào Văn Phòng Thủ Tướng, tôi đặt thẳng vấn đề.
- Nếu Trung Tướng không cố tình làm nhục tôi thì xin cấp cho Lý Quí Chung một giấy hoãn dịch chờ đến khóa sau nếu anh ta không trình diện thì cứ tự nhiên bắt nhưng với điều kiện là bên ngoài bộ của tôi.
Nhờ sự giảng hòa của Thủ Tướng Kỳ, Trung Tướng Có chấp nhận. Vì vậy mà Lý Quí Chung có được giấy chứng chỉ tình trạng hợp lệ quân dịch. Trước kia tôi cả quyết đời người do chính mình tạo lập, bay giờ tôi mới tin con người có số mạng do thiên định. Chuyện của Lý Quí chung là một trong rất nhiều chuyện làm thay đổi cái nhân sinh quan của tôi. Ngẫu nhiên hay do một động lực vô hình nào đó xui khiến tôi nhận Ðại Tá Lê Quang Hiền làm Ðổng Lý trong khi phụ thân tôi giới thiệu một vị Ðại Tá khác, rồi ông Hiền lại xin cho Lý Quí Chung vào làm việc ở bộ Thanh Niên. Mặt khác vì kiêu căng tự ái nên tôi mới có thái độ ngang ngược can thiệp cho anh ta như vậy. Nếu gặp một vị Tổng Trưởng khác chưa chắc đã liều lĩnh quyết định bắt giam quân cảnh đang hành sự, biết đâu sẽ chuốc lấy nhiều phiền phức. Và nếu Thủ Tướng và Tổng Trưởng Quốc Phòng cứ thẳng thừng sử dụng công lý thì Lý Quí Chung chỉ trở thành một sĩ quan rất tầm thường như bao nhiêu người khác. Phải chăng là con người có số?
Nhiều lần Trung Tướng Có gặp tôi ông cứ nhắc mãi việc tôi đòi bắt quân cảnh của ông trong khi hành sự mà Tướng Kỳ đề nghị ông nên bỏ qua. Ông có vẻ bất bình nên tôi tiên đoán ông chờ cơ hội để trả đũa bằng cách “hành” tên Chung này “một trận nên thân” khi anh ta phải nhập ngũ khóa sau. Tôi không muốn thái độ cứng rắn của tôi ngày trước ảnh hưởng xấu cho một nhân viên của mình. Tôi biết bầu cử Quốc Hội Lập Hiến là điều chắc chắn phải thực hiện trong khi chương trình phát triển quận 8 thành công đáng kể, mình có thể đưa một người ra ứng cử tại đó chắc đắc cử. Tôi bèn thông báo cho Lý Quí Chung chuẩn bị tư tưởng để ra ứng cử tại đó và cũng nói sự thật cho anh biết, nếu thất bại anh có thể bị Trung Tướng Có “đì” tới mức vì tội trốn lính và vì tôi can thiệp thô bạo mạo phạm đến quyền uy của ông ta.
Ðã bước chân vào chính trường, tôi nghĩ phải tạo một thế chính trị, một nhóm thân hữu đồng lập trường chí hướng. Giới trí thức, chuyên viên, thượng tầng chúng tôi quen biết nhau khá nhiều. Những người hoạt động và có ảnh hưởng trực tiếp trên chính trường như Dân Biểu Quốc Hội chúng tôi chưa có cơ hội nghĩ đến. Bây giờ và trong hoàn cảnh hiện tại chắc phải nghĩ cách đưa người vào Quốc Hội Lập Hiến. Cho nên tôi quyết định ủng hộ một số Giáo Sư trẻ tuổi ra ứng cử Dân Biểu.
(còn tiếp)

Những bạn đồng hành
Nhớ lại thời gian trước, tôi chủ quan tưởng mình năng động, hăng say làm việc, hy vọng góp phần nhỏ mọn nào đó của một công dân trong công cuộc xây đựng đất nước, nhưng tiếc thay chí nguyện không thành! Nhưng tôi vẫn tin rằng mình khơi động được lòng yêu nước, chí hy sinh của tuổi trẻ để cùng nhau làm một cái gì đó có lợi ích cho dân tộc.
Chương trình phát triển Quận 8 do tôi đề xướng có thành công đó, tôi đã tụ tập được những tấm lòng đáng mến, những khả năng đáng kể, những tính tình đáng phục. Và trong bối cảnh bấy giờ, với những phương tiện ít oi, với môi trường quá khắc nghiệt, sình lầy, bệnh tật, chúng tôi đã biến những ao hồ, vũng lầy thành sân chơi, nơi xây cất, trường học, chẩn y viện. Chúng tôi tổ chức hành chánh, giáo dục, xã hội, y tế công cộng đi đến tận người dân. Ở Quận 8, trong thời gian ngắn ngủi ấy, chánh quyền - Ban Quản Lý Quận 8 - thật sự là vì dân, chia sớt những khó khăn của dân.
Tôi rất hãnh diện về những người bạn trẻ của tôi lúc bấy giờ. Chúng tôi có cãi vã với nhau, nhưng rồi ai ai cũng nhìn cái “đại cuộc”, để dị đồng chỉ là thử thách, suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, biến nó thành một cơ may cho sự lớn mạnh của mọi thành viên. Nhờ vậy mà Chương Trình đạt được những thành quả “vĩ đại”. Vĩ đại so với vốn đầu tư, vĩ đại vì những tâm hồn trẻ, mỗi người một vẻ, đã chung lưng đâu cật, cùng với người dân địa phương cải tạo môi trường sống của họ, và đã đem lại cho Quận 8, một bộ mặt mới. Vĩ đại cũng vì nó có khả năng là sơ đồ cho một mô hình cải tạo cộng đồng, một cách thiết thực và hữu hiệu. Thật sự chúng tôi đã thành công vượt trên cái mức mà chúng tôi chờ đợi. Thành quả không thuộc của bất cứ ai. Chương trình là một bài học điển hình, phải nghiên cứu, học hỏi, và nhân ra ít nhất là cho những quận ven đô.
Tuy nhiên, đến thời Tổng Thống Thiệu, khi ông và thuộc cấp của ông có ý đồ lợi dụng muốn nhận công, hưởng được sự ca ngợi của báo chí nên sát nhập chương trình Quận 8 trực thuộc phủ Tổng Thống, tôi đắn đo e ngại. Tôi không chấp nhận . Nhưng biết đâu sự sát nhập đó giúp chương trình sẽ được mở rộng qui mô hơn. Ðúng lý ra tôi phải kiên trì tháo gỡ mọi sự thử thách cho đến cùng để phục vụ số đông dân chúng đả tin tưởng chúng tôi và đang cần sự giúp đỡ của ban quản lý chương trình. Tôi đã một lần không đặt quyền lợi những đồng bào nghèo khó của tôi lên trên sự hẹp hòi cố chấp.
Mặt khác chúng tôi, một nhóm bạn bè tập họp với nhau chủ trương thực hiện dân chủ và công bằng xã hội mà sinh hoạt rời rạc, vô tổ chức, vô kỷ luật, chỉ dựa vào tình cảm hay hứng thú. Không đồng loạt kiên trì theo đuổi mục tiêu cho đến cùng.
Kết cuộc, tôi phải trả mười một năm tù cộng sản, xét cho cùng tôi không ân hận! Bởi vì tôi cũng đã từng chia sẻ quyền điều khiển con tàu quốc gia thì khi nước mất tàu chìm, tôi cùng với một số đồng đội đồng hành gánh chịu gian nan là phải. Ðiều tôi tự an ủi mình là ít ra tôi đã hết lòng hết sức làm những gì lương tri và trí tuệ mình chỉ dẫn. Ðã sống một cuộc sống theo luân lý và giáo dục gia đình nung đúc, ít ra tôi không phải là hạng người khoác lác, nhưng ù lì hưởng thụ, không cần biết chuyện quốc gia, chết sống mặc bay, hay một vài tay sống bằng mặc cảm, tự ti hoặc tự tôn, chuyên môn chỉ trích bất cứ ai, bất cứ thứ gì, bởi chính họ không bằng người khác hay không thể làm được những gì họ muốn cho người khác làm hay hơn. Tôi muốn hiệp lòng với số đông người an phận, chấp nhận sự an bài của tạo hóa, không trách người, không trách mình, bởi vì chuyện đã qua rồi, có ai đi ngược được thời gian? Có ai sửa đổi được cơ trời vận nước hay lịch sử đã qua?
Trang đầu tập hồi ký có đoạn tôi viết: “Ngày nay viết lại chuyện dài của cuộc đời như kể chuyện vui cho bạn bè, nghe qua rồi bỏ, đừng cho đó là quan trọng, càng không nên xem là tài liệu lịch sử bởi vì đó chẳng qua đây chỉ là diễn biến bình thường của xã hội con người mà thôi”.
Nói về những bạn đồng hành, lòng tôi day dứt. Rất nhiều tên tuổi tôi thương nhớ, kính phục, nhưng cũng có vài bạn làm tôi bất mãn, buồn phiền, thất vọng.
Anh bạn Luật Sư Bùi Chánh Thời, vừa là cố vấn luật pháp vừa là cố vấn chính trị, luôn cả cố vấn tình cảm. Anh và tôi sát cánh với nhau cho đến sau ngày 30 Tháng Tư năm 1975, và mãi cho đến ngày tôi trở lại tù lần thứ hai. Chúng tôi buồn vì tình hình đất nước, chán tình đời, Thời và tôi cùng với cựu Nghị Viên Dương Văn Long uống rượu gần như mỗi ngày, nửa say nửa tỉnh. Tôi còn nhớ giữa anh và tôi xẩy ra một chuyện khôi hài là có lần tôi yêu cầu anh lập hồ sơ, tôi đứng tên kiện chính phủ về một vụ bất hợp lý gì đó. Anh trả lời luật lệ không có điều khoản đó, Thời cho tôi là thằng “nông dân có bằng cấp” nhưng chắc chắc không biết luật bằng anh ta. Tôi khẳng định điều tôi yêu cầu là hợp lý, bổn phận anh là tìm phương cách, tìm cho ra luật để mà thực hiện. Cãi nhau chí chóe, Anh Thời giận bỏ đi còn nói vói thêm một câu “ông cả vú lấp miệng em”. Về nhà anh ta tức giận bỏ ăn bỏ ngủ ra công soát lại từng điều khoản của bộ sách luật với mục đích sẽ trở lại xỉ vả tôi một trận nên thân, cho tôi bỏ cái tính cãi chầy cãi cối. Không ngờ khoản 4 giờ sáng chuông điện thoại nhà tôi reo, bắt ống, tôi nghe tiếng của Bùi Chánh Thời bên kia đầu dây cười ha hả nói:
- Tôi kiếm được rồi.
- Cái gì?
- Tôi đọc ông nghe nầy.
Anh Thời đọc cho tôi nghe nguyên văn bằng tiếng Pháp một điều khoản luật có thể dựa vào đó mà lập hồ sơ đưa ra tòa. Anh nói tiếp: Tôi tha tội cho ông đó. Nếu không có điều luật nầy ông sẽ biết tay tôi.
Anh Thời hiện định cư ở Úc Châu, nếu có đọc truyện nầy chắc anh cũng mỉm cười nhớ bạn ngày xưa. Có lẽ nhớ nhiều nhứt là mấy câu thề chính tay anh thảo. Tôi đốt hồ sơ không hết nên còn sót lại, cũng như một bài viết khác nặng ký hơn, do Lý Chánh Trung thảo. Việt cộng xét nhà bắt gặp, hạch hỏi tôi nhiều ngày, tôi chối quanh co vì không muốn lôi đầu mấy thằng bạn đã đầu hàng chạy theo địch vào tù. Nghĩ rằng điều đó cũng vô ít thôi. Trời sập rồi, ân hoán làm chi nữa.
Nhớ anh Giáo Sư Nguyễn Văn Trường, hiện định cư tại Houston, Texas, nhà mô phạm đáng kính, nhưng khi anh cùng với tôi từ chức Tổng Trưởng, Tướng Kỳ thuyết phục anh nên rút đơn lại không được, anh Trường không giãi bày, lý luận, chỉ cười nói gọn cảm nghĩ của anh là phải từ chức, thế thôi. Tướng Kỳ cười to hơn và nói:
- Anh là nhà mô phạm nổi tiếng, thế mà câu trả lời của anh không mô phạm tí nào cả.
Tính anh Trường ôn hòa với mọi người, hết tình với anh em, suy nghĩ chín chắn, ý kiến sáng suốt, tuy ít phát biểu nhưng tôi thường xuyên hỏi ý anh về rất nhiều việc. Tôi nói:
- Anh là lương tri của tôi. Anh là cố vấn tối cao.
Những câu nói đó làm anh Trường kịch liệt phản đối, nhưng tôi lấy làm thích thú, nửa đùa giỡn, nữa hiểu thật như vậy. Khi nội các chiến tranh cãi tổ lần thứ hai, tôi tuân theo chỉ thị của Tướng Kỳ mời anh Trường tham gia với tư cách là Tổng Trưởng Giáo Dục, anh bác bỏ đề nghị của tôi liền, tôi phải nài nỉ anh, mời lên xe cùng đi với tôi ra bến Bạch Ðằng Saigon hứng gió để bàn thảo tiếp. Chúng tôi trao đổi qua lại mãi đến gần hai giờ khuya anh mới chấp nhận, sau khi tôi làm trận làm thượng, hờn giận nhiều lần.
Cố Dân Biểu, Kỹ Sư Nguyễn Hữu Chung, con người khôn ngoan nhanh trí, trực tính kiểu miền Nam, hơi ngang bướng, thường dùng lời mai mỉa để pha trò, nhưng trung thành với bạn và cách hành sử đầy tình cảm. Tôi không quên thời tôi còn mang lon Thiếu Úy bị đầy lên Ban Mê Thuột, anh Chung đến nhà nói:
- Anh đi xa, ở nhà Trường London School của anh cần người, mỗi ngày tôi sẽ ghé qua phụ giúp. Tuy tôi trả lời mọi việc đều được thu xếp gọn gàng rồi, nhưng ơn anh và mối cảm tình nồng hậu đó tôi vẫn ghi nhớ cho đến bây giờ. Khi tôi định cư bên Pháp anh có qua thăm và chúng tôi gập nhau lần cuối khi dự đám tang Ðại Tướng Dương Văn Minh.
