"Ba đi đây, để gặp thằng Duy Quang..."
Nhac sĩ Duy Cường cho biết từ mấy tháng nay sức khỏe của nhạc sĩ Phạm Duy đã yếu dần, anh thường xuyên đưa ba mình vào bệnh viện nhưng không ngờ lần này bệnh lại trở nặng.
Nhạc sĩ Duy Cường, con trai nhạc sĩ Phạm Duy bùi ngùi nhớ lại những kỷ niệm về ba - Ảnh: Hoàng Quyên |
“Tôi nghĩ có thể ba không chịu được cú sốc về cái chết của anh Duy Quang. Ở thời điểm đó, ba tôi rất tinh tường, thậm chí còn biết tin đó trước cả tôi. Mặc dù ba cố giữ bình tĩnh nhưng tôi biết bên trong là những đợt sóng ngầm và ba đang rất suy sụp vì điều đó”, nhạc sĩ Duy Cường ngậm ngùi chia sẻ.
Ca sĩ Ánh Tuyết cho biết khi đến thăm nhạc sĩ Phạm Duy gần đây, cô cũng nhận ra sự rắn rỏi của người nghệ sĩ ngoài 90 tuổi này, khi ông cố nén đau thương để nghĩ về những dự án âm nhạc của mình.
Nhạc sĩ Duy Cường còn chia sẻ thêm: "Ba tôi lúc nào cũng lạc quan. Ông bảo mình đã sống một cuộc đời đầy đủ, trọn vẹn và rất mãn nguyện. Ông còn dặn dò phải chôn ông gần mẹ tôi. Điều đó tôi sẽ thực hiện được...".
Nhạc sĩ Duy Cường cho biết vì nhạc sĩ Phạm Duy tuổi tác đã cao nên gia đình cũng đã sớm chuẩn bị tinh thần. Gần đây anh đã chuẩn bị được một nơi thích hợp cho ba mình an nghỉ nếu chẳng may có chuyện.
Ca sĩ Ánh Tuyết không nén được xúc động khi nhắc đến nhạc sĩ Phạm Duy - Ảnh: Hoàng Quyên |
"Nơi đó là nghĩa trang Công viên Bình Dương. Đó là một nơi thanh bình, đẹp, rộng rãi và quan trọng là ba được gần mẹ", nhạc sĩ Duy Cường chia sẻ.
Dù đã chuẩn bị trước nhưng gia đình nhạc sĩ Phạm Duy cũng không tránh được cú sốc khi ca sĩ Duy Quang, con trai trưởng của nhạc sĩ Phạm Duy chỉ mới mất chưa được 49 ngày. "Câu nói cuối cùng mà ba tôi nói trước khi qua đời là "Ba đi đây, để gặp thằng Duy Quang...", anh Duy Cường chia sẻ.
Sau khi qua đời tại Bệnh viện 115 (TP.HCM) chiều nay 27.1, nhạc sĩ Phạm Duy đã được gia đình đưa về nhà.
Thông tin về đám tang nhạc sĩ Phạm Duy
Lễ nhập quan lúc 9 giờ ngày 28.1 tại nhà riêng (đường Lê Đại Hành, Q.11, TP.HCM).
Lễ động quan: 7 giờ ngày 3.2 . An táng tại nghĩa trang Công viên Bình Dương
|
Thiên Hương - Hoàng Quyên
Sáng chủ nhật 27-1 vào Bệnh viện 115 thăm, thấy ông vẫn còn rất minh mẫn dù đang thở oxy. Ông nhận ra từng người, nói mình khỏe và cười khi nghe "thế nào cháu cũng đến chúc tết bác".
Là người Hà Nội, xuất hiện trước công chúng bao giờ ông cũng thật tinh tươm, vì thế khi ý thức tình trạng tiều tụy của mình, trong bệnh viện bao giờ ông cũng "xin lỗi tôi không tiếp chuyện lâu được" trước những người vào thăm, đặc biệt là với phụ nữ.
15g, nghe tin ông đã mất... Bên mình không một người thân...
Nhạc sĩ Phạm Duy qua đời
Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5-10-1921 tại Hà Nội, từ trần lúc 14g30 ngày 27-1-2013 (nhằm 16 tháng chạp năm Nhâm Thìn).
Tang lễ tổ chức tại tư gia, 349/126 Lê Ðại Hành, P.15, Q.11, TP.HCM. Lễ nhập quan lúc 9g ngày 28-1-2013 (nhằm 17 tháng chạp năm Nhâm Thìn). Lễ động quan lúc 6g ngày 3-2-2013 (nhằm 23 tháng chạp năm Nhâm Thìn). An táng tại hoa viên nghĩa trang Bình Dương.
|
Là hàng xóm của ông từ thập niên 1960, quan tâm đến ông từ lúc ông bắt đầu nộp đơn xin về nước, theo ông suốt chuyến đi xuyên Việt thực hiện bộ phim tài liệu Phạm Duy - nhạc & đời (*) do tôi viết kịch bản với đạo diễn Ðinh Anh Dũng, làm MC trong nhiều chương trình của ông ở các cà phê sách Phương Nam..., giờ phút này tôi chỉ ấn tượng nhất về ông hai điều:
Thứ nhất, tôi chưa thấy người cha nào thương con bằng ông (lẽ dĩ nhiên còn vô số người cha thương con không kém ông, nhưng tôi chưa được gặp). Tám đứa con, nhắc tới đứa nào là mắt ông cũng sáng lên, giọng đầy tự hào. Ông chăm chút từng chút cho mỗi người, đến mức tôi luôn ngạc nhiên khi họ đã lớn vậy mà vẫn để cho ông phải lo như một đứa trẻ. Mỗi một sô của ông, thậm chí ông còn lo vé cho từng đứa con trở về. Nghề nghiệp của con cái đều do ông quyết định và xây đắp...
Ðối với ông, con cái là mối quan tâm lớn nhất. Chính tay ông đã dẫn dắt tất cả những người con của mình vào con đường âm nhạc. Dạy từng nốt nhạc, từng cách hát. Sáng tác cho con và vì con.
Với ông, những đứa con mãi mãi vẫn bé bỏng như những đứa trẻ. Dù đó đã là danh ca Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo vang bóng một thời, dù đó đã là Duy Cường tài hoa nổi tiếng. Hơn 80 tuổi, khi ca sĩ Duy Quang mở phòng trà, đều đặn mỗi tối ông vẫn đến để giúp con tiếp khách, góp ý biên tập chương trình. Hơn 90 tuổi ông vẫn chưa yên tâm vì còn vài người con chưa lập gia đình hoặc còn phải mưu sinh khó khăn. Mấy tháng trước, ngay cả lúc bệnh nặng, gặp người vào thăm, ông chẳng lo gì bản thân mà cứ nằn nì nhờ cậy tìm cách chữa chạy cho ca sĩ Duy Quang đang bị ung thư. Dù đã tuổi cao, sức yếu, hơi tàn ông vẫn yêu thương, lo lắng, chăm sóc cho từng người con, từng chút một. Một tình yêu thương vô bờ bến.
Chính vì biết ông rất thương con như vậy nên hơn một tháng trước đây, ngày 19-12-2012, khi người con trai cả của ông là ca sĩ Duy Quang mất vì bệnh ung thư ở Mỹ, thoạt đầu đã không có ai dám báo tin cho ông. Nhưng rồi ông cũng phải biết, bình tĩnh đến đáng ngạc nhiên. "Tôi không đau ở đây - ông đặt tay lên đầu - mà là đau ở đây - lên tim". Trái tim già nua và sử dụng hết công suất hơn rất nhiều người ở tuổi ngoài 90 có lẽ đã quá tải với cơn đau ấy. Một tháng qua ông phải vào bệnh viện mấy lần và cuối cùng đã gục ngã.
Ðiều thứ hai tôi ấn tượng về ông là về sức làm việc. Con số hơn 1.000 ca khúc để lại chưa đủ cho thấy sức làm việc đáng nể của người nhạc sĩ này. Mấy năm nay đến nhà, tôi luôn thấy ông thường ngồi trước máy vi tính. Ông nói: "Tôi mắc bệnh... nghiện làm việc, dù sức khỏe không còn được như xưa. Lúc trước tôi ngồi năm tiếng trước máy, giờ thì chỉ hai tiếng phải nghỉ tí rồi mới làm tiếp được". Trở về VN sau 30 năm sống tại Mỹ, ông vẫn tiếp tục công việc sáng tác, phổ nhạc, viết sách. Ông đang thực hiện một quyển sách tập hợp các kinh nghiệm mình học hỏi được trong nhiều năm ở xứ người, cũng như toàn bộ tinh hoa ông chắt lọc được trong hành trình đến với âm nhạc. Ðồng thời, ông còn dự định cho phát hành quyển sách mang tên Vang vọng một thời viết về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời các ca khúc của mình. Một sức làm việc và một tình yêu với công việc của đời mình thật đáng nể. Ði sô với ông, bao giờ tôi cũng thấy trước đó có vẻ như ông đang mệt hết hơi, chỉ cần tới giờ phải ra sân khấu là lại tươi tỉnh, tinh tươm và hoạt bát đầy năng lượng! Lòng yêu nghề và sức làm việc ấy là một bài học lớn cho tôi.
*
Thêm một ngày chủ nhật buồn!
Chợt nhớ tới lời Việt mà ông viết - có ai tìm ra nhạc sĩ nào của VN viết nhạc phổ thơ và viết lời Việt cho ca khúc nước ngoài hay bằng ông? - cho bài Sombre dimanche (**):
Chủ nhật nào tôi im hơi
vì đợi chờ không nguôi ngoai
bước chân người
nhớ thương tôi
đến với tôi thì muộn rồi
Trước quan tài khói hương mờ
bốc lên như vạn ngàn lời
dẫu qua đời mắt tôi cười
vẫn đăm đăm nhìn về người...
Trong Phạm Duy - nhạc & đời, ông cho biết mình thích nhất Tình ca trong những ca khúc đã viết, rồi nói về cái chết của mình: "Mộ tôi sẽ nằm trên môi những người hát Tình ca. Cứ mỗi lần có ai hát bài này, tôi tin là mình đang được tái sinh trong lòng họ".
Vâng. Trước quan tài khói hương mờ, ngày mai đây và nhiều ngày sau nữa sẽ vẫn còn rất nhiều người hát: Tôi yêu tiếng nước tôi, từ khi mới ra đời... Ðể tin ông sẽ còn sống rất lâu trong lòng người yêu nhạc VN.
(*) Bộ phim tài liệu này chưa phát hành.
(**) Ca khúc gốc Szomorú Vasárnap của nhạc sĩ Rezso Seress (Hungary) viết năm 1932 đã từng khiến nhiều người tự tử khi nghe
Chiều 27-1, nhạc sĩ Phạm Duy đã trút hơi thở cuối cùng tại Bệnh viện 115, TPHCM sau 3 ngày nhập viện cấp cứu. Hiện người nhà ông đang làm thủ tục để chuyển thi hài người nhạc sĩ tài hoa về nhà lo việc an táng. Sự ra đi của người nhạc sĩ được xem là ông hoàng viết tình ca đã khiến cho các nghệ sĩ, ca sĩ thương xót.
Nhạc sĩ Phạm Duy (ảnh Thanh Hiệp)
NSƯT, ca sĩ Hồng Vân: “Người nhạc sĩ lãng tử”
NSƯT, ca sĩ Hồng Vân
Tôi rất buồn vì một nhân tài đã nằm xuống, một người mà vùng trời âm nhạc của ông đã khắc ghi trong tâm tưởng những người yêu âm nhạc những rung động thật đẹp. Nếu làm một bài tổng kết bạn sẽ nhận thấy rằng lời ca của nhạc sĩ Phạm Duy, từ việc ông phổ thơ cho đến ông sáng tác đã làm cho tiếng Việt đẹp hơn, phong phú hơn và ngôn từ đó đã thay lời muốn nói, gắn kết những tâm hồn, những con tim yêu lại bên nhau.
Với ông tôi có nhiều kỷ niệm. Thời trẻ khi tôi vừa lập gia đình, ông xã tôi là một nhà văn nên quen biết ông, đưa tôi đến nhà ông để thăm viếng. Sau này khi tôi gia nhập Ban tam ca Đông Phương (cùng với Thu Hà, Tuyết Hằng), gia đình ông mở phòng trà Đêm màu hồng, thì ngoài các giọng hát chính ở đó như ban Thăng Long của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh…thì ban tam ca của chúng tôi được mời hát chen vào chương trình.
Hầu hết những bài hát mang âm hưởng dân ca của ông chúng tôi đều hát và được tập dợt rất kỹ. Tôi nhớ như in những bài phối của ông và cách ông hướng dẫn chúng tôi hát, diễn đạt đúng tâm trạng bài hát và nét duyên dáng của một ban tam ca qua: Chiều về trên sông, Tình tự tin, Em bé quê, Vợ chồng quê, Tình nghèo….
Năm 2005, ông hồi hương, ngày đầu tiên mở tiệc chiêu đãi bạn bè, tôi có mặt bên bàn tiệc ấm cúng thân hữu và nghe ông nói chuyện xa xứ, hoài mong ngày về và được gặp những đứa cháu yêu làm văn nghệ, trong đó có tôi. Ngồi cạnh Julia – cô con dâu của ông – vợ của cố ca sĩ Duy Quang, chúng tôi đã được ông gắp thức ăn, tận tay chăm sóc bữa ăn như một người cha lo cho con gái. Hồn nhạc của ông vẫn luôn ám ảnh tôi, bầu trời âm nhạc từ nay thiếu vắng nụ cười và ánh mắt của người nhạc sĩ sống một đời lãng tử.
Với ông tôi có nhiều kỷ niệm. Thời trẻ khi tôi vừa lập gia đình, ông xã tôi là một nhà văn nên quen biết ông, đưa tôi đến nhà ông để thăm viếng. Sau này khi tôi gia nhập Ban tam ca Đông Phương (cùng với Thu Hà, Tuyết Hằng), gia đình ông mở phòng trà Đêm màu hồng, thì ngoài các giọng hát chính ở đó như ban Thăng Long của nhạc sĩ Phạm Đình Chương, Hoài Trung, Hoài Bắc, Thái Thanh…thì ban tam ca của chúng tôi được mời hát chen vào chương trình.
Hầu hết những bài hát mang âm hưởng dân ca của ông chúng tôi đều hát và được tập dợt rất kỹ. Tôi nhớ như in những bài phối của ông và cách ông hướng dẫn chúng tôi hát, diễn đạt đúng tâm trạng bài hát và nét duyên dáng của một ban tam ca qua: Chiều về trên sông, Tình tự tin, Em bé quê, Vợ chồng quê, Tình nghèo….
Năm 2005, ông hồi hương, ngày đầu tiên mở tiệc chiêu đãi bạn bè, tôi có mặt bên bàn tiệc ấm cúng thân hữu và nghe ông nói chuyện xa xứ, hoài mong ngày về và được gặp những đứa cháu yêu làm văn nghệ, trong đó có tôi. Ngồi cạnh Julia – cô con dâu của ông – vợ của cố ca sĩ Duy Quang, chúng tôi đã được ông gắp thức ăn, tận tay chăm sóc bữa ăn như một người cha lo cho con gái. Hồn nhạc của ông vẫn luôn ám ảnh tôi, bầu trời âm nhạc từ nay thiếu vắng nụ cười và ánh mắt của người nhạc sĩ sống một đời lãng tử.
Nhạc sĩ Phạm Duy và ca sĩ Ái Vân trong một đêm nhạc do phòng trà Tiếng xưa tổ chức
NSƯT, ca sĩ Thanh Thúy: “Tôi đến nhạc ông muộn, nhưng chan chứa nỗi niềm”
NSƯT - ca sĩ Thanh Thúy trong chương trình Tình ca Phạm Duy
Dù "sinh sau đẻ muộn" nhưng tôi thấy mình may mắn khi được tiếp cận âm nhạc của ông một cách rất ấn tượng. Đó là dịp mùa xuân cách đây 3 năm, ca sĩ Duy Quang tổ chức tại phòng trà “Tình ca” 4 đêm nhạc với chủ đề Tình ca Phạm Duy. Tôi lo lắng lắm, vì từ lâu rồi thích được hát nhạc của ông nhưng lại sợ chất giọng mình không phù hợp. Anh Duy Quang đã động viên tôi và tôi đã đến tập với ban nhạc. Hồi ấy tôi được giao hát ba bài của ông: Thương ai nhớ ai, Vợ chồng quê và Đưa em tìm động hoa vàng.