Giáo Sư Dương Văn Long, cựu Nghị Viên Hội Ðồng Ðô Thành, người đứng trung gian liên lạc giữa tôi và nhóm nghị viên hội đồng tỉnh hoạt động trong chiều hướng phản đối mọi sự lạm quyền, giới hạn dân chủ, hiếp đáp lương dân. Khi tôi làm báo Ðại Dân Tộc anh Long đứng tên quản lý. Có lần Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu kiện tờ báo vì tội mạ lị cá nhân, khi tôi cùng với các báo Sóng Thần, Ðiện Tín... đăng cáo trạng chỉ trích Tổng Thống. Luật sư Bùi Chánh Thời và Nguyễn Thị Tám bênh vực cho các bị can đặt câu hỏi: Nếu nhận tội, tòa án có thể xử phạt sáu tháng tù ở, nếu không nhận tội thì luật sư có thể nại lý do “hà tì thủ tục” (vice de forme) rồi xin đình hoãn dài dài. Anh Long yêu cầu Luật Sư biện hộ cho bị can nhận tôi.
Ðêm hôm trước ngày tòa xử, Dương Văn Long và tôi tâm sự nhau rất nhiều, đại ý anh sẵn lòng chấp nhận mọi gian nan, tù dày, để góp phần bảo vệ cho tự do báo chí. Phần tôi sắp xếp mọi việc cần thiết, vật chất, tài chánh cho gia đình anh để anh yên trí góp phần thực hiện điều mà anh và cả nhóm bạn bè chủ trương. Những lời tâm sự giữa tôi và anh còn ghi khắc sâu trong lòng. Một cộng sự viên tôi luôn luôn kính trọng dù ông nhỏ tuổi hơn, chức vị khiêm tốn hơn.
Nói tới Dương Văn Long tôi không quên nghĩ về Giáo Sư Phan Công Minh, cựu Hiệu Trưởng trường sư phạm Vĩnh Long, con người khiêm tốn nhứt trong nhóm anh em. Tôi nhớ anh cần cù thực hiện những công tác in ấn với cái máy in “Ronéo” cũ kỹ. Anh rị mọ xếp từng bao thơ, công việc mà các bạn đồng nghiệp của anh, Giáo Sư cùng trang lứa với anh thường trốn tránh. Và còn bao nhiêu người bạn trẻ khác đã từng chung vai chung sức với mục đích góp phần xây dựng một xã hội tốt đẹp cho miền Nam mà tôi không thể nào kể hết trong những trang hồi ký nầy.
Ðó là một số bạn bè cang cường, cùng với tôi không rời bỏ chiến tuyến, bảo vệ lý tưởng tự do dân chủ nhân quyền. Dù có khi tham gia chính quyền hay đối lập nhưng một mực chống ý thức hệ cộng sản. Không vì tham sống, ham lợi mà phản bội lý tưởng, phản bạn đồng hành, hay phải lừa dối chính mình chạy theo cộng sản.
Trong số ít đó có một vài người mà chính tôi - có thể nói được - là kẻ đã tạo dựng nên tên tuổi và sự nghiệp cho họ, tôi cảm thấy ray rức, buồn bực, khó nghĩ bởi vì nếu nói lên hết sự thật e rằng người đời tưởng mình cố chấp, thiếu khoan dung, thậm chí hằn học với đàn em thuộc cấp, một khi họ đã chối bỏ sự dẫn dắt của mình đi trên đường chính đạo để chạy theo tà gian cộng sản. Nhưng nếu không nói rõ sự thật thì tôi lỗi hẹn với độc giả, vi phạm lời hứa qua những dòng chữ ngay trang đầu của quyển hồi ký nầy là “trình bày sự thật, ngay tình, không tô son, không che dấu, bởi vì, thị phi thành bại chuyển đầu không”. Và nếu không nói rõ sự thật có thể gây hiểu lầm về nhiều vấn đề chính trị mà đa số người ngoài cuộc muốn biết cho rõ. Thôi thì dù sao những vấn đề liên quan tới đời sống cá nhân tôi đều có thể đưa vào những trang hồi ký của Võ Long Triều, độc giả sẽ tùy nghi phê phán.
Thời gian Lý Quí Chung làm việc tại Bộ Thanh Niên rất ngắn không có gì đáng nói. Anh ấy nhờ có được chứng chỉ hợp lệ tình trạng quân dịch nên có quyền nộp đơn ứng cử dân biểu quốc hội lập hiến. Dĩ nhiên anh là một thanh niên nghèo, gia đình không khá giả. Nếu tự anh muốn ứng cử thì chắc cũng không có tiền để đóng tiền ký quỹ đừng nói chi đến phí tổn vận động. Như đã nói trên, tôi quyết định ủng hộ một số bạn trẻ trong cuộc bầu cử Quốc Hội lập hiến sắp đến trong đó có Lý Quí Chung. Tôi cho phép anh Chung được hưởng thành quả của công tác phát triển quận 8 mà đồng bào nhiệt liệt hoan nghênh, họ sẽ dồn phiếu cho ứng cử viên nào mà cán bộ chương trình vận động. Ðáng lý cái quyền được hưởng đó phải thuộc về một trong “Tứ Ðại Gan Lì” là Mai Như Mạnh, Ðoàn Thanh Liêm, Hồ Ngọc Nhuận và Hồ Văn Minh.
(còn tiếp)

Hồi Ký Võ Long Triều
Friday, January 19, 2007
(Kỳ 26)

Tôi may mắn có được lợi tức của trường anh văn London School đủ để giúp cho 5 ông bạn: Chung quận 8, Trần Văn Tuất Mỹ Tho, Bành Ngọc Quí Gò Công, Lâm Phi Ðiểu, hiệu Trưởng trường sư phạm Vĩnh Long, Nguyễn Văn Lễ, giáo sư, con nhà khá giả ở Rạch giá, Nguyễn Hữu Chung, kỹ sư lâm vụ, em chú bác của ông bí thư tôi, ứng cử tại một đơn vị khác ở Saigon. Ðối với Lễ và Nguyễn Hữu Chung, tôi không giúp đỡ tài chánh mà chỉ ủng hộ tinh thần và nhờ bạn bè của tôi yểm trợ họ mà thôi. Kỳ dư đối với những bạn khác, tôi trợ giúp cho kẻ ít người nhiều tùy theo hoàn cảnh và nhu cầu hoạt động của họ.
Tất cả là giáo sư trung học nên may mắn nhờ cha mẹ học trò và học sinh của họ giúp nên cuộc vận động không tốn kém nhiều. Ngoại trừ ông Tuất, người nông dân đứng tuổi có uy tín, có thêm một giáo sư trẻ của trường trung học Nguyễn Ðình Chiểu là Trần Bá Phẩm đứng sau danh sách để nâng sự may mắn thành công của ông Tuất lên cao. Ðiều làm tôi phiền lòng bất mãn về Lý Quí Chung ngay từ những ngày đầu anh tập tễnh bước chân vào chính trường là sau khi anh đắc cử Dân Biểu tại quận 8, do toàn thể cán bộ chương tình hết lòng vận động cho anh, vậy mà sau khi trở thành dân biểu anh không có một lời cám ơn với bất cứ ai trong quận. Bác Sĩ Minh, quản lý chương trình, cảm thấy bất bình, trách nhẹ Lý Quí Chung tại sao không có một lời cám ơn những cán bộ quận đã hết tình giúp đỡ anh. Câu trả lời của Lý Quí Chung làm mọi người sửng sốt: “Tụi toa vận động cho moa là do lệnh của ông Triều chớ đâu có ăn thua gì tới moa đâu”! Câu nói đó làm bác sĩ Minh càng bất bình hơn nữa, anh xin gặp tôi để phân trần. Tôi nổi cơn giận dữ, gọi Lý Quí Chung vào văn phòng trách mắng tơi bời dù anh đã là dân biểu nhưng chưa dám có một lời biện hộ.
Thời gian đó Dương văn Ba, giáo sư trường Trung Học Nguyễn Ðình Chiểu, người Việt gốc Triều Châu mà tôi chỉ biết được khi ở tù chung năm 1983 với một người Triều Châu có bà con họ hàng với anh ta. Do lời giới thiệu của anh Lý Chánh Trung tôi cử Dương Văn Ba làm Ðặc Ủy Viên thanh niên vùng IV Chiến Thuật, thay thế cho anh Lâm Phi Ðiểu, ứng cử Dân Biểu ở Vĩnh Long. Với tư cách là Ðặc Ủy Viên, tôi yêu cầu anh Ba ghé qua các tỉnh miền Tây, nơi có những ứng cử viên do tôi ủng hộ. Có một lần tôi gởi thêm cho mỗi người ba chục ngàn đồng dùng làm vận động phí. Dương Văn Ba đam mê cờ bạc mà tôi không biết, anh ta đã thua hết số tiền tôi gởi cho anh em. Mãi đến khi Bành Ngọc Quí và Lâm Phi Ðiểu kêu vang là đã “cạn dầu”, tôi hỏi ra mới biết là Dương Văn Ba đã giở trò ma giáo. Anh ta liền viết cho tôi một thơ từ chức và nói rằng: “Em là thằng đốn mạt nhứt đời, không còn mặt mũi nào gặp anh nữa, từ nay em sẽ trở về vị trí của một ông giáo làng”...
Tôi gọi Chánh Văn Phòng của tôi, bảo ông ta đi tìm Dương Văn Ba nói với anh ấy rằng: “Bạn bè chỉ cần nhau trong lúc gian nan, cô đơn, nhục nhằn, chớ nếu như mọi chuyện suôn sẻ tốt đẹp hết thì có ai cần ai đâu. Ông hãy bảo Dương Văn Ba lập tức đến gặp tôi. Ngay chiều hôm đó Ba đến tư gia của tôi. Dĩ nhiên, tôi giảng cho anh một bài luân lý nên thân và vạch trần tai hại to lớn nếu tại vì anh phạm sai lầm mà các anh em khác thất cử thì nguy hại vô cùng. Trách mắng xong tôi đưa cho anh chín chục ngàn để giao lại cho Bành Ngọc Quí, Gò Công; Trần văn Tuất Mỹ Tho; Lâm Phi Ðiểu, Vĩnh Long. Tôi còn dạy anh ta phải nói dối để gở danh dự cho mình là phải nói rằng: “Tao bận việc ở Saigon nên xuống văn phòng miền Tây trễ, tụi bây làm gì phải mét với ảnh để cho ảnh lo âu rồi lại giũa tao một trận thê thảm, tiền của ảnh gởi đây, tao có cắt xén đồng nào đâu mà tụi bây vội vàng la hoảng như vậy”.
Lý Quí Chung vào được Quốc Hội, anh hoạt động khá lanh lợi, ăn nói hoạt bát, làm được nhiều việc, cùng với nhóm dân biểu trẻ cảnh cáo hoặc ngăn chận được vài sự lạm quyền quá đáng của cảnh sát hay quân nhân, qua lời phát biểu tại Quốc Hội hay tuyên bố với báo chí. Chung là một con người năng nổ, học ít nhưng tài năng trên mức trung bình, lúc nào anh cũng nghĩ phải kết bè lập đảng. Anh thường đốc thúc tôi phải buộc anh em “ăn thề uống máu với nhau”. Phụ thân tôi có lần nghe được, hết lời can gián. Ông sợ lỡ thề vào giờ linh có thể mất mạng. Tôi chẳng tin thề thốt có ý nghĩa gì cả, vấn đề quan trọng là lòng thành và sự trung tín với nhau do bản chất của con người, xảo trá hay ngay thật mà thôi. Thề thốt xong rồi cũng có biết bao nhiêu người phản bội hay bán đứng anh em.
Hai người mạnh miệng nài nỉ kết thân là Lý Quí Chung và Dương Văn Ba lại là hai người phản bội trước tiên. Kết quả cũng có 9 vị mà tôi không muốn kể tên, hai vị đã qua đời, ăn thề uống máu với nhau mà chẳng làm nên trò trống gì. Thời gian anh Chung còn chưa “đủ lông đủ cánh” thì lúc nào anh cũng tôn trọng tinh thần đồng đội và giữ kỷ luật của tập thể nhỏ bé mà chúng tôi mới tạo dựng. Nhưng đối với con người thiếu đạo đức như anh mà tôi đã có cơ hội nhận xét được qua câu trả lời vô ơn bạc nghĩa của anh với bác sĩ Minh, nên dù anh có thực hiện nhiều công tác đáng khen nhờ sự hăng say, liều lĩnh và sáng kiến, tôi cũng không chỉ định anh đứng đầu khối dân biểu trẻ như anh đã từng khoe khoang trong “hồi ký không tên” của anh, trái lại tôi giao trọng trách nầy cho Dân Biểu Lâm Phi Ðiểu, con người chín chắn, hiền từ, biết hy sinh vì bạn bè nhứt là vì đại cuộc. Anh Ðiểu lại có tài khéo léo, giải tỏa mọi bất đồng, hàn gắn mọi rạn nứt giữa anh em và bao che mọi sai lầm của người khác.
Tôi còn nhớ có một lần các anh phải thảo luận và biểu quyết một điền khoản nào đó của Hiến Pháp mà Lý Quí Chung và Bành Ngọc Quí vì quá nông nổi phát biểu sai lầm tôi bất bình. Sau đó một mình Lâm Phi Ðiểu tới nhà giải thích và chịu mọi sự trách móc. Cuối cùng tôi nói thôi bỏ qua đi, anh về bảo với anh em tôi đã quên việc đó rồi. Anh Ðiểu liền nói: “Tụi nó ngồi trong xe chờ ngoài cửa không dám vô, nhờ tôi đỡ đòn thế, khi nào thuận tiện thì mới vào gặp anh, bằng không thì chuồn luôn chờ khi khác”. Lý Quí Chung là người mà tiếng đời thường gọi là “theo voi hít bã mía”. Chỗ nào có lợi lộc là anh hết lòng phò tá. Cho nên mới đọc sơ vài trang “hồi ký không tên” của anh là tôi đã ngửi thấy mùi nịnh hót cộng sản, bóp méo sự thật để chứng minh cái lý tưởng ba xu, có lẽ của Trần Bạch Ðằng mớm cho anh cũng như cộng sản bóp méo hay sửa đổi lịch sử để biện minh cho cái gọi là “cách mạng” và chế độ cộng sản.
Sự thật anh chưa bao giờ thấy được phòng họp của nội các chiến tranh ra sao mà dám khẳng định rằng “Trung tá Nguyễn Ngọc Loan tự coi mình là nhân vật thứ hai trong chính quyền của Kỳ. Các phiên họp nội các có sự hiện diện của Trung Tá Loan với khẩu súng “Ru-Lô” mang kè kè bên hông”! Sự bịa đặt khôi hài như vậy mà Lý Quí Chung dám viết, tôi không hiểu nổi. (Hồi Ký Lý Quí Chung trang 96). Những sự bịa đặt có tính bôi bác thiếu tư cách của anh không làm tôi ngạc nhiên. Lý tưởng của Lý Quí Chung là tiền bạc, địa vị và...” cái gì khác”. Trong cuộc bầu cử Quốc Hội Lập Pháp cuối cùng năm 1970, Lý Quí Chung công khai tuyên bố: “Nếu Nguyễn Văn Thiệu đắc cử Tổng Thống, anh ta sẽ từ chức Dân Biểu nếu anh cũng đắc cử. Sau đó Thiệu và Chung đều được dân bầu. Báo chí theo hối thúc Lý Quí Chung không ngừng: “Chừng nào ông từ chức”? Anh ta bí lối không biết phải trả lời ra sao cứ hẹn như hẹn nợ. Gặp tôi trong Quốc Hội anh hỏi:
- Ðại ca, bây giờ phải làm sao?
- Có gì khó đâu. Thì cậu trả lời: Chức vụ này của dân bầu, tôi không biết những ai bầu cho tôi, thì bây giờ trả chức này cho ai đây? Vậy tôi không tham gia sinh hoạt quốc hội, không ăn lương của Quốc Hội để phản đối lề lối cai trị của Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu. Anh liền cho phổ biến ngay những lời tuyên bố trên đây. Ấy vậy mà anh ta vẫn lãnh lương đều đều của Quốc hội, đã vậy có nhiều tháng còn mượn lương trước nữa, nhiều Dân Biểu đồng viện của anh hãy còn nhớ điều đó. Vào những tháng Miền Nam đang trên bờ vực thắm, có một ngày Lý Quí Chung xin gặp tôi. Anh yêu cầu tôi chơi một phần hụi ba trăm ngàn đồng, một số tiền khá lớn thời đó. Tôi trả lời: “Từ nhỏ đến lớn tôi chưa từng biết hụi nghĩa là gì và chưa từng chơi hụi với ai, bây giờ cũng không muốn dính vào những gì mình không biết. Anh nài nỉ mãi không được mới thú thật là anh muốn mượn tên tôi để rủ những người bạn của tôi như Trương Thái Tôn, Nguyễn Chánh Lý, là Tổng Giám Ðốc Công ty Mékong và Kỹ Thương Ngân Hàng, các người tên tuổi khác như La Thành Nghệ vân... vân... có tên tôi thì người ta mới manh dạn tham gia. Anh khẳng định muốn mượn vốn làm ăn. Tôi chấp thuận và vươn cổ ra đống tiền, cho đến gần cuối mới hay rằng Lý Quí Chung đã “giựt Hụi”! Tôi điện thoại cho Chung không biết bao nhiêu lần, anh không trả lời, nhắn bao nhiêu người cũng vẫn biệt vô âm tín. Vừa xấu hổ với bạn bè vì họ đã tin rằng Chung là đàn em của tôi nên mới nể tình dính vô vụ hụi nầy, vừa bực mình vì chắc chắn anh đã dùng tên tôi để thuyết phục người khác. Tôi ra lệnh cho văn phòng đưa Lý Quí Chung ra tòa về tội lường gạt. Khi anh thấy nguy hiểm vì có thể bị kết án “lường gạt” anh mới cậy nhờ Hồ Ngọc Nhuận đến văn phòng tôi.
Hồ Ngọc Nhuận là phụ tá đắc lực, là người cộng sự gần gũi tôi nhứt, được tôi tin cậy và thương giúp nhiều. Tôi còn nhớ hồi tôi còn là Chánh sở Thống Kê và Kinh Tế Nông Nghiệp, anh mua đất cất nhà mà còn thiếu hai trăm ngàn đồng. Anh mượn tôi, nhưng tháng đó ngân khoản trong băng của bà xã chỉ còn có một trăm chín mươi hai ngàn. Tôi phải đi vay của bạn bè hai chục ngàn bỏ vào cho đủ số. Khi yêu cầu bà xã ký ngân phiếu cho Nhuận, bà cự nự bảo rằng nếu rủi ro con bị bệnh hoạn đau yếu thì sao? Tôi phải uốn ba tấc lưỡi thuyết phục bả mới chịu ký. Số tiền đó cũng không bao giờ được hoàn lại. Dù Nhuận đã từng là cộng sự viên đắc lực và thân tình, nhưng tôi đã cấm cửa anh ta không cho phép tới lui tiếp xúc với tôi từ năm 1972 vì hai lý do: Nghe lời dụ dỗ của cộng sản tại Paris và đưa một bài báo của cộng sản viết, vào nhựt báo Ðại Dân Tộc do tôi làm chủ nhiệm. Tôi sẽ viết về những sự kiện nầy trên các trang kế tiếp về anh ta. Nhuận xông vào văn phòng tôi mà không hẹn trước vì anh biết chắc tôi không tiếp. Thấy anh tôi vội hỏi:
- Mầy còn đến đây làm gì nữa?
- Tôi đến lạy ông.
- Việc gì phải lạy? Về đi, tao không rỗi rảnh và cũng không còn gì để nói với mầy nữa.
- Tôi lạy ông xin đừng bỏ tù thằng Chung, vì ai cũng biết thằng Chung đã một thời là “em út” của ông, cả xứ đều biết, ông bỏ tù nó cũng bằng bỏ tù chính ông, người ta sẽ cười ông chết.
- Tao bảo mầy đi về. Cô Nga, gọi chú bảy vệ sĩ mời ông Dân Biểu đi ra, tôi không có thì giờ tiếp những người không có hẹn trước.
Nhuận đứng vậy ra về.
Hôm đó là lần đầu tiên tôi gọi Nhuận bằng “mầy”, từ xưa đến nay tôi không hề gọi Hồ Ngọc Nhuận là “mầy tao”, cũng không xưng hô với nhau là “toa moa”, không gọi là “em” mặc dù lúc nào anh ta cũng tự xem mình như em út ruột thịt, nhưng tôi vẫn một mực gọi là “ông” dù là cộng sự viên thuộc cấp. Ngược lại Nhuận cũng không khi nào gọi tôi gì khác ngoài tiếng “Ông”.
Sau khi Hồ Ngọc nhuận ra khỏi văn phòng, suy đi nghĩ lại tôi thấy lời nói của anh không phải là vô lý, nên tôi bèn gọi ông Ðặng Ðình Hải, Chánh Văn Phòng, trước khi ông nầy trở thành ký giả nhựt báo Ðại Dân Tộc và sau là Nghị Viên Hội Ðồng Tỉnh Bến Tre, chỉ thị ông đến văn phòng luật sư yêu cầu bãi nại.
Lý Quí Chung cũng hăng say đứng vào hàng ngũ ban lãnh đạo của Phong Trào Phục Hưng Miền Nam, Phục hưng miền Nam. Miền Nam có nghĩa là cả miền Nam không cộng sản từ sông Bến Hải, chớ không phải tiếng đồn hay dư luận cố tình bóp méo là miền của dân miền tây lục tỉnh. Tôi đỡ đầu phong trào, xin cho họ có giấy phép hoạt động, nhưng tôi không hề có tên trong danh sách đảng viên mà chỉ đứng bên ngoài góp ý, cố vấn, tiếp tay với ban lãnh đạo khi cần. Cũng may cho tôi là khi vào tù cộng sản bị tra hỏi về đảng Phục Hưng ở hải ngoại mà bọn cộng sản cho rằng thoái thân của Phục Hưng Miền Nam, đang tiếp tục chống phá “cách mạng”, tôi thách thức họ tìm trong hồ sơ bộ nội vụ và cảnh sát mà họ khoe khoang là còn đầy đủ, xem có tên tôi trong đảng phái nào không? Trong phong trào Phực Hưng Miền Nam, Lý Quí Chung hoạt động khá hăng hái, góp phần thảo bản tuyên ngôn, lập trường mà chính anh luôn nhấn mạnh là phải minh định lập trường chống cộng sản. Khác với những gì anh gian dối đánh bóng cho tinh thần thiên tả, yêu nước, ủng hộ cái gọi là “cách mạng” của anh. Tôi nhớ có lần anh thố lộ với tôi rằng: “Thằng Hồ Ngọc Nhuận được cộng sản móc nối, nó sẽ là cây dù che cho anh em sau nầy”. Có lẽ vì Hồ Ngọc Nhuận thú nhận với anh ta theo đề nghị của Trần Bạch Ðằng, nên Chung mới biết được cái “tẩy” của Nhuận là có móc nối với tên cộng sản cao cấp nầy. Sự thật cộng sản thừa biết giá trị tinh thần và khả năng trí tuệ của Lý Quí Chung nên họ có cho anh ta một chút xơ múi gì đâu, ngoài cái quán ăn ở câu lạc bộ đường Duy Tân cũ.
Phần tôi, dù được biết biết các anh ấy bắt liên lạc lại với địch, nhưng tôi đã một lần hứa “thằng người của tao không khi nào ra tay giết em út” (xem những trang kế tiếp nói về Hồ Ngọc Nhuận), nên tôi lặng thinh khi nghe Chung khoe như vậy. Vả lại chắc chắn Tổng nha cảnh sát đã biết việc nầy rồi vì văn phòng của Hồ Ngọc Nhuận ở đường Lê Lai có đầy cảnh sát chìm, nổi trong khu vực.
Nói về Dương Văn Ba thì cũng đáng buồn cỡ đó. Sau khi tôi từ chức Tổng Trưởng Thanh niên, chấp nhận đi lính thay vì đi làm Ðại Sứ ở Luân Ðôn như Tướng kỳ đề nghị để lấy lòng và xoa dịu những bạn bè của tôi trong chính trường, có thể bất mãn vì sự từ chức của tôi kéo theo 6 vị Tổng Trưởng khác. Dương Văn Ba cũng trở về dạy học. Ðến khi bầu cử Quốc Hội Lập Pháp tôi thúc đẩy anh ta ra ứng cử ở Bạc Liêu, anh đồng ý mà sự thật anh không dám nạp đơn ứng cử, còn hai ngày trước thời hạn cuối cùng phải nộp đơn, tôi hỏi:
- Ba, cậu có nộp đơn ứng cử không?
- Dạ không.
- Tại sao cậu đã nói bằng lòng trước mặt tôi mà không nộp đơn?
- Em sợ không đủ uy tín ở đó để đắc cử.
- Cậu có còn nghe lời tôi nữa không? Hay là tôi hết chức, cậu coi thường và lời hứa của cậu không có giá trị và danh dự trong đó?
- Dạ em còn nghe lời anh.
- Vậy thì về Bạc Liêu liền, nộp ứng cử Dân Biểu.
Trong kỳ bầu Quốc Hội nầy tôi đề nghị thêm Ngô Công Ðức ứng cử ở Vĩnh Bình quê của anh. Hồ Ngọc Nhuận, Hồ Văn Minh ra ở quận 8. Sau khi có kết quả bầu cử, tôi đã vào trường Võ Bị Thủ Ðức. Lúc nửa đêm Trung Tá Huệ trưởng khối huấn luyện trường Bộ Binh Thủ Ðức là anh rể của Dương Văn Ba đến tìm tôi ở đại đội 3, chở về nhà ông cho Dương Văn Ba và Ngô Công Ðức gặp. Lời nói đầu tiên của Ba là: “Sau khi nghe kết quả đắc cử hình ảnh người đầu tiên hiện trong đầu tôi là anh, từ nay trở đi Võ Long Triều biểu gì tôi cũng nghe theo không suy nghĩ”. Sự viếng thăm đột ngột trong hoàn cảnh khó khăn đặc biệt nầy chứng tỏ lòng thành trong chốc lát của Dương Văn Ba.
Còn sau nầy nhiều chuyện khác tùy theo lợi lộc. Sau khi vào Quốc Hội, ông Nguyễn Cao Thăng Phụ Tá Tổng Thống Ðặc Trách Liên Lạc Quốc Hội, bỏ tiền mua chuộc Dân Biểu để lập một khối “gia nô” và một số Dân Biểu vòng ngoài tùy cơ hội, trong số đó có Dương Văn Ba. Hồ Ngọc Nhuận là người bản chất tốt, ôn hòa, khôn khéo, nên tôi đề nghị anh đóng vai trò phối hợp anh em, nói trắng ra là lãnh đạo nhóm dân biểu thân hữu của mình. Nhuận cho biết là Dương Văn Ba lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng bỏ phiếu những điều khoản nghịch lý, phi dân chủ, hại cho đại cuộc, lợi cho địa vị hay cá nhân Tổng Thống. Anh em đề nghị khai trừ Dương Văn Ba. Tôi gọi Ba đến nhà và hỏi: sự thật anh có lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng không? Anh chối quanh co, cuối cùng phải thú nhận là có. Tôi suy nghĩ, không nên loại bỏ một tay chân hữu ích khi cần, nên tôi đề nghị:
Nếu cậu hứa với tôi sẽ tuyệt đối tuân theo chỉ thị của tôi khi cần thiết thì tôi cho phép cậu lấy tiền của Nguyễn Cao Thăng, nhưng trước khi lấy cậu phải hỏi và được tôi cho phép, tùy theo tầm quan trọng của sự biểu quyết lần đó. Nếu tôi không cho phép cậu phải bỏ phiếu theo khối của anh em, bằng không thì tôi sẽ để cho anh em khai trừ cậu vì lý do lén lút nhận tiền của hành pháp. Nhục nhã đó sẽ làm hư cả đời cậu. Dương Văn Ba đồng ý và tiếp tục sinh hoạt trong điều kiện anh đã hứa với tôi cho đến ngày anh thất cử. Có một lần tôi đang ngồi làm việc, nghe điện thoại reo, đầu dây bên kia tiếng của Dương Văn Ba hổn hển:
- Anh ơi, tôi lỡ nói mấy thằng dân biểu “gia nô” ăn tiền của Nguyễn Cao Thăng, bây giờ tụi nó ào ào, kể cả ông Chủ Tịch, đòi tôi phải vạch mặt chỉ tên người nào chớ tôi không có quyền vơ đũa cả nắm. Báo chí cũng đang vây quanh tôi, phiên họp đang tạm ngưng. Làm sao bây giờ?