Đêm đầu tiên hát xong không nghe ông nói gì, dù ông ngồi lặng lẽ ở một góc phòng trà. Đến đêm thứ hai, ông nhận xét trong ba bài, tôi đã gây ấn tượng cho ông với bài Đưa em tìm động hoa vàng. Ông nói rất thích cách thể hiện có sáng tạo riêng, dù thăng hoa nhưng vẫn trong khuôn khổ cho phép. Tôi đã biết phiêu linh theo cảm xúc của mình, nhất là khi hát nốt mi, kết dài trường độ nhưng vẫn giữ được nhịp và có những dấu ấn riêng.
Ông hỏi: “Liệu con hát được nhiều hơn không ca khúc của bác?”. Từ sau lời khen và động viên đó, tôi quyết định thực hiện Album Cỏ hồng gồm 8 ca khúc. Đó là một kỷ niệm để đời trong tôi khi nói về ông, người nhạc sĩ gây ấn tượng với tôi qua tư cách hiền hòa, nhã nhặn. Ông luôn công nhận sự sáng tạo của các ca sĩ và quý trọng sự sáng tạo đó.
Nhạc sĩ Phạm Duy và giáo sư nhạc sĩ Tô Vũ
Ca sĩ Cẩm Vân: “Tình ca của ông bất hủ theo thời gian”
Ca sĩ Cẩm Vân (ảnh Đoàn Khoa)
Tôi tham dự một chuyến lưu diễn mừng sinh nhật 93 của ông ở Cần Thơ, Huế, TPHCM, đó là chuyến đi chia sẻ những tâm tư tình cảm của người nhạc sĩ đón nhận cuộc sống hết sức an nhiên. Tôi nói thế vì nhìn ông không nghĩ ở tuổi 93, mà gần như ông trẻ hóa mình và trẻ hóa cảm xúc của một phong thái không bao giờ buồn lụy.
Tôi nhớ có đọc một bài báo viết về âm nhạc, nhà báo đã phân tích rất chính xác: “nếu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người thích đi trên bãi biển tìm nhặt những chiếc vỏ sò óng ánh mang về mài dũa, thì Phạm Duy là người lặn xuống đáy biển để tìm ngọc trai”. Quả nhiên sự phong phú trong kho tàng sáng tác của ông, từ nhạc phổ thơ, nhạc theo chuyên đề, nhạc dành cho tuổi xanh…tất cả đã là những di sản quý giá nhất mà ông để lại cho đời.
Tôi đã hát nhiều ca khúc của ông, nhưng bài đầu tiên tôi hát và được ông khen là biết cách sáng tạo, để những rung cảm không bi lụy mà trở nên hùng tráng, mãnh liệt đến da diết, đó là bài Áo anh sứt chỉ đường tà. Vĩnh biệt ông, âm nhạc của ông vẫn mãi sống theo thời gian, lắng đọng trong tâm hồn bao thế hệ và dòng nhạc tình ca bất hủ của ông mãi là niềm tự hào của những ai yêu quý âm nhạc Việt.
Tôi nhớ có đọc một bài báo viết về âm nhạc, nhà báo đã phân tích rất chính xác: “nếu nhạc sĩ Trịnh Công Sơn là người thích đi trên bãi biển tìm nhặt những chiếc vỏ sò óng ánh mang về mài dũa, thì Phạm Duy là người lặn xuống đáy biển để tìm ngọc trai”. Quả nhiên sự phong phú trong kho tàng sáng tác của ông, từ nhạc phổ thơ, nhạc theo chuyên đề, nhạc dành cho tuổi xanh…tất cả đã là những di sản quý giá nhất mà ông để lại cho đời.
Tôi đã hát nhiều ca khúc của ông, nhưng bài đầu tiên tôi hát và được ông khen là biết cách sáng tạo, để những rung cảm không bi lụy mà trở nên hùng tráng, mãnh liệt đến da diết, đó là bài Áo anh sứt chỉ đường tà. Vĩnh biệt ông, âm nhạc của ông vẫn mãi sống theo thời gian, lắng đọng trong tâm hồn bao thế hệ và dòng nhạc tình ca bất hủ của ông mãi là niềm tự hào của những ai yêu quý âm nhạc Việt.
Ca sĩ Elvis Phương: “Từ những kỷ niệm ông viết nên nhạc”
Ca sĩ Elvis Phương
Tôi không thể tin ông qua đời sau khi gia đình đã quá đau sầu vì sự ra đi của anh Duy Quang. Những thông tin về ông khi vào bệnh viện điều trị vẫn được anh em ca sĩ, nhạc sĩ truyền nhau và thay nhau cầu nguyện cho ông.
Tôi rất ngưỡng mộ ông ở tài năng sáng tạo và cuộc sống khiêm tốn của một người nhạc sĩ. Những sáng tác của ông mãi mãi sẽ hằn sâu trong lòng khán giả tri âm, nó là những kỷ niệm riêng, chung của nhiều thế hệ, nhất là những ca khúc viết cho tình yêu, cho tuổi trẻ.
Tôi còn nhớ năm 2012, sau khi các ca khúc được cấp phép biểu diễn như: Mùa thu chết, Giọt mưa trên lá, Tạ ơn đời, Tiễn em, Đi đâu cho thiếp theo cùng, Mẹ ta, Mẹ xinh đẹp, Mẹ chờ mong, Lúa mẹ, Nước mắt rơi, Những gì sẽ đem theo về cõi chết, Phố buồn, Tiếng hát trên sông Lô, Viễn du, Xuân nồng, Biển khúc, Em hát, Khúc ru tình, Nỗi nhớ vô thường, Tình qua tin nhắn...ông đã rất vui mừng. Gặp ông thì lại nghe kể đến những kỷ niệm của thời gian ông viết nên những ca khúc đó. Có kỷ niệm rất đơn sơ, mộc mạc nhưng có kỷ niệm chứa đựng nhiều tình tiết cảm động.
Từ những kỷ niệm ông viết nên nhạc và để lại cho đời vô số những sáng tác hay. Ông là nhạc sĩ tài hoa, là một ca sĩ lúc trẻ và ông còn là nhà nghiên cứu nhạc của Việt Nam. Tên tuổi của ông được xem là một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc, trong đó có những bài đã trở nên rất quen thuộc với người Việt Nam. Vĩnh biệt ông, người nhạc sĩ của công chúng yêu tình ca và yêu âm nhạc Việt.
Tôi rất ngưỡng mộ ông ở tài năng sáng tạo và cuộc sống khiêm tốn của một người nhạc sĩ. Những sáng tác của ông mãi mãi sẽ hằn sâu trong lòng khán giả tri âm, nó là những kỷ niệm riêng, chung của nhiều thế hệ, nhất là những ca khúc viết cho tình yêu, cho tuổi trẻ.
Tôi còn nhớ năm 2012, sau khi các ca khúc được cấp phép biểu diễn như: Mùa thu chết, Giọt mưa trên lá, Tạ ơn đời, Tiễn em, Đi đâu cho thiếp theo cùng, Mẹ ta, Mẹ xinh đẹp, Mẹ chờ mong, Lúa mẹ, Nước mắt rơi, Những gì sẽ đem theo về cõi chết, Phố buồn, Tiếng hát trên sông Lô, Viễn du, Xuân nồng, Biển khúc, Em hát, Khúc ru tình, Nỗi nhớ vô thường, Tình qua tin nhắn...ông đã rất vui mừng. Gặp ông thì lại nghe kể đến những kỷ niệm của thời gian ông viết nên những ca khúc đó. Có kỷ niệm rất đơn sơ, mộc mạc nhưng có kỷ niệm chứa đựng nhiều tình tiết cảm động.
Từ những kỷ niệm ông viết nên nhạc và để lại cho đời vô số những sáng tác hay. Ông là nhạc sĩ tài hoa, là một ca sĩ lúc trẻ và ông còn là nhà nghiên cứu nhạc của Việt Nam. Tên tuổi của ông được xem là một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc, trong đó có những bài đã trở nên rất quen thuộc với người Việt Nam. Vĩnh biệt ông, người nhạc sĩ của công chúng yêu tình ca và yêu âm nhạc Việt.
MC Đỗ Thụy giao lưu với nhạc sĩ Phạm Duy và ca sĩ Thái Hiền
Ca sĩ Lan Ngọc: “Ông nợ những quả bóng thủy tinh”
Tôi có một kỷ niệm thật đẹp với nhạc sĩ Phạm Duy. Đó là lúc tôi còn trẻ, mỗi đêm đi hát được bố tôi chở đi, có lần ông thắc mắc vì sao bố tôi không để tôi tự lăn xả vào cuộc mưu sinh, “cô lớn rồi mà?!”. Tôi chưa kịp nói, thì ông cười và bảo: “Bố sợ mất con gái”. Quả thật, ông biết những chuyện phía sau ánh đèn sân khấu, phòng trà, những câu chuyện nao lòng mà nếu không bản lĩnh sẽ vướng khổ lụy.
Có lần ông phân tích: “Cuộc đời chúng ta như một trò chơi tung hứng! Cô thử tưởng tượng trong tay cô có 5 quả bóng, đó là: Công việc, gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần. Khi cô tung chúng lên không trung, cô sẽ nhận ra ngay rằng công việc chính là quả bóng bằng cao su, bởi vì khi rớt xuống, nó sẽ lập tức tưng lên trở lại. Còn 4 quả bóng kia đều là những quả bóng bằng thủy tinh, nếu chúng vô tình rơi xuống, chạm vào ta, chạm vào mặt đất chúng sẽ lập tức bị tì vết, rạn nứt, thậm chí vỡ nát mà sẽ không bao giờ trở về trạng thái ban đầu được. Vậy thì tung nhẹ thôi, đừng quá sức”. Tôi suy nghĩ và cảm nhận điều ông dạy chí lý như bài nhạc rót vào tim người cô quạnh đang cần sự an ủi.
Âm nhạc với ông vì thế không là công việc, thứ công việc cứ “đẻ” ra để mưu cầu lợi lộc; mà là sự rung động khi những quả bóng tung nhẹ lên không, soi chiếu ánh mặt trời tạo nên bảy sắc cầu vồng tuyệt đẹp. Ai trong đời rồi cũng có lúc tung nhẹ, tung mạnh những quả bóng thủy tinh ấy, với người này thì nó vỡ nhưng với người khác nó được kéo dài thời gian bay trên không trung để lung linh, để ánh nắng chiếu vào.
Với tôi, ông là một phù thủy âm nhạc nhưng trái tim dễ bị đánh cắp. Ông cho tất cả tình thương yêu và chẳng để nợ ai mối tơ duyên nào. Nhạc sĩ sống như ông ở đời này hiếm chính vì cái lẽ không để nợ ai ngoài nợ những quả bóng thủy tinh. Nghiêng mình trước ông, người nhạc sĩ bậc tài mang lại cho đời nhiều cảm xúc tuyệt vời bằng âm nhạc.
Có lần ông phân tích: “Cuộc đời chúng ta như một trò chơi tung hứng! Cô thử tưởng tượng trong tay cô có 5 quả bóng, đó là: Công việc, gia đình, sức khỏe, bạn bè và tinh thần. Khi cô tung chúng lên không trung, cô sẽ nhận ra ngay rằng công việc chính là quả bóng bằng cao su, bởi vì khi rớt xuống, nó sẽ lập tức tưng lên trở lại. Còn 4 quả bóng kia đều là những quả bóng bằng thủy tinh, nếu chúng vô tình rơi xuống, chạm vào ta, chạm vào mặt đất chúng sẽ lập tức bị tì vết, rạn nứt, thậm chí vỡ nát mà sẽ không bao giờ trở về trạng thái ban đầu được. Vậy thì tung nhẹ thôi, đừng quá sức”. Tôi suy nghĩ và cảm nhận điều ông dạy chí lý như bài nhạc rót vào tim người cô quạnh đang cần sự an ủi.
Âm nhạc với ông vì thế không là công việc, thứ công việc cứ “đẻ” ra để mưu cầu lợi lộc; mà là sự rung động khi những quả bóng tung nhẹ lên không, soi chiếu ánh mặt trời tạo nên bảy sắc cầu vồng tuyệt đẹp. Ai trong đời rồi cũng có lúc tung nhẹ, tung mạnh những quả bóng thủy tinh ấy, với người này thì nó vỡ nhưng với người khác nó được kéo dài thời gian bay trên không trung để lung linh, để ánh nắng chiếu vào.
Với tôi, ông là một phù thủy âm nhạc nhưng trái tim dễ bị đánh cắp. Ông cho tất cả tình thương yêu và chẳng để nợ ai mối tơ duyên nào. Nhạc sĩ sống như ông ở đời này hiếm chính vì cái lẽ không để nợ ai ngoài nợ những quả bóng thủy tinh. Nghiêng mình trước ông, người nhạc sĩ bậc tài mang lại cho đời nhiều cảm xúc tuyệt vời bằng âm nhạc.
Ca sĩ Xuân Phú: “Ông là người lạc quan”
Tôi xem ông như một người ông trong gia đình. Những lúc nghe ông kể chuyện sáng tác, chuyện nghiên cứu âm nhạc, tôi mải mê đến quên cả đói. Vinh dự cho tôi và nhiều anh chị em ca sĩ là từ 5 đến 18-10-2012 đã được tham gia chương trình Tạ ơn đời của ông tại TPHCM, Huế, Cần Thơ. Lúc đó ông đồng hành với chúng tôi, vui và trẻ ra khi nhìn thấy công chúng đón nhận ca khúc của ông thật nồng nhiệt.
Tôi học hỏi ở ông tinh thần lạc quan, hiếm khi nào nghe ông nói về bệnh tình cũng như những bức xúc trong đời sống, trong công việc. Thương nhất là khi con trai ông – ca sĩ Duy Quang mất ở tuổi 62. Trước đó người nhà giấu vì sợ ông buồn và ảnh hưởng đến sức khỏe vốn đã rất yếu của ông. Nhưng lúc tôi đến thăm ông, là khi ông đã biết tin buồn, trái lại ông không quá đau đớn mà cảm nhận rất rõ sự an ủi trong nỗi mất mát đã được khán thính giả thương yêu, chia sẻ.
Tôi tin ông không mất đi mà sự nghiệp âm nhạc của ông mãi mãi vẫn còn lưu giữ trong trái tim người hâm mộ, trong cả trái tim những ca sĩ đã hát nhạc của ông.
Tôi học hỏi ở ông tinh thần lạc quan, hiếm khi nào nghe ông nói về bệnh tình cũng như những bức xúc trong đời sống, trong công việc. Thương nhất là khi con trai ông – ca sĩ Duy Quang mất ở tuổi 62. Trước đó người nhà giấu vì sợ ông buồn và ảnh hưởng đến sức khỏe vốn đã rất yếu của ông. Nhưng lúc tôi đến thăm ông, là khi ông đã biết tin buồn, trái lại ông không quá đau đớn mà cảm nhận rất rõ sự an ủi trong nỗi mất mát đã được khán thính giả thương yêu, chia sẻ.
Tôi tin ông không mất đi mà sự nghiệp âm nhạc của ông mãi mãi vẫn còn lưu giữ trong trái tim người hâm mộ, trong cả trái tim những ca sĩ đã hát nhạc của ông.
Ca sĩ Xuân Phú
Thanh Hiệp (ghi) - ảnh Thanh Hiệp
Chỉ dưới góc độ âm nhạc, cuộc di dân của hơn 1 triệu đồng bào người Bắc vào Nam năm 1954 quả là vĩ đại và đầy cứu rỗi. Nhất là khi thương xót nhìn lại sự khốn cùng của những cây đại thụ như Văn Cao, Hữu Loan, Hoàng Cầm, Lê Đạt,…
Tôi đã viết một mạch tùy bút này trong một đêm không ngủ, sau khi nghe tin nhạc sĩ Phạm Duy vừa tạ thế.
Chưa bao giờ có tham vọng trở thành một nhà phê bình âm nhạc, bài viết đã được post ngay lên trang web này, như một cách để bày tỏ lòng thành với người đã khuất. Và như một cách thế những cảm nhận rất cá nhân về âm nhạc Phạm Duy.