- Tại sao cậu ăn nói bừa bãi, kém suy nghĩ như vậy. Bây giờ đã lỡ nói rồi, nhưng có điều chắc chắn là tụi nó ăn tiền thật, vậy thì khi trở vào họp cậu lựa thằng “gia nô” nào yếu ớt nhứt không dám đánh cậu vì bị hạ nhục, thì cứ chỉ đại một tên. Kết quả Dương Văn Ba chỉ đích danh ông Phạm Duy Tuệ, Tổng Thư Ký Quốc Hội, người ốm yếu và là gia nô thật.
Sau khi thất cử Dân Biểu, Ba không có việc làm tôi buộc Ngô công Ðức phải nhận anh vào làm việc trong tờ báo Tin Sáng. Mặt khác tôi nài xin với Anh Trung Tướng Nguyễn Văn Vĩ, Tổng Trưởng Quốc Phòng, cho anh Ba được hoãn dịch hai lần. Anh tiếp tục làm báo kiếm tiền nuôi gia đình. Rồi nghề dạy nghề, Dương Văn Ba trở thành ký giả sáng giá trong tờ báo. Cho đến ngày tôi xuất bản nhựt báo Ðại Dân Tộc, gọi Dương Văn Ba về cùng làm việc với nhóm anh em, Ba yêu cầu tôi phải trả lương cho anh mỗi tháng năm trăm ngàn đồng thì mới về, bằng không anh vẫn làm việc cho Báo Ðiện Tín, thoái thân của tờ Tin Sáng. Số tiền Dương Văn Ba đòi phải trả lớn gấp năm lần hơn lương của một Tổng Thơ Ký giỏi trong làng báo thời đó. Hồ Ngọc Nhuận tức giận tột cùng, nói với Ba rằng: “Mầy dám bỏ lời thề, phản bội anh em, nhưng anh em sẽ không bao giờ phản bội mầy, bây giờ tao hỏi mầy có bằng lòng về làm việc với anh em không? Hay là mầy chỉ biết đồng tiền mà bất kể tình bạn kết nghĩa”?
Câu trả lời của Ba là Không! Về sau năm 1975 tôi nghe nói Dương Văn Ba cấu kết với cán bộ cộng sản Cà Mau khai thác gỗ lậu, bị kết án tử hình, đồng bọn của anh lo lót được giảm án xuống chung thân, rồi cuối cùng được trả tự do. Nghe nói ra tù Dương Van Ba vẫn làm ăn gian dối, nợ chồng chất mướn nhà làm văn phòng, không có tiền trả.
(Còn tiếp)

(Bài 27)
Nói về Ngô Công Ðức, anh cũng thuộc nhóm người trẻ có liên hệ với tôi. Nhiều lần tôi bàn thảo với anh em, làm chính trị phải có vũ khí chính trị. đó là báo chí. Ngô công Ðức nghe nói, khoe rằng anh đã một thời từng làm ký giả cho nhựt báo Trắng Ðen. Dù biết rằng văn hóa của Ngô Công Ðức rất kém, không có được văn bằng tú Tài. Nhưng làm báo chỉ cần biết viết văn nghiêm chỉnh là đủ. Còn kiến thức chính trị văn hóa thì đã có tập thể anh em cùng chung góp sức, nên tôi giao cho anh một triệu năm trăm ngàn đồng, nói là để hùn với anh xuất bản tờ Tin Sáng nhưng thực tế tôi biết anh không có một triệu rưỡi để hùn. Vấn đề đối với tôi không phải là thương mại mà là chính trị, nên tôi nhắm mắt để cho anh toàn quyền chi tiêu. Tôi chỉ đặt Hồ Ngọc Nhuận đứng tên Giám Ðốc Chính trị của tờ báo mà thôi. Tờ báo lời nhiều, nhiều lắm nhưng Ngô Công Ðức không hề chia một cắc lời, thậm chí không trả vốn. Tôi có nhắc một lần nhưng Ðức làm ngơ. Tôi cũng giả vờ không quan tâm vì mục đích xuất bản báo của tôi là để tạo một vũ khí chính trị phục vụ cho lập trường, lý tưởng chứ không phải để kiếm lời. Vả lại lợi tức của trại chăn nuôi, trường anh văn London School, trường mẫu giáo Claire Joie cũng đủ cho việc chi tiêu trong gia đình.
Một điều đáng nói về Ngô Công Ðức là tính anh quá khích và xảo quyệt. Khi Hồ Ngọc nhuận ra ứng cử, thiếu tiền vận động, đến xin tôi. Tôi biểu anh nói với Ngô Công Ðức là tôi yêu cầu đưa cho anh một trăm ngàn đồng. Ðức không chịu đưa. Tôi gọi cả hai anh tới nhà giáp mặt, tôi trách nhẹ là Ðức không trả vốn chia lời cho tôi trong khi tờ báo lời to, tại sao biểu đưa cho Nhuận có một trăm ngàn mà anh từ chối. Ðức hứa trước mặt tôi về sẽ đưa ngay cho Nhuận. Kết cuộc không đưa mà chỉ đưa cho Nhuận chiếc xe La Dalat cũ kỹ để làm phương tiện đi vận động mà thôi.
Một bài báo anh Ngô Công Ðức viết trong mục Thiên Hạ Ðồn Rằng của báo Tin Sáng về “cộng rau muống” ký tên Tư Trời Biển có nội dung diễu cợt người Bắc. Một số Dân Biểu đồng viện của anh phản ứng mạnh, ký giả báo khác cũng chỉ trích nặng nề. Tôi gọi Hồ Ngọc Nhuận về nhà điều tra xem tại sao Nhuận là Giám Ðốc Chính Trị mà để cho sự việc xẩy ra một cách ngu xuẩn như vậy. Nhuận tự bào chữa là vì tin cậy nhau, dù sao Ðức cũng lầm lỡ rồi xin tôi bỏ qua. Ngày hôm sau Ngô Công Ðức viết một bài khác không dám nói trắng trợn tác giả bài báo đó là tôi nhưng ngụ ý quanh co là mục Thiên Hạ Ðồn Rằng và bút hiệu Tư Trời Biển là do tôi đặt ra. Lập tức dư luận cho rằng tôi là kẻ ném đá giấu tay, tôi là người kỳ thị Nam Bắc, mà sự thật là tôi thường ca ngợi tính năng nổ, sinh động của người Bắc và đa số bạn bè của tôi từ Paris về tới Việt Nam là Bắc Kỳ. Bởi tính tôi cũng năng nổ sinh động như vậy, nên kết bạn nhau là thường. Tôi không muốn đính chánh bài viết nầy không phải là của tôi, đồng thời chỉ đích thật tên tác giả của nó, bởi vì tôi không muốn đổ tội cho một thằng đàn em đã làm sai mà không dám nhận để xin lỗi. Hơn nữa tính tôi ngang ngược, bất chấp dư luận đã quen, cộng thêm tinh thần do giáo dục gia đình ảnh hưởng, nên tôi đành làm thinh để mặc cho dư luận muốn hiểu sao thì hiểu. Thực tế tôi không hề có viết một bài nào trong mục thiên hạ đồn rằng và bút hiệu Tư Trời Biển là bút hiệu chung của Ngô Công Ðức, Hồ Ngọc Nhuận hay bất cứ ai viết trong mục đó - Trừ tôi, bởi vì thời đó tôi chưa biết viết báo - Nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận búa rìu của dư luận cho tới ngày nay. Ðiều đó cũng chẳng hại gì đến danh dự và đời sống cá nhân, xã hội hay chính trị của tôi. Nhân sinh quan, lập trường chính trị của tôi rõ ràng cần chi phải đính chánh.
Cái tính xảo quyệt của Ngô Công Ðức có sẵn thời anh còn nhỏ, học ở Trường Saint Joseph Mỹ Tho. Có một buổi “ra chơi” , thầy giám thị (frère surveillant) để quên cái tu-huýt trên ghế, Ðức cầm thổi quét một tiếng lớn, mọi người tưởng tới giờ ngưng chơi đi xếp hàng, thầy giám thị tức giận điên người hỏi:
- Thằng nào thổi?
- Thưa thầy thằng nầy. Ngô Công Ðức vừa nói vừa chỉ anh bạn đứng kế bên. Thầy giám thị liền xáng thằng nhỏ vô tội một bạt tai như trời giáng. Mặc cho sự đôi chối, cũng vô ích, chỉ tội cho thằng nhỏ nầy bị đòn thế cho Ngô công Ðức rồi. Câu chuyện nầy chính Hồ Ngọc Nhuận bạn đồng lứa, học cùng trường với Ðức tại Saint Joseph thuật cho tôi khi tôi trách mắng Hồ Ngọc Nhuận về vụ Ðức viết bài ngu xuẩn mà không dám nhận.
Nhận định về bản chất của Ngô công Ðức tôi xa dần lẩn tránh anh ta một cách nhẹ nhàng, mọi việc giao dịch ít khi tôi trực tiếp mà chỉ qua trung gian của Hồ Ngọc Nhuận thôi. Cho đến ngày 30 Tháng Tư tôi hoàn toàn cấm cửa Ngô Công Ðức, nhưng có một lần khi tôi ra tù anh biết tôi cấm cửa anh nên tháp tùng với người anh rể là Trung Tá cựu Dân Biểu, một đồng viện tôi còn giữ cảm tình, đến nhà thăm tôi với chai rượu chát và hợp fó-mát (fromage) sản phẩm của Pháp quốc. Anh nhắc rằng: Biết tôi thích fó-mát hiệu Camembert nên cố tình đem đến uống với tôi một ly rượu mừng. Tôi từ chối thẳng thừng viện cớ là đau gan bác sĩ cấm rượu, cấm mỡ, cấm kem.
Hồ Ngọc Nhuận là người thuộc đàn em, tôi quí mến vì có tài, có tình, khá lanh lợi, năng nổ nhưng tiếc thay thiếu sự hiểu biết sâu xa về chính trị. Ngày nay viết về anh ta, tôi hối tiếc vì đã mất một người cộng sự đắc lực có khả năng. Tôi buồn gần như mất một người em, một người bạn đồng hành. Tôi bực tức và tự trách chính mình tại sao không cứng rắn đủ với anh ta, không áp dụng một kỷ luật thép đối với những người đồng hành đồng chí đứng trong hàng ngũ của mình. Tại sao tôi không thẳng thừng vạch mặt chỉ tên khi thừa biết họ để cho Trần Bạch Ðằng móc nối trở lại. Thật ra điều nầy Tổng Nha Cảnh Sát và Tình Báo cũng biết. Tôi kể chuyện về Hồ Ngọc Nhuận sau đây với ít nhiều ray rứt trong lòng.
Trong lúc anh giữ chức Tổng Giám Ðốc Thanh Niên của tôi, có lần Tướng Kỳ muốn cải tổ nội các sâu rộng tôi có nhiệm vụ tìm một người thay thế Lâm Văn Trí, Tổng Trưởng Canh Nông mà không một đồng nghiệp nào của tôi chịu nhận. Tôi quyết định chính mình sẽ về nhận Bộ Canh Nông và giao Bộ Thanh Niên cho Hồ Ngọc Nhuận. Tôi bèn gọi anh vào văn phòng thông báo quyết định của tôi. Anh từ chối nói rằng chức vụ đó vượt khả năng của anh ta. Nội chuyện tiếp khách trong và ngoài nước thôi anh cũng không thể chu toàn, huống chi là họp hành nội các, bàn chuyện quốc sự. Tôi cố thuyết phục và gần như chỉ thị ngày mai anh cùng với tôi đi trình diện nội các mới. Anh khẳng định sẽ đào ngũ, ngày mai chắc chắn tôi sẽ tìm anh không ra đâu. Tôi đành phải chịu thua và nhận lãnh sự trách mắng của Tướng Kỳ vì ông bị bắt buộc phải nói lại với Lâm Văn Trí cho ông ta lưu chức. Và cũng vì thế mà Lâm Văn Trí tỏ ý mỉa mai tôi “anh đuổi em không được mà anh”! Sự kiện nầy chứng minh Hồ Ngọc Nhuận không tham quyền, háo danh, chuộng lợi. Nhuận luôn luôn là tay mặt tay trái của tôi trong gần như mọi vấn đề, từ những hoạt động lớn nhỏ quan trọng cũng như không quan trọng. Có một lần phụ thân tôi lưu ý rằng: “Tao coi thằng Nhuận nầy không được à mầy, Thằng nầy có tướng con sâu rộm, là người phản phúc” Tôi không nghe mà còn phản bác lại ông, nói rằng Nhuận là người đã giúp tôi rất nhiều trong mọi hoạt động.
Năm 1973 cuộc đàm phán ở Paris còn đang tiếp tục, Quốc Hội Việt Nam tạm nghỉ, Dân Biểu công du nước ngoài, trong số đó có ba đồng viện, đồng hành, đồng chí với nhau là Hồ Ngọc Nhuận, Ngô Công Ðức và Dương Văn Ba, cùng đi một chuyến sang Mỹ, Pháp, Ðức v.v... Tại Paris Ðinh Bá Thi tìm gặp họ. Theo Lời Hồ Ngọc Nhuận tường thuật lại với tôi là Thi hết lời khen ngợi nhóm của anh ta tiến bộ nhứt miền Nam, là những người yêu nước, là những người sáng suốt nhìn thấy tương lai của dân tộc, là những người ôn hòa không muốn thấy chiến tranh tiếp diễn, muốn tiết kiệm xương máu của đồng bào vân vân và vân vân. Sau những lời bợ đỡ đó Ðinh Bá Thi đề nghị ba vị dân biểu nầy họp báo tại Khách sạn Lutétia, Ðại Lộ Raspail quận VI Paris, và sau đó sẽ mở một cuộc họp báo khác tại Bỉ, trung tâm sinh hoạt của cộng đồng Âu Châu., và một trong ba vị sẽ đọc một bài diễn văn tại Lưỡng Viện Quốc Hội Hoa Kỳ để tuyên bố lập trường của nhóm trí thức và chính trị gia miền Nam. Ba anh bạn trẻ của tôi đồng ý, nhưng phải chờ một người là Hồ Ngộc Nhuận về Saigon thông báo sự việc và hỏi ý kiến tôi là người lãnh đạo nhóm. Thực tế Dương Văn Ba cùng về với Nhuận còn Ngô Công Ðức ở lại Paris chờ.