Sáng nay, theo yêu cầu của một thân hữu, bài viết này sẽ được tạm thời hạ xuống để dành cho ấn phẩm Tân niên của tạp chí Lifestyle. Thiết nghĩ, đây cũng là một cách thế đàng hoàng, chính danh để tỏ lòng tri ân người quá vãng một cách danh chính ngôn thuận, giấy trắng mực đen trên một ấn phẩm tử tế, trang nhã, bên cạnh nhiều cây bút nổi tiếng khác.
Tưởng nhớ một tài hoa thì không bao giờ muộn màng.
Chân thành cáo lỗi cùng tất cả các bạn.
Đồng thời, tôi đăng lại một bài viết của một thân hữu khác. Bài viết giàu thông tin và sắc sảo này cho thấy tác giả của nó là người viết phóng sự về văn hóa văn nghệ hay nhất, tử tế nhất và có lòng nhất hiện nay.
“Nhạy cảm” – viết trước một liveshow Phạm Duy.
(Hương Trà)
(Hương Trà)
“Trong phạm vi nào đó, âm nhạc và chính trị là hai phạm trù đối kháng với nhiều cá nhân coi âm nhạc đơn giản chỉ vị nghệ thuật và không – với những người dùng các sáng tác để ca tụng chế độ mình phục vụ hay bày tỏ chính kiến, quan điểm, tâm trạng về thời cuộc. Và như thế, Phạm Duy là một trường hợp mà hầu như ai cũng tỏ tường lý lịch và không nhất thiết phải mổ xẻ thêm nữa. Ở đây chỉ đề cập tới vài chuyện trong những năm gần đây khi ông quay về.
Phàm làm người, nhất là một nhân vật văn nghệ đặc biệt như Phạm Duy thì chuyện bỏ đi rồi lại quay về rất có nhiều cái dở nếu bàn về lập trường và quan điểm sống. Ở vào thời điểm tháng 5/2005, khi ông chính thức định cư Việt Nam sau 30 năm tha hương, hầu hết các báo đều hết lời ca tụng, tâng bốc Phạm Duy lên tận mây xanh. Người ta nhắc ông như người bạn thân thiết với nhạc sĩ “Quốc ca” Văn Cao và cùng Văn Cao sáng tác nhiều ca khúc trong thời kháng chiến chống Pháp, người ta khẳng định chắc nịch lần nữa rằng ông chính là một trong những cây đại thụ hiếm hoi còn lại của nền tân nhạc Việt Nam. Người ta cũng chỉ nói me mé rằng Phạm Duy đã sáng tác gần 1.000 ca khúc nói lên niềm vui, nỗi buồn, vinh quang, tủi nhục của người Việt trong suốt các thời kỳ sôi động nhất của lịch sử và lờ đi những chuyện phản phé, cũng như tư tưởng chống Cộng công khai của ông trước đây.
Phàm làm người, nhất là một nhân vật văn nghệ đặc biệt như Phạm Duy thì chuyện bỏ đi rồi lại quay về rất có nhiều cái dở nếu bàn về lập trường và quan điểm sống. Ở vào thời điểm tháng 5/2005, khi ông chính thức định cư Việt Nam sau 30 năm tha hương, hầu hết các báo đều hết lời ca tụng, tâng bốc Phạm Duy lên tận mây xanh. Người ta nhắc ông như người bạn thân thiết với nhạc sĩ “Quốc ca” Văn Cao và cùng Văn Cao sáng tác nhiều ca khúc trong thời kháng chiến chống Pháp, người ta khẳng định chắc nịch lần nữa rằng ông chính là một trong những cây đại thụ hiếm hoi còn lại của nền tân nhạc Việt Nam. Người ta cũng chỉ nói me mé rằng Phạm Duy đã sáng tác gần 1.000 ca khúc nói lên niềm vui, nỗi buồn, vinh quang, tủi nhục của người Việt trong suốt các thời kỳ sôi động nhất của lịch sử và lờ đi những chuyện phản phé, cũng như tư tưởng chống Cộng công khai của ông trước đây.
Báo chí Việt Nam đã làm đúng vai trò và trách nhiệm của mình, trong xu thế cởi mở xem sự kiện Phạm Duy là động thái lên dây cót cho nhiều Việt kiều vứt bỏ e ngại quay về, ông đã trở thành nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ. Nếu nói theo cách khác, khá cao chiêu rằng: Phạm Duy đã trở thành con bài cho việc vận động kiều bào và là điển hình hoàn hảo của chính sách hòa hợp dân tộc. Trong suốt 5 năm qua, nếu theo dõi sẽ thấy có 100 bài hát, 8 album cùng nhiều sách của Phạm Duy đã được cấp phép, in ấn đẹp mắt xuất bản đến với công chúng, không bỏ bèn gì đối với gia tài âm nhạc cả ngàn ca khúc của ông. Nhưng, thật là chẳng nên mơ mộng thêm điều gì nếu nhìn qua vài nhân vật cũng khá đặc biệt khác như Hoàng Thi Thơ, Trần Thiện Thanh, Vũ Thành An – 10 bài Không tên hiện vẫn chưa được phép lưu hành, cho dù nhạc sĩ này nghe đâu đã bỏ đời đi tu. Công lao đó không thể không nói tới Phương Nam Phim, nơi độc quyền khai thác các sản phẩm trí tuệ của Phạm Duy; với những live show hoành tráng và nhiều mỹ cảm thực hiện tại Sài Gòn – Hà Nội như Ngày trở về, Con đường tình ta đi…trong đó có chương trình còn được giải thưởng Cống hiến.
Ngày nào còn ngồi rung đùi nheo mắt ngắm nắng ở Mỹ có lẽ Phạm Duy cũng chẳng thể mơ được nhiều đến như thế! Phạm Duy còn có nhiều trường ca và tổ khúc viết trong 30 năm nay, ông thường ước ao giá được phổ biến nữa thì còn gì bằng. Mới tháng trước, Phạm Duy tự thực hiện tổ khúc Bên kia sông Đuống để tặng nhà thơ Hoàng Cầm khi bạn già này từ giã thế gian. Ông nhờ Mỹ Linh hát và Duy Cường hòa âm phối khí, xong mang tặng cho gia đình Hoàng Cầm …để lên bàn thờ. Kiểu này gọi là đĩa lậu đấy! Khi kể xong chuyện, Phạm Duy còn bảo rằng nếu trước khi ông ra đi như Hoàng Cầm mà nghe được những tổ khúc của mình được công bố rộng rãi trên sân khấu thì đời mới thật mãn nguyện lắm lắm.
Nhưng mà làm người chẳng nên tham lam quá!
Hôm rồi gặp, nghe Phạm Duy tâm sự: “Tôi ngày nào cũng đi bộ 3 tiếng đấy. Khỏe ra lại ăn được nhiều, cô giúp việc nhà nấu ngon lắm. Hiện Duy Minh đang sống với tôi, bố con chuyện trò rất hiểu ý nhau nên tinh thần cũng thoải mái. Buồn thì đi gặp vài người bạn khề khà thôi cũng hết buổi. Lâu rồi tôi không đi qua Mỹ nữa, năm ngoái chỉ sang để chữa bệnh đau ruột, mãn tính chữa mãi không khỏi nên thôi giờ không đi nữa. Tôi đã về Việt Nam 5 năm rồi, đây là nơi cuối cùng tôi chọn để ở và chết, không ưng đi đâu cả…”. Ở tuổi 91 coi như vậy cũng đã bằng an!
Hôm rồi gặp, nghe Phạm Duy tâm sự: “Tôi ngày nào cũng đi bộ 3 tiếng đấy. Khỏe ra lại ăn được nhiều, cô giúp việc nhà nấu ngon lắm. Hiện Duy Minh đang sống với tôi, bố con chuyện trò rất hiểu ý nhau nên tinh thần cũng thoải mái. Buồn thì đi gặp vài người bạn khề khà thôi cũng hết buổi. Lâu rồi tôi không đi qua Mỹ nữa, năm ngoái chỉ sang để chữa bệnh đau ruột, mãn tính chữa mãi không khỏi nên thôi giờ không đi nữa. Tôi đã về Việt Nam 5 năm rồi, đây là nơi cuối cùng tôi chọn để ở và chết, không ưng đi đâu cả…”. Ở tuổi 91 coi như vậy cũng đã bằng an!
Nhưng đó là chuyện cá nhân ông, còn người làm kinh doanh – Công ty Phương Nam (PNF), lại không có lệ an phận như vậy, nhất là khi đã bỏ nhiều công sức và tiền bạc để Phạm Duy được đường hoàng trở về. Trong chừng thời gian đó là live show, các ấn phẩm sách báo rồi băng đĩa…cứ mỗi lần ra mắt, muốn bán vé bán đĩa bán sách thì phải PR, tiếp thị, phải lên báo đánh trống khua chiêng la làng để người ta còn biết đường mà mua hàng. Nếu theo dõi báo chí trong nước, sẽ không khó nhận ra. Ngoại trừ vài tờ báo lớn như Thanh Niên, Tuổi Trẻ có những mối quan hệ thân thiết với PNF thì các đầu báo mang tính định hướng chính trị – xã hội cao như SGGP, Nhân Dân, Công An sau khi ồn ào với sự kiện “Trở về” của Phạm Duy đã không còn đăng tải tin, bài về ông nữa. Mọi sự không tự nhiên mà như thế!
Còn nhớ sau liveshow “Ngày trở về” tôi có bài review trên một trong những tờ báo đó và kết quả là ban biên tập đã được cấp trên gọi xuống cảnh cáo. Lần khác, khi siêu bão Chanchu tàn phá miền Trung, phòng trà Văn Nghệ có kết hợp với báo Công An TP. tổ chức show “Phạm Duy – Về miền Trung” để quyên góp tiền gửi cho nạn nhân lũ lụt. Thế nhưng giờ chót đã phải tháo băng rôn và gỡ tên báo ra vì có lệnh xuống là không được nhắc nhở gì tới Phạm Duy nữa, muốn tổ chức hát hò gì cứ âm thầm mà làm.
Nói như giọng hằn học của ông NSND Trọng Bằng: “Bàn đến Phạm Duy những người chân chính ở Việt Nam đã biết cả rồi, biết Phạm Duy như thế nào trong quá khứ, Phạm Duy có cái gì tốt, cái gì chưa tốt, bản chất của Phạm Duy và giá trị thật âm nhạc của anh người nghe đều hiểu cả. Sự trở về của Phạm Duy là sự ưu ái của Đảng và Nhà nước, sự rộng lượng của nhân dân ta, nên đừng đặt mình ở vị trí cao, cứ nên im lặng mà làm việc thôi. Có những tác phẩm anh sáng tác đầu kháng chiển rất tốt, bây giờ Cục biểu diễn người ta khuyến khích cho phép anh trở về biểu diễn, thì cứ thế mà cống hiến thôi. Dư luận chúng ta hơi dễ dãi và nhẹ dạ. Nhưng vấn đề là Phạm Duy phải tỉnh táo. Vì ông hoàn toàn hiểu ông là ai, quá khứ đối với dân tộc của Phạm Duy là một tội lỗi. Ông không thể so sánh ông với bất cứ một nhạc sỹ nào đã tham gia cách mạng, vì thế ông không thể nào so sánh với nhạc sỹ Văn Cao. Không thể ví được. Văn Cao là một con người có trình độ, là một nhà nghiên cứu dân tộc, ông Văn Cao là một người toàn diện, và ông Văn Cao còn biết tôn trọng những người nhạc sỹ đàn em đi vào con đường âm nhạc bác học, một người rất khiêm nhường biết mình, biết ta. Giả sử có một nhạc sỹ X, Y, Z nào đó hỏi: Khi chúng tôi đi đánh Mỹ giải phóng dân tộc thì ông làm gì? Chắc chắn rằng nếu là người hiểu biết đều hiểu rõ khi đó ông là tác giả của các bài hát chống lại cách mạng, chống lại nhân dân, chống lại công cuộc giải phóng dân tộc…”.
Nhưng không ít ý kiến phản biện lại: Đánh kẻ chạy đi ai đánh kẻ chạy lại. Đã bảo hòa hợp mà sao lại nửa mùa như thế…” Ngày 17.7.2010, Mơ giấc mộng dài của Phạm Duy – diễn ra tại nhà hát Hòa Bình. Tuy nhiên, trước đó vài ngày một cái lệnh miệng của Ban tư tưởng Văn hóa gọi xuống các báo yêu cầu không cho quảng bá đêm diễn. Mặc dù PNF có tổ chức họp báo nghiêm túc, cũng đành ngậm đắng nuốt cay khi biết nhiều bài viết đã lên khuôn nhưng phải bị lột ra. Chưa hết, cũng không hiểu từ đâu có nguồn tin đồn: Mơ giấc mộng dài bị hủy show vì không xin giấy phép được, khiến nhà tổ chức này xiểng niểng. Kinh doanh tên tuổi những nhân vật nhạy cảm như Phạm Duy; quả như chơi với lửa.
Thật ra, một đất nước giàu mạnh, một chế độ vững vàng…người người trên dưới một lòng thì không cần đặt ra lằn ranh giữa nhạy cảm chính trị và văn nghệ thuần túy. Thường thì ta chỉ e ngại những kẻ khỏe hơn mình…!!!”
Nhạc sỹ Phạm Duy - "Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng"
Xin được mạn phép ví von Nhạc sĩ Phạm Duy bằng chính tựa đề Đạo ca 4 (Ảo Hóa) trong tập 10 bài Đạo ca của ông phổ từ thơ của Phạm Thiên Thư như trên.
Thật ra nội dung “Chàng Dũng Sĩ và Con Ngựa Vàng” nói về một sự đi tìm, trong ước vọng, tham vọng, cuồng vọng và mê đắm v.v, nhưng tất cả đều có tự trong tâm thức, bản thể của mổi chúng ta. Ở đây, người viết muốn nói đến bước ngoặc trong đời sống âm nhạc của nhạc sĩ Phạm Duy đã rẽ sang hướng khác kể từ khi gặp được nhà thơ Phạm Thiên Thư (khi ấy hảy còn là tu sĩ với pháp danh Tuệ Không).
Một sự rẽ hướng mang ít nhiều yếu tố của tri thức Phật học, để từ đó về sau những tác phẩm của ông không còn là những đắng cay, chán chường và bế tắc của những Tâm Ca, Tâm Phẩn Ca, Vỉa Hè Ca.vv…
Đó là giai đoạn nửa đầu thập niên 70 của thế kỷ trước, giữa lúc bất ổn của chiến tranh, xáo động văn hóa dân tộc và băng hoại đạo đức. Vì thế, ngưới viết ví nhạc sĩ Phạm Duy chính là Chàng Dũng Sĩ thời ấy và Con Ngựa vàng là sự nghiệp âm nhạc của ông.
Ông đã ra đi vào lúc 14,30 trưa nay ngày 27/1/2013 nhằm ngày 16 tháng chạp năm Nhân Thìn. Một cây đại thụ trong làng âm nhạc VN đã rũ bóng tà dương, một mất mát lớn lao khó có gì bù đắp nổi.
Nhà báo Giao Hưởng (báo Thanh Niên) có kể lại trong một lần gặp gỡ tại nhà riêng, ông tâm sư về những tác phẩm ban đầu đều mang dấu ấn bưồn đau của kiếp người (Một Kiếp Hoa). Nhà báo kể :
“Khi ông nói, ngoài trời vẫn mưa lớn lắm. Ông chợt nhìn vào pho tượng của Đức Quan Thế Âm Bồ Tát đặt trước mặt ông, ngay chỗ tiếp khác. Chúng tôi không hiểu do tình cờ hay do nhắc đến”kiếp người” mà ông nhìn vào pho tượng Bồ Tát Quan âm cứu khổ cứu nạn như thế…”
Ý thức giác ngộ bao giờ cũng phải đánh đổi bằng ý chí trước rất nhiều thử thách, đôi khi phải bằng cả sinh mạng một đời người. Nhạc sĩ Phạm Duy vì có nguồn năng lượng phước báu tích tụ tự bao đời nên khi chỉ cần gặp nhà thơ Phạm Thiên Thư lần đầu khi cả hai đều đến thăm ông Nguyễn Đức Quỳnh trong bệnh viện, đã nhanh chóng kết thân nhau ngay.
Nhạc sĩ Phạm Duy cảm thấy thanh thản, nhẹ nhàng hơn mỗi khi đọc những bài thơ của Phạm Thiên Thư gởi đến, và Phật học đã tuần tự đi vào tâm thức ông bằng chính những bài thơ như thế. Từ Đưa Em Tìm Động Hoa Vàng đến Em Lễ Chùa Này đã dẫn từng bước chân âm nhạc tài hoa của ông nhập vào thế giới của Đạo Ca Giữa Thành Vách Sương Mù, để từ đây người ta đã thấy một Phạm Duy cao hơn hẳn giữa đời thường.