Một buổi tối vào 9 giờ đêm, có tiếng chuông kêu cửa nhà tôi ở số 28ter đường Mạc Ðĩnh chi, tôi ngạc nhiên thấy Hồ Ngọc Nhuận lù lù bước vào phòng khách. Tôi vội vàng hỏi:
- Ủa mấy ông đi quan sát nước ngoài mà sao về sớm vậy?
- Ðâu có, tụi tôi về để hỏi ý kiến ông.
- Về vấn đề gì?
Mấy ông đang đi du hí du thực mà có vấn đề à. Sắc mặt Hồ Ngọc Nhuận nghiêm chỉnh trả lời:
- Có
Vấn đề gì quan trọng đến nỗi phải hỏi ý kiến tôi. Tôi thành thật xác nhận rằng sinh hoạt nghị trường Quốc Hội thời đó còn rất mới mẻ đối với nhiều vị Dân biểu đàn em, đặc biệt là Dương Văn Ba và Ngô Công Ðức, Hồ Nhọc Nhuận, các anh ấy thường ghé qua nhà tôi ăn sáng khoản 8 giờ mà không cần báo trước. Câu nói đầu môi chót lưỡi là: “Sáng nay vô Quốc Hội nói gì hả ông?”. Những sự bàn bạc đó trở thành thói quen, trở thành lời cố vấn hay chỉ dẫn cho các bạn Dân Biểu của nhóm trong hội trường. Mỗi khi có chuyện gì quan trọng là các anh ấy đều hỏi ý kiến tôi.
Trong lúc Hồ Ngọc Nhuận trình bày chi tiết câu chuyện Paris giữa ba anh và Ðinh Bá Thi thì lại có tiếng chuông ngoài cửa, vài phút sau Dương Văn Ba xuất hiện lúc 10 giờ 20, dáng điệu lo ngại, sợ hãi. Tôi nhớ rõ từng chi tiết bởi vì sự kiện ngày hôm đó in sâu vào đầu tôi và nó theo đuổi tôi mãi mỗi khi có cơ hội nghĩ đến. Tôi hỏi anh Ba:
- Tại sao toa đến khuya vậy? Gặp moa để làm gì?
- Vì tôi hẹn với anh Nhuận tới đây, nhưng thấy cảnh sát chìm theo dõi nên tôi đậu xe ở xa, đường Phan Ðình Phùng rồi mới vòng vo đi mãi tới đây nè.
Sau khi Nhuận trình bày cặn kẽ những gì ba anh em họ nghĩ và kết luận:
- Tôi có hẹn phải gọi điện thoại cho thằng Ðức ngày mai đúng 9 giời bên nầy, báo tin cho nó chuẩn bị rồi chúng tôi sẽ trở qua Paris. Bây giờ ông nghĩ sao?
- Mấy ông không biết gì về cộng sản hết. Tôi cũng không biết! Nhưng ít ra tôi biết tụi nó qua sách vở, còn các ông thì không. Ðiều đó thấy rõ. Thứ nhứt các ông phải biết rằng vô sản không khi nào chấp nhận hợp tác, sống chung với tư sản như chúng mình. Có chăng là giả dối lợi dụng. Thứ hai đối với cộng sản, dòng họ chúng ta là cường hào ác bá. Cha của ông là Cai Tổng Hồ Văn Ðắc, ông già thằng Ðức là Cai Tổng, ông già tôi là cựu Thiếu Tá phó tỉnh trưởng nội an của tỉnh Bến tre. Việt cộng đã nhiều lần treo giá cái đầu của ông già tôi là 5 triệu đồng. Ba tôi chết hụt bốn năm lần do tụi nó giết hụt. Các ông có thấy chuyện tâng bốc chúng mình là tiến bộ là vô lý và giả dối và có ý đồ lợi dụng không? Tôi không đồng ý. Vả lại, chuyện họp báo ở Paris tưởng dễ sao? Tôi sống và học tại đó 10 năm, nói tiếng tây như gió, báo chí Paris cũng từng đề cập đến tên tôi, mà bây giờ biểu tôi tổ chức họp báo chưa chắc tôi làm được. Còn các ông phát ngôn bằng Pháp ngữ như “chà và chóp nói tiếng lèo mà đòi họp báo là cái gì? Tôi không đồng ý. Kêu thằng Ðức về.
Nhuận bảo đảm:
- Mọi việc từ họp báo đến đọc diễn văn trước Quốc Hội Hoa Kỳ đều do Ðinh Bá Thi sắp xếp chi tiết, tụi nầy khỏi lo. Ðấy, thấy không? Như vậy là các ông sẽ họp báo mướn đổi lấy tiếng tăm danh vọng phải không? Dẹp đi tôi không đồng ý. Một sự lợi dụng trắng trợn như vậy mà các ông không thấy thì làm chính trị chính em cái gì? Nếu phải công khai và lớn tiếng tuyên bố lập trường của mình, bộ chúng ta không thể họp báo chí ngoại quốc tại Việt Nam hay sao? Thôi dẹp đi đừng nói chuyện hoang đường với tôi nữa.
Hồ Ngọc Nhuận cố hết sức thuyết phục tôi và luôn luôn nhắc rằng ba anh ấy đã hứa với Ðinh Bá Thi rằng sẽ thuyết phục được tôi dễ dàng. Nhuận và tôi bàn cãi qua lại nhiều, nhiều lắm. Dương Văn Ba thì ngồi im lặng từ đầu đến cuối. Nhuận khăng khăng biện hộ cho cơ hôi họp báo vá phát biểu tại quốc hội Hoa Kỳ. Tôi thì chỉ còn lập đi lập lại một câu: Dẹp đi, tôi không đồng ý. Mãi đến 3 giờ thiếu 12 phút tôi nhìn đồng hồ và kết luận:
- Tụi bây ngày nay có đủ lông đủ cánh hết rồi, muốn tự mình bay thì cứ bay, nhưng tuyệt đối kể từ nay không đứa nào được phép bước chân vào nhà tao nữa. Tao cũng cho tụi bây biết rằng thằng người của tao không khi nào ra tay giết em út. Câu chuyện hôm nay tao giữ kín sẽ không hở môi. Về hết đi”!
Những câu nói nầy của tôi vĩnh viễn không khi nào quên được. Ba và Nhuận ra về, tôi ngồi thừ ra rất lâu. Ðêm trằn trọc không sao ngủ được. Buồn bã đến vã người vì thấy công trình xây dựng gần như đang sụp đổ, bạn bè, em út đứa nào cũng muốn rẽ đường sang ngang. Bực tức vì mình tự trói tay không thể làm cho ra lẽ, gây thành lớn chuyện, thì người cuối cùng gánh chịu nhục nhã sẽ là chính mình. Thất bại về mọi mặt hiện ra trước mắt.
Sáng thật sớm từ trên lầu tôi xuống phòng khách ăn điểm tâm, chợt thấy Hồ Ngọc Nhuận ngồi sù sụ một đống ở đó không biết tự bao giờ.
- Ông còn tới nhà tôi làm chi nữa? Hôm qua tôi đã nói rõ lắm rồi. Về đi.
- Ông đuổi tôi phải không? Tôi biết lỗi rồi mới tới đây, bây giờ ông đuổi tôi là ông chịu trách nhiệm à.
- Tưởng ông nói sao chớ ông nói như vậy thì 9 giờ gọi điện thoại kêu thằng Ðức về. Không có họp báo gì cả.
Ngồi vào bàn ăn, Nhuận mới cho tôi biết tối hôm qua Tổng Thống Thiệu đã tuyên bố tố cáo thằng Ðức là cộng sản.
- Vậy là nó càng phải về ngay. Và trước khi về nó phải tuyên bố với báo chí bên đó là: vì nó không phải là cộng sản nên nó mới về Việt Nam.
Vài ngày sau Ngô Công Ðức về đến Tân Sơn Nhứt, cảnh sát công an của Tổng Thống Thiệu, ăn mặc thường phục, dàn chào, phản đối, chọi nước sơn đỏ vào người Ngô Công Ðức, rồi mọi chuyện cũng tạm lắng. Tôi khuyên Ngô Công Ðức phải về tại đơn vị Vĩnh Bình của anh mở một cuộc họp báo và mời đông đảo ký giả ngoại quốc tham dự. Tại đó chắc không có người giả mạo thường dân để phá phách anh. Sau khi thất cử Dân Biểu, Ngô Công Ðức trốn ra nước ngoài qua ngả Campuchia và bị cộng sản móc nối lại. Ðến sau ngày 30 Tháng Tư, 1975 anh trở về. Thực tế cộng sản cũng biết chân giá trị của anh nên không dành cho anh một chức vị gì ngoại trừ cho chút ân huệ làm báo kiếm tiền trong giai đoạn đầu và buôn bán sơn mài làm giàu vậy thôi.
Hồ Ngọc Nhuận nghe lời tôi ở lại Saigon, hủy bỏ việc họp báo ở Paris, tiếp tục hoạt động trong hàng ngũ anh em cho đến khi tôi xuất bản nhựt báo Ðại Dân Tộc anh chính thức đứng tên là Tổng Thư Ký nhưng thực tế là người tín cẩn như phụ tá chủ nhiệm. Trong thời gian qua tôi yên trí là việc móc nối ở Paris đã coi như thực sự chấm đứt. Không ngờ tại Saigon Trần Bạch Ðằng đã tìm cách liên lạc trở lại mà tôi không hay. Cái lỗi lầm thật đáng trách của Hồ Ngọc Nhuận là đã giấu diếm tôi điều đó. Tại sao lần trước khi Ðinh Bá Thi liên lạc, anh quyết định từ Paris trở về Việt Nam hỏi ý kiến tôi? Tại sao lần nầy anh âm thầm lén lút móc nối Ngô Công Ðức, Lý Quí Chung và Dương Văn Ba. Bởi vì anh biết chắc là tôi lại ngăn cản nữa. Phải chăng khi con người ta có chút quyền hành, danh vọng, tiền tài rồi, thì người ta sẽ dễ hư hỏng, dễ bị cộng sản xúi giục: Phải lộn nài bẻ ống để vươn lên cho bằng, hoặc hơn, người đã từng dẫn dắt mình. Phải vượt ra khỏi tầm kiểm soát của tập thể không tiến bộ theo nghĩa của cộng sản. Lỗi lầm đó của Hồ Ngọc Nhuận, chẳng những đối với tôi không mà thôi, lại còn đối với cả nhóm bạn bè, hay rộng hơn nữa là đối với quốc gia, cho nên tôi khó quên được. Khi tôi còn ở Paris có lần anh Hồ Ngọc Nhuận sang Pháp thăm gia đình anh ấy, sẵn dịp đến thăm tôi. Gặp được cơ hội, tôi xỉ vả anh rất nặng lời, đến nỗi lúc anh sang Mỹ gặp Ðỗ Quí Toàn, anh than rằng: Gặp mấy ông bên nầy, mấy ông còn hỏi thăm gia đình sức khỏe, còn gặp ổng (Triều) ở Paris, ổng chửi tôi từ đầu hôm đến sáng sớm, suốt cả đêm. Ðó là sự thật mà Ðỗ Quí Toàn thuật lại khi gặp tôi. Bây giờ nghĩ lại tôi cũng thấy mình hơi quá đáng, bởi lẽ tôi tin chắc khi Nhuận gặp lại tôi trong lòng ông ta đã thấy hối hận rồi, cần gì tôi phải nặng lời với anh.
Ngày phi cơ Mỹ giội bom lầm tòa Ðại Sứ Pháp gây thiệt mạng cho ông Ðại Sứ Sussini, Hồ Ngọc Nhuận xin tôi để cho anh viết bài xã luận “Viết Cho Bà Sussini”. Dĩ nhiên không những tôi đồng ý mà còn mừng vì mình rảnh tay được một việc. Trước khi đưa báo lên khuôn tôi kiểm lại những bài có tính cách chính trị thì đi từ ngạc nhiên đến ngỡ ngàng, tôi đọc bài xã luận ký tên Hồ Ngọc Nhuận thấy có rất nhiều từ ngữ mà ký giả miền Nam mình thời đó không có dùng. Lời văn hoàn toàn khác lạ không phải của Hồ Ngọc Nhuận, ý nghĩa không phải vì bất bình mà là tố cáo. Tóm lại tôi hồ nghi bản văn nầy do người ngoài gài vô cho Nhuận. Tôi bèn nhớ lại chuyện Paris. Bực bội trong lòng nhưng cũng lấy hết kiên nhẫn ngồi sửa lại từng câu từng chữ. Cố tình “lách” tránh để cho bản văn không bị liệt vào “làm nguy hại an ninh quốc gia” hay mạ lỵ các đấng chỉ huy cao cấp. Nói sửa nhưng gần như viết lại toàn bộ bài xã luận. Hai giờ trưa tôi mới ăn cơm xong, định nằm nghỉ, thì điện thoại của anh quản lý cho biết báo bị tịch thu. Tôi hỏi:
- Tịch thu vì lý do gì?
- Bài Xã luận của Hồ Ngọc Nhuận.
- Tôi đã sửa chữa lại hết rồi? Tịch thu vì câu nào? Chữ nào?
- Tịch thu vì toàn bộ bài xã luận.
Tôi đâm nghi nên yêu cầu đưa về cho tôi xem liền một bản. Rõ ràng là nguyên văn bài xã luận của người khác viết, y như bài đầu tiên của Nhuận đưa ra. Người đó là ai, ngoài tay nào nội tuyến của cộng sản? Tôi lập tức ra lệnh cho Lê Xuyên triệu tập phiên họp toàn bộ nhân viên tòa soạn lúc 3 giờ, kể cả “xếp ti-pô” (trưởng ban sắp chữ), đặc biệt ông phụ tá Nhuận phải có mặt.