Phải chăng chính vì những ý nghĩa mang tính quyết định quan trọng cho bước rẽ ngoặc đó mà ông phải đích thân đọc cho từng lời tựa mỗi bài Đạo Ca của mình? Những người ái mộ ông và cả bạn bè đều rất ngạc nhiên về điều này. Nhờ vậy, giờ đây, kho ông đã Nghìn Trùng Xa Cách thanh âm từ giọng đọc có mang dấu ấn uy lực mạnh mẽ ấy vẫn còn đang dõng dạc với thời gian.
Dim lights Embed
Không phước báu lớn sao được khi trong vô số nhà thơ thời bấy giờ và bằng danh tiếng, tài năng của ông có thể dễ dàng kết thân cùng nhau cho ra đời nhiều tác phẩm hay, nhưng phải đợi đến một vị tu sĩ bình thuờng ở chùa Vạn Thọ như Tuệ Không (Phạm Thiên Thư) mới lay chuyển được tâm hồn một nhạc sĩ tầm cỡ.
Có thể nói, cảm nhận ban đầu của ông rất chính xác khi nhìn một vị tu sĩ bình thường ấy có ẩn chứa bên trong một kho tàng văn chương nhân sinh mang đậm triết lý duy thức Phật giáo. Một vị tu sĩ mà nếu thiếu tinh thần tu học thì khó có được một thành quả đáng nể thời bấy giờ và khi phát hiện thêm điều này chính nhạc sĩ Phạm Duy cũng giật mình thán phục.
Phạm Thiên Thư là người Việt Nam duy nhất đã thi hóa 7 bộ kinh Phật bằng ngôn ngữ thuần Việt, sáng tác Từ Điển Cười (Tiếu liệu pháp) bằng thơ, làm Từ Điển châm ngôn, viết 3,320 câu lục bát kể chuyện lịch sử trong Hát Ru Việt Sử Thi, và thi sĩ duy nhất “giỡn mặt” đại thi hào Nguyễn Du để viết lại truyện kiều (Đoạn Trường Vô Thanh) tất cả đều Việt hóa.vv…(nguồn Thiên Ca-Blog Người Nổi Tiếng).
Gặp Nhạc sĩ Phạm Duy, nhà thơ Phạm Thiên Thư ví “Tôi gặp nhạc sĩ Phạm Duy như ngọn núi gặp một đám mây”. Mây và núi hòa quyện nhau bằng chất liệu tư duy Phật học nhưng bay bổng thi vị giữa đời thường, ai cũng có thể nắm bắt được.
Cũng chính vì gặp nhau do nhân duyên tác hợp, dù sau náy khi chính thức trở về VN sinh sống , nhạc sĩ Phạm Duy và nhà thơ Phạm Thiên Thư khi nào, mỗi sáng thứ bảy hàng tuần vẫn gặp nhau uống cà phê ở đường Ngô Đức Kế, nhưng sự tác hợp nghệ thuật bằng thơ ca như thưở Đạo Ca chỉ dừng lại nơi đó.
Bây giờ đám mây đã bay đi, ngọn núi còn ở lại, đứng cô đơn giữa trời mà hát khúc vô thường không mong đợi.
Xin gởi nén tâm hương kính viếng hương linh nhạc sĩ Phạm Duy. Nhạc sĩ ra đi nhưng tác phẩm Đạo Ca còn ở lại với đời. Nhiều đời sau lấy đó làm buớc chuẩn cho sáng tác thơ nhạc phụng sự chánh pháp như khi Phạm Thiên Thư còn là tu sĩ đã dốc lòng đem hết sở học Phật pháp của mình trả ơnTam Bào, ơn chúng sanh.
Nếu nhạc sĩ Phạm Duy là Chàng Dũng Sĩ thì nhà thơ Phạm Thiên Thư chính là Một Gã Từ Quan, Lên Non Tìm Động Hoa Vàng…Ngủ Say. Rất đẹp hình ảnh sau cùng ấy của một kiếp nhân sinh, biết chấp nhận vô thường, lẽ sinh diệt thường hằng và những dòng thơ ấy chỉ có những nốt nhạc tài tình của Phạm Duy mới khắc họa thêm sâu nặng tính triết lý ngàn đời ấy của nhà Phật:
Đưa nhau ra tời bên cầu nước xuôi
Sông này đây chảy một dòng thôi
Mấy đầu sông thẳm, khóc người cuối sông./.
Dương Kinh Thành
Giữa hửng nắng một ngày Hà Nội giáp tết Quý Tỵ mà lòng tôi lại xối xả khi nghe tin Phạm Duy đã t mùa đi. Vậy là lại thêm một cây đại thụ của làng nhạc Việt ngã xuống, ở tuổi 93.
So với nhiều nhạc sĩ đồng thời, Phạm Duy có số phận “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi” khá khác thường. Ông từng học nghề ở Trường Kỹ nghệ thực hành rồi học vẽ tại Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nhưng rồi máu mê âm nhạc ném ông vào “kiếp cầm ca” từ độ thanh xuân. Trong những ngày đầu du ca, chính Phạm Duy là người reo rắt nhạc tình Văn Cao khắp các phương trời và họ thành “cặp bài trùng” từ thuở đó. Ôm trong mình âm hưởng dân ca Việt từ nhỏ, Phạm Duy vừa du ca vào đời, vừa bắt đầu viết ra những giai điệu của mình bảng lảng dân ca như “Cô hái mơ” (phổ thơ Nguyễn Bính).
Nhưng chính cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 long trời lở đất mới thực sự tạo ra nhạc sĩ Phạm Duy tài danh. Tham gia Thanh niên Tiền Phong, ông bước vào cách mạng như lẽ tự nhiên. Nam Bộ kháng chiến, ông là một trong 70 thanh niên Hà Nội lên đường Nam tiến. Hàng loạt hùng ca của Phạm Duy ra đời giữa chiến trường miền Nam lửa khói: “Xuất quân”, “Chiến sĩ vô danh”, “Thu chiến trường”…
Ngay sau những giai điệu hùng hồn khởi đầu, Phạm Duy đã ý thức việc tạo ra giọng điệu Việt trong sáng tác bằng việc sử dụng vốn dân ca với tiêu chí “giai điệu thì phải nằm trong ngũ cung, tiết điệu thì phải là nhịp lục bát biến thể”. Điều sáng tạo là ông không dựa vào một làn điệu dân ca nào cụ thể, mà lấy các cụm nốt phát triển nối tiếp nhau theo cảm hứng. Bởi vậy, nghe nhạc Phạm Duy thời kháng chiến chống Pháp, có cảm giác như một bài dân ca, nhưng lại không giống dân ca cũ và ông gọi những ca khúc của mình là dân ca mới.
Suốt nửa đầu cuộc trường kỳ kháng chiến, Phạm Duy không chỉ viết những bài ca thúc giục tranh đấu mà còn viết ở nhiều đề tài, nhiều vùng đất. Sau khi rời Nam Bộ, Phạm Duy ra chiến khu Việt Bắc viết “Việt Bắc”, “Tiếng hát trên sông Lô”, “Bên cầu biên giới”, “Bông lau”, “Đường Lạng Sơn”... Trở vào chiến khu Bình - Trị - Thiên, ông viết “Bao giờ anh lấy được đồn Tây”, “Bà mẹ Gio Linh”, “Về miền Trung”... Lúc ấy, Phạm Duy có thêm bạn mới là nhà thơ Hoàng Cầm. Sau cặp Phạm Duy - Văn Cao tiền chiến là cặp Phạm Duy - Hoàng Cầm kháng chiến. Họ đã hát, đã đọc thơ, đã vẽ bên nhau tới cùng. Và Phạm Duy cũng là người cuối cùng trong “Ba chàng ngự lâm” bay vào cõi thiên thai.