Ðúng 3 giờ tôi đến tòa soạn có đông đủ mặt nhân viên. Kể cả Hồ Ngọc Nhuận ngồi đó với 3 chai la-ve hiệu 33 để trước mặt. Tôi hỏi Lê Xuyên tại sao có sự tráo bài của chính tay tôi sửa. Anh bảo rằng bài của tôi sửa xong đưa liền xuống cho thằng Út, xếp ti-pô sắp chữ. Tôi hỏi Út thì anh ta khai rõ ràng minh bạch: Tụi em đang sắp được một phần ba bài, ông phụ tá Nhuận đột nhiên xuống bảo đưa cho ông ta coi lại bản văn em mới đưa theo lệnh. Ông bảo em chờ một chút rồi ông lại đưa một bản văn khác biểu em phải bỏ đoạn trước sắp lại hết. Em đâu có dám tráo đổi gì đâu. Công việc quá rõ ràng, không ai hiểu ất giáp gì cà chỉ riêng có một mình Nhuận và tôi hiểu được mà thôi. Nhuận ngồi lặng thinh không có một lời biện hộ hay phát biểu. Tôi tuyên bố ngắn gọn, giọng cứng như thép: Kể từ nay không ai có quyền gì trong tờ báo nầy nữa. Không ai có quyền sửa lại một dấu chấm hay phết của chính tay tôi viết ra.
- Mọi người nghe rõ rồi chứ? Nếu nghe rõ thì cuộc họp đến đây chấm dứt.
Ngày hôm sau tôi vào văn phòng thấy thơ từ chức của Hồ Ngọc Nhuận để sẵn trên đó. Tôi cầm bút phê thuận không ngần ngại, không bực tức và từ đó đường ai nấy đi.
Ngày nay viết lại sự thật về một số những bạn đồng hành thời trước, có đôi khi tôi dùng lời lẽ hằng học, nhưng nó diễn tả tâm tư thật của tôi trong thời điểm đó. Bây giờ ở thời điểm tuổi 73, quĩ thời gian đã vơi quá nhiều, tôi điểm lại những bài học của thời son trẻ, thấy rất thấm thía, nhưng tiếc thay không ai có thể đi ngược lại được thời gian.
(Còn tiếp)
Với chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương Nguyễn Cao Kỳ

Tôi quí trọng Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ, vì chẳng những ông đã cố tình mời tôi tham gia nội các của ông, trong khi tôi là người chống đối ông nhiều nhứt trong lần tiếp xúc đầu tiên như đã viết ở đoạn trên, mà ông còn tin cậy tôi hoàn toàn như một người bạn đồng hành, theo đuổi cùng một chí hướng. Ông đối xử với tôi có phần đặc biệt hơn những vị Tổng Trưởng khác, theo nhận xét của Ðại Tá Phan Văn Minh, Chánh Văn Phòng Ðặc Biệt và sau là Ðổng lý của Tướng Kỳ. Nhiều vị Tổng Trưởng khác xin yết kiến đôi khi ông không tiếp, còn tôi thì muốn gặp ông bất cứ lúc nào cũng được.
Khi Tướng Kỳ gặp việc rắc rối, hay quan trọng ông thường gọi tôi lên Phủ Thủ Tướng để chia sẻ sự bực bội của ông hay để hỏi ý tôi về một việc gì mới xảy ra. Ân tình đó tôi luôn ghi nhớ. Ngày nay ông và tôi đã rẽ ngã, mỗi người một hướng đi, dù cả hai đều nhìn về tương lai đất nước với một hoài bão: Làm sao cho dân giàu nước mạnh. Tôi vẫn giữ mối cảm tình đặc biệt đối với Tướng Kỳ, nhưng không còn liên lạc với ông như trước kia nữa. Bởi vì ông và tôi không còn gì để nói với nhau trong bối cảnh và tình thế này. Ðêm hôm trước ngày ông bước chân lên máy bay về Việt Nam, ông có trao đổi ý kiến với tôi qua điện thoại, ông nói: “Moa về bên đó, có gì hay ho sẽ điện thoại cho toa”. Nhưng sau khi ông tuyên bố những điều bất lợi cho danh dự ông, cho đồng đội, đồng hành và cả cho đất nước, tôi nói với người trong gia đình và bạn bè: “Chắc ông Kỳ sẽ không điện thoại cho tôi đâu, mà nếu có, chắc tôi cũng sẽ không trả lời”.
Tình cảm của Tướng Kỳ dành cho tôi thể hiện qua nhiều sự việc, đặc biệt là qua nhiều bữa cơm trưa tại phủ Thủ Tướng với mắm thái Châu Ðốc, chỉ có hai người tâm sự với nhau về những khó khăn của ông trong việc đương đầu với thời cuộc, về những toan tính của ông trong tương lai ngắn, dài. Tình cảm đó còn thể hiện qua một buổi chiều khoản 6 giờ tan sở, đường dây điện thoại trắng đặc biệt trực tiếp với Thủ Tướng reo, tôi cầm ống nghe:
- Triều đó hả?
- Dạ, tôi nghe đây Thiếu Tướng.
- Lên đây có chuyện này hay lắm này.
Tôi vội vã đi, vừa thấy tôi bước vào phòng, Tướng kỳ vui vẻ nói:
- Này, mời cậu về nhà tớ khai trương hồ tắm và sân quần vợt. Chơi xong, ăn cơm rồi về.
Tôi nhìn thấy còn rất nhiều chồng hồ sơ dồn đống trên bàn nên ngay tình nói:
- Hồ sơ của anh cả chồng, xem cho hết đi rồi mình về.
- Ê, làm việc thì cũng phải nghỉ xả hơi chứ.
- Ngài Chủ Tịch của tôi ơi, tôi nghe nói ông Diệm làm việc 13 giờ một ngày, không biết có đúng không? Tụi mình làm việc theo giờ hành chánh thì làm sao ngài đạt mục đích “đội đá vá trời” của ngài được?
Tôi từ chối không tham gia cuộc vui chiều hôm đó. Khi chúng tôi bước xuống nấc thang cuối cùng của bao lơn phủ Thủ Tướng, ông Kỳ còn quay sang tôi nói:
- Cho phép toa nói lại một lần nữa, đi hay không? Lên trực thăng về với moa.
Tôi lại từ chối, không phải vì không muốn tham gia cuộc vui này mà vì muốn chứng minh tôi thuận lý với tôi khi nói không làm việc theo giờ hành chánh. Thời đó Tướng Kỳ di chuyển bằng trực thăng, từ trại Phi Long đến phủ Thủ Tướng. Những chuyện nhỏ nhặt chứng tỏ tình bạn giữa Tướng Kỳ và tôi thời đó có nhiều. Bây giờ nghĩ lại thấy buồn vì bất đồng chính kiến mà bạn bè phân chia.
Hình như mỗi con người khi trời giao phó cho họ một nhiệm vụ, nói nôm na là định mệnh đặt họ vào một chức vị nào đó thì Thượng Ðế cũng ban cho họ một khả năng để chu toàn trách nhiệm trong giai đoạn. Tôi tin Tướng Kỳ là một con người như vậy. Tôi nhớ trước khi Tướng Kỳ viếng thăm nước Mỹ năm 1966, ông Philippe Habib, cố vấn chính trị tòa Ðại Sứ Hoa Kỳ đến văn phòng tôi yêu cầu một việc, ông nói:
- Ông Thủ Tướng của ông sắp viếng thăm nước Mỹ, dĩ nhiên là ông ta sẽ tiếp xúc với các nhà báo ở câu lạc bộ báo chí. Ông thừa biết rằng báo chí Mỹ thường moi móc những chuyện ly kỳ, giựt gân về chiến tranh Việt Nam. Chúng tôi biết ông là bạn của Tướng Kỳ, chúng tôi cũng biết ông Kỳ coi trọng ý kiến của ông. Việc này ngoài ông ra chắc không ai dám khuyên ông ấy đâu, nên chúng tôi muốn nhờ ông một việc.
Tưởng cũng nên nhắc rằng những người bạn Mỹ của chúng ta luôn theo sát hoạt động của giới chính trị miền Nam, nên ai bạn ai, ai chống ai họ biết rõ.
- Việc gì mà ông cố vấn phải rào đón nhiều vậy?
- Xin ông vui lòng nói với Thủ Tướng của ông, đừng dùng Anh ngữ để đối đáp với báo chí Mỹ, nếu lỡ lời hay nói sai đường lối, sai việc gì mình có thể đính chánh rằng người thông dịch nói sai hoặc hiểu sai. Báo chí Mỹ họ xoi bói, thêu dệt, đặt điều dữ lắm. Mình phải dè dặt.
- Tôi hiểu rõ điều đó. Ða số chính trị gia hay lãnh tụ các nước đều dùng tiếng bản xứ để diễn tả ý kiến của mình. Ðó là chuyện thường. Ông cố vấn đừng ngại. Tôi tin ông Thủ Tướng của chúng tôi hiểu việc này. Dù sao thì tôi cũng sẽ gặp ông ấy để trình bày và góp ý.
Một ngày sau cuộc viếng thăm nước Mỹ của Tướng Kỳ, ông Philippe Habib trở lại văn phòng tôi mà không xin hẹn trước. Ông phải ngồi chờ gần 15 phút. Thấy ông bước vào, tôi chưa kịp xin lỗi vì để ông phải chờ lâu. Ông ta đưa tay ngửa mặt lên trời nói:
- Nhờ trời ông ta vượt qua cuộc thi mà còn được chấm hạng ưu. Tôi hơi nghi ngờ nhưng vẫn sửng sốt hỏi?
- Cuộc thi nào? Ai thi?
Ông ác quá, tôi đã nhờ ông khuyên bạn của ông là đừng dùng anh ngữ khi tiếp xúc với báo chí mà ông ta sử dụng tiếng Anh suốt thời gian họp báo. May mắn cho chúng tôi, và cho ông ta nữa, là báo chí khen ông ấy đáo để. Nếu ông biết trong lúc ông ấy tiếp xúc với báo chí chúng tôi lo lắng như thế nào thì ông mới thông cảm. Một sự lỡ lời của ông ta, chúng tôi phải giải thích như thế nào với dân chúng Hoa Kỳ? Với quốc tế?
Tôi thú thật với ông là tôi đã có bàn việc này hai lần với Thiếu Tướng Kỳ và còn nhắc lại trước khi ông ấy lên đường đi Mỹ. Nhưng ông thừa biết, Tướng Kỳ có thường hành động theo ý riêng của ông ấy, khó có ai khuyên giải được. Dù sao điều đó chứng tỏ ông Thủ Tướng của chúng tôi cũng có tài phải không? Ông cố vấn Habib và tôi chia tay nhau trong sự vui mừng của đôi bên. Khi tôi báo lại việc này cho Tướng Kỳ nghe, ông nói đùa một câu: “Mấy anh có phục tôi không”?
Nhân vụ Tướng Kỳ “cương” trong khi tiếp xúc với ký giả Mỹ, tôi nghĩ đến những chuyện quốc gia đại sự. Ðối với những người khiêm tốn thì cho rằng vấn đề chính trị là ngoài tầm tay và ngoài sự hiểu biết của họ. Ðối với những người tự phụ kiêu căng thì nghĩ rằng họ có thừa khả năng cán đáng việc đó. Ðối với những người mang đầy mặc cảm, tự ti cũng như tự tôn, thì cho rằng đó là trò múa rối của bọn chính trị gia, thấp kém hơn họ nhiều, không đáng tin cậy, nhưng sự thực chính họ là những con rối của xã hội mà họ không biết. Thực tế ngồi vào ghế lãnh đạo quốc gia phải có một chút tài, chút đức, chút sáng suốt hiểu biết về chính trị, kinh tế, xã hội, chút lòng yêu nước thương dân, một ý chí hy sinh cao thượng nào đó. Nếu có đủ hay thừa thì là nhà lãnh đạo tốt. Nếu không có hay thiếu nhiều thì là nhà lãnh đạo hại dân hại nước. Hoặc do trời ban cho một sự sáng suốt nào đó để chu toàn trọng trách khi phải theo con đường định mệnh, như Nguyễn Cao Kỳ trong thời điểm 1965-1968.
Một ý nghĩ sai, một sự đắn đo nhút nhát, một mưu đồ xấu, sẽ tai hại vô cùng. Cũng có khi đất nước đến thời suy hay mạt vận, cơ trời xui khiến có người lãnh đạo bất tài. Ðời tôi có được may mắn quen biết khá nhiều với ba vị lãnh đạo quốc gia Nguyễn Cao Kỳ, Nguyễn Văn Thiệu và Trần Văn Hương. Sự kiện tôi chấp nhận phục vụ dưới trướng Nguyễn Cao Kỳ và từ chối tham gia hợp tác với Nguyễn Văn Thiệu, qua sứ giả và bào huynh của ông là Nguyễn Văn Kiểu, chứng tỏ tôi thương ông Kỳ, và bất phục ông Thiệu. Nói rõ tâm tư của tôi không cần che dấu là vì hoàn cảnh chính trị ngày nay buộc tôi phải phê phán và chỉ trích ông Kỳ, cũng vì hoàn cảnh chính trị ngày xưa mà tôi chống đối ông Thiệu, hay không còn sát cánh với ông Hương, là người mà tôi tháo gỡ tình trạng giam lỏng của ông ở Vũng Tàu trong biệt thự của cố Tổng Giám Mục Ngô Ðình Thục và đã tổ chức vận động cho ông ra ứng cử Tổng Thống năm 1967.
Khi tôi nhận lời tham gia nội các, tháng 2 năm 1966, Tướng Kỳ có nói với tôi:
- Dư luận bên ngoài đồn rằng nội các này chỉ tồn tại 2 tháng, anh có dám vào không?
Tôi cười nói:
- Một hoặc hai ngày, nếu cần làm việc gì mà lương tri chỉ mình phải làm, thì cứ làm, huống chi là hai tháng. Nói mà chơi chớ thời buổi này nội các chỉ đổ bằng một cuộc đảo chánh thôi, mà anh là Tư Lệnh Không Quân, khó có ai cưỡng được bom đạn của anh trên trời rơi xuống thì anh còn ngại gì. Vả lại người Tây phương thường nói: “Người nào nắm giữ thủ đô là người đó nắm giữ cả xứ”. Vậy anh chỉ cần đặt một người thân tín nhứt của anh làm tư lệnh vùng III chiến thuật là an toàn.
- Người thân tín nhứt cùng học trường Bưởi với tôi ngày xưa là Chuẩn Tướng Nguyễn Bảo Trị, Tư lệnh sư đoàn 7 đóng ở Mỹ Tho.
- Thì móc lon cho ông ấy lên Thiếu Tướng.
- Nhưng toa không biết trong quân đội hơn nhau chẳng những trên cấp bực mà còn qua thâm niên quân vụ nữa. Làm sao Tướng Trị chỉ huy được các ông Thiếu Tướng hay Trung Tướng khác?
Vậy tôi xin hỏi cấp bực anh là gì? Tại sao anh đứng đầu cả xứ trong đó có quân đội. Vấn đề là chỉ huy bằng chức vụ, không bằng cấp bực. Tổng Thống De Gaulle chỉ là Thiếu Tướng, Tổng Thống Nasser chỉ là Ðại Tá thôi.
It lâu sau Tướng Nguyễn Bảo Trị được vinh thăng Thiếu Tướng và được bổ nhiệm vào chức vụ Tư Lệnh Quân Ðoàn III, sau đó ông là Tổng Trưởng Thông Tin trong nội các chiến tranh. Với tư cách là Tư Lệnh, Tướng Trị có quyền sinh sát trên tòa án quân sự vùng III. Một hôm ông Kỳ gọi tôi lên phủ Thủ Tướng gấp.
- Ông Tư Lênh vùng III cho biết bắt được một tàu buôn thuốc bắc lậu rất lớn, việc này có trực tiếp dính đến ông Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ Tướng của mình. Toa nghĩ sao? Xử hay không xử?
Tôi thấy việc này quan trọng quá, nếu xử thì khủng hoảng nội các, mang tiếng với quốc dân, xáo trộn trong quân đội bởi lẽ Tướng Có còn nhiều tay em nắm giữ nhiều chức vụ quan trọng trong quân đội. Nếu không xử thì mình giẫm chân lên lập trường và lý tưởng của mình. Theo tôi thì tạm thời giả dại qua ải rồi tùy thế, tùy thời anh liệu mà xử lý về sau. Anh hỏi thì tôi phải nói ý tôi, chứ sự thật chỉ có một mình anh lượng định tình hình và lấy quyết định mà thôi, không ai có thể xía vào chuyện này được. Dù thế nào tôi vẫn ủng hộ quyết định của anh.
Chuyện buôn lậu được bỏ qua, về sau có một vụ buôn vãi lậu ở Biên Hòa dính dán Tướng Có, cũng bỏ qua. Nhưng kết cuộc Tướng Có bị buộc phải lưu vong ở lại Hong Kong sau một chuyến đi ngoại quốc.
Nội các chiến tranh và miền Trung rối loạn
Trở lại chính trường Miền Nam thời gian 1966 vô cùng xáo trộn. Phật Giáo và Công Giáo chống đối nhau tạo thành những thử thách cho chính phủ. Thiếu Tướng kỳ nhiều lần thương lượng với quý vị Thượng Tọa Thích Thiện Hoa, Thích Tâm Giác,Thích Huyền Quang và một vài vị khác nhưng kết quả, theo lời tường thuật của tướng Kỳ, vẫn còn đe dọa đến sự tồn tại của nội các chiến tranh. Tôi ngây thơ tưởng mình khôn lan nên “phán”:
- Tại anh không đủ khéo léo hoặc không chịu giãi bày cặn kẽ những khó khăn.
- Thì cậu giỏi thử nói chuyện với mấy ông ấy xem nào?
- Nếu anh đồng ý thì anh phải thông báo cho mấy ổng rằng anh cho phép tôi đại diện.
- Tôi sẽ báo với họ.
Tôi yêu cầu anh Trần Văn Lộc, Công Cán Ủy Viên của tôi, tự xưng là đệ tử của Thượng Tọa Thích Thiện Hoa, tổ chức cho tôi gặp quý vị thượng tọa tại tư gia của anh. Trong hai lần tiếp xúc với các vị đó, cho dù tôi có nhẹ giọng, giải thích tận cùng nhu cầu ổn định, khó khăn đang phải đương đầu với cộng sản, sự nguy hại vì kẻ địch đang lợi dụng tình hình để trà trộn và xách động vân.... vân, tôi chỉ nghe đi nghe lại một câu: Nếu chính phủ không bằng lòng như vậy, không làm như vầy, thì sớm muộn chính phủ cũng phải đổ. Tôi đành ghi nhận sự thất bại của mình có lẻ còn thê thảm hơn Tướng Kỳ đã gặp phải, cho nên khi tôi báo cáo lại với Tướng Kỳ, ông cười chế nhạo, mỉa mai:
- Ủa vậy sao? Toa vẫn khoe mình tài ba, khôn khéo mà?
- Tôi thú nhận mình vừa ngây ngô vừa chủ quan, xin Thiếu Tướng thông cảm và bỏ qua cho.
Tình thế mỗi ngày một xấu đi, Tín đồ Phật Giáo biểu tình liên tục. Từ Saigon lan ra Ðà Nẵng, Huế. Cường độ chống chính phủ ngày càng tăng. Tình hình chính trị ở miền Trung trở nên nguy hiểm. Tướng Nguyễn Chánh Thi, Tư Lệnh vùng I chiến thuật hình như làm ngơ, không bày tỏ một thái độ nào để giải quyết tình hình. Thái độ và hành động của Tướng Thi, Tư Lệnh Quân Ðoàn I buộc chính phủ phải thay thế ông, nhưng nếu bứt sợi dây Nguyễn Chánh Thi, sợ động khu rừng miền Trung đang sắp cháy lớn. Vì vậy, Chủ tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương phải đánh lừa Tướng Thi bằng cách mời ông về Saigon họp Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia. Khi về tới sân bay Tân Sơn Nhứt, Ðại Tá Loan chờ sẵn và thông báo quyết định của chính phủ đưa ông đi Mỹ tị nạn với lý do là để chữa bệnh. Giấy thông hành và chiếu khán nhập cảnh có sẵn. Ông phải lựa chọn hoặc đi Mỹ hoặc vào quân lao. Dĩ nhiên ông chọn biệt xứ còn hơn đi tù. Trong khi chờ đợi và thương lượng tại phòng khách danh dự, báo chí hỏi ông đi Mỹ chửa căn bệnh gì? Ông trả lời một cách mỉa mai là “bệnh thúi mũi”! Sau đó hội đồng Tướng Lãnh và Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia mới nhóm họp quyết định với 32 phiếu thuận và 4 phiếu trắng cho Tướng Nguyễn Chánh Thi nghỉ việc. Tướng Kỳ cử Thiếu Tướng Nguyễn Văn Chuân Thay thế. Hơn một tháng sau Tướng Tôn Thất Ðính thay thế Tướng Chuân.
Có lẻ cũng nên đi ngược dòng thời gian một chút mới lý giải được tại sao miền Trung đang ngầm cháy qua những cuộc biểu tình, tuyệt thực, đình công, bãi thị, thì lại thêm lon dầu đổ ụp vào, nên phát cháy ngày càng dữ dội như vậy. Lon dầu đó là lời tuyên bố thiếu kiểm soát của Tướng Nguyễn Cao Kỳ, Chủ Tịch Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương trong một cuộc họp báo tại Tổng Tham Mưu về hiện tình đất nước. Cuộc họp báo có sự hiện diện của toàn thể thành viên Ủy Ban Lãnh Ðạo Quốc Gia và Ủy Ban Hành Pháp Trung Ương. Cuộc họp báo kết thúc tốt đẹp, các tướng lãnh có trách nhiệm điểm qua tình hình, trình bày biện pháp ổn định và trả lời những câu hỏi của đông đảo ký giả trong và ngoài nước. Thành viên dân sự không có ai phát biểu. Mọi người đứng dậy ra về, đột nhiên có một nhà báo hỏi câu bằng tiếng Việt, không biết người đó là thông dịch viên của báo ngoại quốc hay ký giả báo Việt Nam:
- Thiếu Tướng nghĩ gì về bác sĩ Nguyễn Văn Mẫn, Thị Trưởng Ðà Nẵng?
- Thằng đó là cộng sản!
Tức thì đèn flash của máy ảnh chớp lia lịa, đèn pha của ống kính truyền hình phựt sáng, ký giả nhôn nhao hỏi tiếp. Chung quy hỏi về thái độ của trung ương và biện pháp đối phó. Xong cuộc họp báo tôi bảo tài xế đưa về trại Phi Long, đến tư dinh của Thiếu Tướng Kỳ. Vừa bước vào nhà, tôi thấy ông mặt hơi buồn, lộ vẽ lo âu. Tôi cũng không muốn nhồi cho nặng thêm về câu nói sơ ý, lỡ lời của ông. Tôi chỉ hỏi sơ qua ông nghĩ gì và ý định trong tương lai? Ông cũng chẳng thèm giải thích vắn dài chỉ buông trỏng một câu: “Ðằng nào thì cũng phải đối phó với tình hình”. Sau khi bàn sang chuyện khác cho có lệ tôi kiếu ông ra về. Những ngày kế tiếp, nghĩ đến phản ứng dấy lên từ nhiều nơi, tôi rất lo nhưng mọi biện pháp đối phó ở ngoài tầm tay của tôi trong lúc đó.
Nhân cơ hội này, thiết tưởng cũng nên nói về Bác Sĩ Nguyễn Văn Mẫn, để mọi người hiểu rõ về một nhân vật không giống như báo chí hay người ngoài tô vẽ về ông. Tôi quen biết BS Mẫn Giám Ðốc bệnh viện Huế trong một cuộc hội thảo tại Huế do ông và một số giáo sư, trí thức Huế và Saigon tổ chức. Ðề tài thảo luận về chiến tranh Việt Nam. Câu hỏi đặt ra: cuộc chiến nầy là chiến tranh ý thứ hệ hay chiến tranh huynh đệ tương tàn? Kết luận là chiến tranh ý thức hệ. Mẫn là con người ham vui, người bạn tốt, không thích chính trị, chỉ thích cờ bạc vui chơi với bạn bè thôi. Mẫn và tôi trở thành đôi bạn chí thân, xưng với nhau mầy tao như thuở còn đi học ở trường, mặc dù anh và tôi không phải là đồng song. Sau biến cố miền Trung, anh rất sợ hãi. Anh thuật lại đầu đuôi chi tiết rõ ràng anh không phải là chính trị gia, càng không phải là cộng sản. Trong một buổi tiếp tân, Trung Tướng Nguyễn Chánh Thi nói chuyện với anh và bày tỏ:
- Tôi đang cần một ông Thị Trưởng Ðà Nẵng. Tôi cử anh về đó nhé.
- Không được Trung Tướng. Tôi không biết chính trị mà cũng không thích chuyện đó. Ðối với tôi giám đốc bệnh viện là an nhàn, sung sướng lắm rồi.
- Tôi cho anh hai con đường phải lựa chọn: một là Thị Trưởng Ðà Nẵng, hai là Bác Sĩ Quân y.
- Trung Tướng nói chơi hay nói thật?
- Nói thật.
- Tôi là chuyên viên đâu cần phải đi lính.
- Ði lính rồi biệt phái hay không còn tùy bộ y tế và bộ quốc phòng.
- Vậy thì tôi chọn Thị Trưởng Ðà Nẵng.
Ông Thị Trưởng tay mơ, điều khiển một thị trấn phức tạp biết nghe ai cố vấn bây giờ?
Mẫn nói với tôi:
- Tao mặc kệ để cho mấy thằng đàn em làm sao thì làm. Phần tao vui chơi qua ngày, về Huế gặp anh em hoài tao thấy cũng vui. Cho đến ngày ông Kỳ tố tao là cộng sản. Thì rõ ràng tao hết đường chạy rồi. Tao liều mạng chỉ thị cho đài phát thanh Ðà Nẵng quay về hướng chính phủ Saigon chửi xả láng, mấy anh tranh đấu lợi dụng ăn có thả giàn. Kết cuộc đêm đó tao biết tin Saigon sẽ ra đánh chiếm, tao ra ngoài bờ ruộng trốn tránh, không ngờ súng nổ tứ phía, tao đầu hàng và bị bắt. Cầm lấy cái chết trong tay tao thấy nó lãng nhách. Nhưng biết làm sao? Thôi thì lỡ rồi thí mạng cùi luôn. Ngày hôm sau họ giải tao về Saigon, có hai toán lính khác nhau canh chừng. Một là cảnh sát hai là quân cảnh. Ði trên máy bay quân sự tao tin chắc, nửa đường họ sẽ đạp tao xuống, thủ tiêu không dấu vết. Vì vậy tao van xin mấy anh lính: Tôi van xin các anh, trước khi đạp tôi rơi xuống đất xin các anh làm phước bắn vào đầu tôi một viên, nhiều viên càng tốt, để tránh tình trạng lỡ rơi xóc vào ngọn cây bị thương lơ lửng giữa trời đau khổ lắm.
- Chúng tôi không đạp Bác Sĩ xuống đâu. Chúng tôi có nhiệm vụ giải giao và bảo vệ bác sĩ đến nơi đến chốn.
Về Saigon tòa xử Nguyễn Văn Mẫn tử hình. Bạn thân của Mẫn là anh Nguyễn Văn Trường, đương kim Tổng Trưởng Giáo Dục thời đó, xin được phép thăm Mẫn lần cuối. Trước khi đi anh Trường còn cho tôi biết và dặn dò nếu có gì bất trắc xẩy ra cho anh thì tôi phải can thiệp với Tướng Kỳ ngay, bởi vì ai cũng biết Tướng Nguyễn Ngọc Loan hành động ẩu tả theo hứng, bất cần luật pháp. Mẫn bị nhốt trong xà-lim không biết ngày, biết tháng, biết giờ, nằm chờ chết. Gặp Nguyễn văn Trường, Mẫn vô cùng mừng rỡ và cảm động. Mẫn hỏi xin Trường chiếc đồng hồ đang đeo trên tay để biết được ngày giờ. Trường lột cho.
Tuy nhiên, án thì án vậy thôi chứ Mẫn không bị hành quyết cho đến ngày được Thủ Tướng Trần Văn Hương ân xá. Sau khi được thả, Nguyễn Văn Mẫn tiếp tục vui chơi không cần biết chính trị chính em gì cả. Lời tố cáo của Thiếu Tướng Nguyễn Cao Kỳ hại Bác Sĩ Mẫn bị kết án tử hình vì tội cộng sản. Do đó bọn cộng sản lợi dụng, tưởng Bác Sĩ Mẫn là “phe ta” thật, nên cứ rình mò đến nhà Mẫn ở đường Tự Ðức, rủ rê ra “bưng” gia nhập kháng chiến! Mẩn sợ hết hồn, ỡm ờ viện dẫn đủ mọi lý do để từ chối, lại còn khuyên bọn người nầy không nên trở lại vì anh đang bị chính quyền theo dõi.
Sự thật chuyện của Mẫn đã qua rồi, hành động vui sống và xa lánh chánh trị của anh rõ ràng, nên không còn ai để ý tới anh nữa. Còn phía Việt cộng thì không chịu buông tha anh, cứ tới lui khuyến dụ. Về sau này gặp Mẫn khi anh sang sống tại Paris, Mẫn khai thật với tôi:
- Hôm nào tao đánh phé ăn thì tao cho họ vài ba chục ngàn nói là để ủng hộ kháng chiến, hôm nào tao không có tiền thì than thở, nài nỉ họ biểu đừng tới nữa, nếu cảnh sát khám phá ra thì chắc tao sẽ bị tử hình thật. Ðến tháng 4 năm 1975, Vũ Văn Mẫu cũng tưởng Mẫn là cộng sản hay ít ra cũng có liên hệ với họ nên đã mời anh ta giữ chức Phó Thủ Tướng được một hai ngày.
Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, nhờ sự giao dịch và ủng hộ tiền mà Mẫn được “báo công” và cộng sản Hà Nội cho anh ta tiếp tục làm việc tại bệnh viện Sùng Chính dưới quyền của một Bác Sĩ “i-tờ-rít”, luôn mồm nói: Mọi việc đều nhờ BS Mẫn giải quyết. Cùng lúc đó Mẫn được cử làm đại diện công đoàn của công nhân bệnh viện. Do đó Mẫn nhận được mọi sự dễ dãi, nên anh ta mới lợi dụng cơ hội để vượt biên. Mẫn vượt biên trên dưới gần chục lần. Có khi bị bắt chịu tù đày, bệnh hoạn, ghẻ chốc còn để nhiều thẹo bầm đen trên mình, có khi thoát thân được trốn chui trốn nhủi. Năm 1992 Mẫn và tôi gặp lại nhau bên Pháp, nhờ nghe tên tuổi tôi trên đài phát thanh RFI (Radio France Internationale), Mẫn cười nói với tôi rằng Hai lần anh ta trốn ở Saigon là đến nhà tôi ở, ngủ trong phòng ngủ của tôi bởi vì anh nghĩ: “Tao ngủ trong phòng ngủ của mầy là an toàn nhứt, bởi vì tụi nó đã bắt mầy đi tù rồi thì còn ai dám vào nhà mầy nữa? Vì nghĩ như vậy tao ăn ở đó thoải mái và tìm đường được đường vượt biển nữa”. Tôi nói với Mẫn:
- Hèn chi khi tao được trả tự do về nhà thấy hai quyển sách hồi ký của Thủ Tướng Anh quốc Wilston Churchil mất. Tao hỏi mấy đứa con tại sao mất? Tụi nó nói không biết bác Mẫn có lấy không, bởi vì bác có ở trong phòng của ba hai lần, chứ tụi con không có cho ai mượn cả.
Bác sĩ Mẫn tốt nghiệp Ðại Học Y Khoa Toulouse, Pháp, nội trú bệnh viện (interne des hopitaux) thời đó là thuộc hạng bác sĩ giỏi. Nhưng lần nầy, khi trở lại Pháp ông nổi tiếng nhờ hành nghề châm cứu và ông cấm bệnh nhân của ông dùng thuốc tây. Tiếng tăm lừng lẫy, thân chủ đông nghẹt, nên Mẫn có biệt danh là bác sĩ làm phép lạ “Docteur Miracle”.
Cái chết của Mẫn tại Pháp cũng lạ thường. Anh đau tim trầm trọng, không ăn uống hơn một tháng, chỉ sống dai dẳng bằng nước thuốc chuyền vào máu, cho đến khi các giáo sư thượng thặng bó tay, khuyên gia đình đem ông về nhà lo việc mai táng. Tôi vào nhà thương thăm, anh tỏ vẻ cảm động nói: “Ít ra trước khi chết tao cũng gặp được mặt mầy”. Gia đình đưa Mẫn về nhà, tôi phụ giúp lo việc hậu sự cho anh. Mẫn bảo với vợ rằng anh thèm phở quá, trước khi chết muốn ăn một tô phở thật ngon. Gia đình thỏa mãn yêu cầu. Ăn vào thấy khỏe, dù bác sĩ cấm và anh cũng biết là ăn vào có thể chết ngay. Ngày hôm sau anh lại đòi một tô phở nữa, gia đình cũng chìu ý. Mẫn thấy người khỏe lại hẳn, nhưng vì là Bác Sĩ, nên anh biết rõ đó là việc không nên, do đó Mẫn ngưng ăn phở ngay và tự giới hạn chuyện ăn uống tối đa cho đến khi bình phục khá nhiều, anh trở lại bệnh viện tái khám. Bác Sĩ và Giáo Sư y khoa đã từng chữa bệnh cho anh ngạc nhiên không biết vì sao? Không thể tìm hiểu lý do nào đã làm cho anh lành bệnh?
Trong khi đó thì phòng mạch của anh đã “sang bán” cho người ta vì gia đình tin tưởng anh sẽ qua đời. Bây giờ phải mướn lại một nơi khác để hành nghề được hơn ba năm nữa. Mẫn và tôi thường gặp nhau những chiều thứ bảy, nhưng hôm đó tôi thấy sức khỏe anh suy yếu nhiều, hai đứa tâm sự đến khuya, tôi bắt tay từ giã, Mẫn kéo tôi ngồi xuống nói: “Mầy không ở chơi với tao được vài giờ nữa sao? Tao buồn quá”! Lời nói cuối cùng. Mấy hôm sau khi tôi đang ở Bruxelle, Bỉ quốc, Nguyễn Văn Phát con trai của Mẫn, gọi điện thoại báo tin: “Ba vào nhà thương khẩn cấp, sắp lâm chung”. Tôi vội vã về Paris, tới bệnh viện, Mẫn nhìn tôi nước mắt trào. Chiều hôm đó Mẫn về với chúa. Tôi mất đi một người bạn tốt, người bạn đã từng mang tiếng oan là chính trị gia thân cộng sản.
(Còn tiếp)
Tướng Kỳ ổn định tình hình Miền Trung bằng vũ lực
Trong những cuộc biểu tình hung hăng ở miền Trung, nhiều nơi xuất hiện “Ủy Ban Nhân Dân Cứu Quốc”. Lực lượng an ninh của ta bắt được một số sĩ quan VNCH nội gián. Nhiều lần phi cơ của không quân có gắn bom đầy cánh bay sà trên đầu người biểu tình như một cách khuyến cáo. Tướng Walt của TQLC Mỹ dọa sẽ bắn hạ những phi cơ VNCH nào can thiệp vào tình hình miền Trung và tướng Walt đòi gặp tướng Kỳ.
Tướng Nguyễn Cao Kỳ gọi tôi vào dinh và cho tôi biết tin này trong sự bực tức và bối rối. Tôi nghe qua góp ý liền:
- Mình cứ thách thức thử xem Tướng Walt dám thực hiện lời hăm dọa của ông ta không. Ðồng thời, báo cho ông ấy biết ông chỉ nói chuyện với Tổng Thống Johson mà thôi. Tướng Walt không đủ tư cách để hầu chuyện với ông. Mặt khác tôi đề nghị Thiếu Tướng gọi cho ông Bác sĩ Trần Văn Ðỗ, Tổng Trưởng Ngoại Giao của mình triệu kiến Ðại sứ Cabod Lodge đúng cung cách ngoại giao chứ không mời mọc gì cả. Ông phải “mắng vốn” với ông Lodge về vụ này bằng lời lẽ càng nặng càng tốt.
Tôi ngồi thảo luận về tình hình với Tướng Kỳ độ 20 phút, Thiếu Tá Liệu vào thông báo: Ðại Sứ Lodge xin được gặp. Tôi chào ông Ðại Sứ và bước ra phòng tùy viên ngồi chờ. Ðộ nửa giờ sau Ðại Sứ Lodge ra về, tôi vào hỏi Tướng Kỳ:
- Thế nào?
- Ông ta xin lỗi trối chết.
Tuần lễ sau Tướng Walt bị thuyên chuyển về Mỹ không khi nào trở lại.
Trên đây tôi chỉ trích dẫn một vài điểm chính trong quyển sách của Ðoàn Thêm để chứng minh tình hình chính trị của thời điểm đó vô cùng hỗn độn, và nếu đọc hết quyển “Việc Từng Ngày” của Ðoàn Thêm năm 1966 sẽ thấy những chuỗi ngày xáo trộn đó rất nguy hại chẳng những cho sự tồn tại của nội các mà còn có nguy cơ bị Cộng Sản lợi dụng xâm nhập tràn lan hoặc cướp chính quyền ở nhiều nơi. Bằng cớ là thông qua ngôn ngữ họ dùng như “Tranh Thủ Cách Mạng, Nhân Dân Cứu Quốc” rất xa lạ với lời lẽ thông thường của người miền Nam sử dụng trong những cuộc biểu tình chống đối. Rõ ràng tình trạng vô cùng nguy ngập. Nguy ngập đến độ một đại diện Quốc Dân Ðảng từ Quảng Ngãi vào xin gặp tướng Kỳ, yêu cầu chính phủ cung cấp súng đạn cho đảng viên ở miền Trung để chiến đấu với Cộng Sản đến cùng nếu bọn chúng cướp chính quyền. Nguy ngập đến độ Tướng Kỳ xiêu lòng nói: “Chính phủ không có quyền cung cấp súng cho đảng phái này mà không cho đảng phái khác. Nhưng trong kho của quân đội có một số súng carbine mà bây giờ không còn sử dụng nữa, chúng tôi có thể giả vờ làm ngơ, hẹn với các ông một địa điểm nào đó rồi trực thăng bỏ rơi súng đạn xuống, các ông tự động lượm về mà dùng”. Vị đảng viên này tỏ vẻ hài lòng sung sướng cám ơn ra về. Tôi đưa ý kiến:
- Nếu đông đảo đảng viên Quốc Dân Ðảng có trang bị vũ khí thì sau cơn hỗn loạn được bình định rồi, mình có thể tước vũ khí của họ được không? Thiếu Tướng suy nghĩ kỹ xem.
- Ừ nhỉ, cũng không phải vô lý.
Tôi chỉ biết câu chuyện tới đây, còn về sau Tướng Kỳ quyết định như thế nào, có cung cấp vũ khí cho Quốc Dân Ðảng hay không? Bí mật đó tôi không được biết.
Phải chăng là Việt Cộng toan tính dựa vào hỗn độn để cướp chính quyền thời gian đó không thành nên họ phải chờ đến Tết Mậu Thân mới tổng tấn công. Trong tình thế khẩn cấp, chính phủ không còn đường lựa chọn. Vả lại Tướng Kỳ cũng đã từng tuyên bố một hai lần sẽ dùng biện pháp mạnh nếu cần.
Việc đầu tiên là phải cử tân Tư Lệnh Vùng I sau khi đẩy tướng Nguyễn Chánh Thi ra khỏi quyền lực. Tướng Kỳ nghĩ rằng chọn một ông Tướng theo đạo Công Giáo thì có thể tin cậy được. Do đó ông gọi Tướng Huỳnh Văn Cao đến phủ thủ tướng. Hôm đó cũng có sự hiện diện của tôi, sau khi Tướng Kỳ thông báo ý định giao chức Tư Lệnh Quân Ðoàn I cho ông, Tướng Huỳnh Văn Cao đứng phắt dậy chào nói: “Tôi xin tuân lệnh chính phủ”. Việc đó được thực hiện đúng theo quyết định của Tướng Kỳ. Nhưng không ngờ sự kiện xảy ra vô cùng bi đát. Thực tế diễn biến ra sao tại Bộ tư lệnh quân khu I, tôi không biết chi tiết, chỉ biết rằng Tướng Huỳnh Văn Cao không dám thi hành được lệnh tướng Kỳ giao cho mà lại đi lánh mặt trong văn phòng của cố vấn quân sự Mỹ. Hậu quả là sau khi tình hình được ổn định, Huỳnh Văn Cao bị đưa ra tòa quân sự mặt trận để lãnh án.
Trung Tướng Nguyễn Hữu Có, Phó Thủ Tướng kiêm Tổng Trưởng Quốc Phòng, khẳng định ông là đàn anh của Ðại Tá Ðàm Quang Yêu, đề nghị để cho ông ta bay ra Ðà Nẵng giải quyết mọi việc. Tướng Kỳ đồng ý, hy vọng ông Có sẽ dùng tình cảm và uy tín để thuyết phục nhóm quân nhân gây loạn ở miền Trung. Không ngờ Tướng Có vừa tới Ðà Nẵng bị Ðàm Quang Yêu bắt quản thúc tại Văn Phòng. Chính phủ Trung ương bị bó tay.
Mọi biện pháp đối phó, mọi phương cách giải quyết vấn đề trong cơn hỗn loạn này không hề được bàn thảo trong nội các. Ðiều đó chứng tỏ nội các không phải là một nhóm người đồng tâm chia sẻ cùng một lập trường, một chí hướng. Sống trong hoàn cảnh đó mới thông cảm được sự cô đơn của Tướng Kỳ và thán phục lòng can đảm ý quyết đoán của ông trong tình thế nguy ngập. Khoảng thời gian này, Tướng Kỳ thường gọi tôi lên phủ thủ tướng, hoặc để chia sẻ lo âu, hoặc để hỏi ý, bàn chuyện. Có một ngày ông lộ bí mật, căn dặn phải giữ kín, dù căn dặn thừa nhưng ông vẫn lập đi lập lại. Sau đó mới nói:
- Moa quyết định đưa quân ra tái chiếm Ðà Nẵng.

No comments:

Post a Comment