Do nhiều lý do, Phạm Duy cùng vợ là ca sĩ Thái Hằng đã trở về Hà Nội đầu năm 1950 và sau đó định cư ở Sài Gòn. Tuy nhiên, ông vẫn lập ra ban hợp ca Thăng Long lừng danh cùng nhạc sĩ Phạm Đình Chương (tức Hoài Bắc) Phạm Đình Viên (tức Hoài Trung), ca sĩ Thái Hằng (vợ ông), ca sĩ Thái Thanh (em Thái Hằng) và ca sĩ Khánh Ngọc (vợ Phạm Đình Chương), lưu diễn khắp đất nước. Lúc này, sau những “Gánh lúa”, “Nương chiều”, “Ngày trở về” ... Phạm Duy tiếp tục chói sáng với những “Tình ca”, “Tiếng sáo thiên thai” (thơ Thế Lữ), “Tình hoài hương”, “Khối tình Trương Chi”, “Thuyền viễn xứ” (thơ Huyền Chi)...
Những năm ở Sài Gòn khi đất nước chia cắt, Phạm Duy vẫn sáng tạo không ngừng trong nhiều thể loại. Nhiều sáng tác trong thời kỳ này của ông trở thành những tác phẩm thường được biểu diễn trên sân khấu cả nước hôm nay như “Em bé quê”, “Ông trăng xuống chơi”, “Ngày xưa Hoàng thị” (thơ Phạm Thiên Thư), “Em hiền như masoeur” (thơ Nguyễn Tất Nhiên), “Áo anh sứt chỉ đường tà” (thơ Hữu Loan),...
Sau ngày thống nhất, ông và gia đình sang định cư ở Mỹ, nhưng vẫn sáng tạo rất nhiều, trong đó ấn tượng nhất là “Kiều ca” và vẫn khắc khoải một tình hoài hương. Nguyện vọng của ông đã được Nhà nước chấp thuận năm 2005. Cảm giác đêm đầu tiên sau ngày hồi hương mà ông tâm sự cùng tôi là được ngủ trọn vẹn một giấc an lành.
Sau ngày hồi hương, nhạc của Phạm Duy bắt đầu được hát trở lại trên nhiều sàn diễn. Đầu tiên là ở thành phố Hồ Chí Minh, rồi ở Hà Nội, ở Huế. Không chỉ có người mến mộ ông từ thuở trước mong ngóng, mà lớp trẻ hôm nay cũng rất thích nghe và hát Phạm Duy. Nhiều ca sĩ trẻ bắt đầu thấm chất Phạm Duy như Thanh Lam, Tấn Minh, Mỹ Linh, Đức Tuấn, Tùng Dương, Nguyên Thảo, Khánh Linh... Chính họ giúp cho ông có thêm niềm tin về sự nghiệp của mình và vui sống những năm tháng tuổi dần cao.
Bước qua rằm tháng Chạp của năm Nhâm Thìn một ngày, thoắt đã thành “ngàn trùng xa cách”. Chiều 27.1.2013, ông ra đi sau khi vợ ông – bà Thái Hằng, và con trai Duy Quang cũng vừa mất không lâu. Đã khóc, đã cười, đã thét lên hùng tráng, đã ngậm ngùi suy tư qua biết bao cung bậc, qua bao nhiêu tác phẩm, người nhạc sĩ tóc trắng như đóa bạch đào giờ không còn nổi trôi, vương vấn gì nữa. Ông đã mãn nguyện dâng hiến cho dân tộc, cũng như dân tộc đã đón nhận những dâng hiến của ông vượt qua mọi khúc mắc, mọi hạn hẹp để trở về đất mẹ quê hương.
Nhưng chính cuộc Cách mạng Tháng Tám 1945 long trời lở đất mới thực sự tạo ra nhạc sĩ Phạm Duy tài danh. Tham gia Thanh niên Tiền Phong, ông bước vào cách mạng như lẽ tự nhiên. Nam Bộ kháng chiến, ông là một trong 70 thanh niên Hà Nội lên đường Nam tiến. Hàng loạt hùng ca của Phạm Duy ra đời giữa chiến trường miền Nam lửa khói: “Xuất quân”, “Chiến sĩ vô danh”, “Thu chiến trường”…
Ngay sau những giai điệu hùng hồn khởi đầu, Phạm Duy đã ý thức việc tạo ra giọng điệu Việt trong sáng tác bằng việc sử dụng vốn dân ca với tiêu chí “giai điệu thì phải nằm trong ngũ cung, tiết điệu thì phải là nhịp lục bát biến thể”. Điều sáng tạo là ông không dựa vào một làn điệu dân ca nào cụ thể, mà lấy các cụm nốt phát triển nối tiếp nhau theo cảm hứng. Bởi vậy, nghe nhạc Phạm Duy thời kháng chiến chống Pháp, có cảm giác như một bài dân ca, nhưng lại không giống dân ca cũ và ông gọi những ca khúc của mình là dân ca mới.
Suốt nửa đầu cuộc trường kỳ kháng chiến, Phạm Duy không chỉ viết những bài ca thúc giục tranh đấu mà còn viết ở nhiều đề tài, nhiều vùng đất. Sau khi rời Nam Bộ, Phạm Duy ra chiến khu Việt Bắc viết “Việt Bắc”, “Tiếng hát trên sông Lô”, “Bên cầu biên giới”, “Bông lau”, “Đường Lạng Sơn”... Trở vào chiến khu Bình - Trị - Thiên, ông viết “Bao giờ anh lấy được đồn Tây”, “Bà mẹ Gio Linh”, “Về miền Trung”... Lúc ấy, Phạm Duy có thêm bạn mới là nhà thơ Hoàng Cầm. Sau cặp Phạm Duy - Văn Cao tiền chiến là cặp Phạm Duy - Hoàng Cầm kháng chiến. Họ đã hát, đã đọc thơ, đã vẽ bên nhau tới cùng. Và Phạm Duy cũng là người cuối cùng trong “Ba chàng ngự lâm” bay vào cõi thiên thai.
Do nhiều lý do, Phạm Duy cùng vợ là ca sĩ Thái Hằng đã trở về Hà Nội đầu năm 1950 và sau đó định cư ở Sài Gòn. Tuy nhiên, ông vẫn lập ra ban hợp ca Thăng Long lừng danh cùng nhạc sĩ Phạm Đình Chương (tức Hoài Bắc) Phạm Đình Viên (tức Hoài Trung), ca sĩ Thái Hằng (vợ ông), ca sĩ Thái Thanh (em Thái Hằng) và ca sĩ Khánh Ngọc (vợ Phạm Đình Chương), lưu diễn khắp đất nước. Lúc này, sau những “Gánh lúa”, “Nương chiều”, “Ngày trở về” ... Phạm Duy tiếp tục chói sáng với những “Tình ca”, “Tiếng sáo thiên thai” (thơ Thế Lữ), “Tình hoài hương”, “Khối tình Trương Chi”, “Thuyền viễn xứ” (thơ Huyền Chi)...
Những năm ở Sài Gòn khi đất nước chia cắt, Phạm Duy vẫn sáng tạo không ngừng trong nhiều thể loại. Nhiều sáng tác trong thời kỳ này của ông trở thành những tác phẩm thường được biểu diễn trên sân khấu cả nước hôm nay như “Em bé quê”, “Ông trăng xuống chơi”, “Ngày xưa Hoàng thị” (thơ Phạm Thiên Thư), “Em hiền như masoeur” (thơ Nguyễn Tất Nhiên), “Áo anh sứt chỉ đường tà” (thơ Hữu Loan),...
Sau ngày thống nhất, ông và gia đình sang định cư ở Mỹ, nhưng vẫn sáng tạo rất nhiều, trong đó ấn tượng nhất là “Kiều ca” và vẫn khắc khoải một tình hoài hương. Nguyện vọng của ông đã được Nhà nước chấp thuận năm 2005. Cảm giác đêm đầu tiên sau ngày hồi hương mà ông tâm sự cùng tôi là được ngủ trọn vẹn một giấc an lành.
Sau ngày hồi hương, nhạc của Phạm Duy bắt đầu được hát trở lại trên nhiều sàn diễn. Đầu tiên là ở thành phố Hồ Chí Minh, rồi ở Hà Nội, ở Huế. Không chỉ có người mến mộ ông từ thuở trước mong ngóng, mà lớp trẻ hôm nay cũng rất thích nghe và hát Phạm Duy. Nhiều ca sĩ trẻ bắt đầu thấm chất Phạm Duy như Thanh Lam, Tấn Minh, Mỹ Linh, Đức Tuấn, Tùng Dương, Nguyên Thảo, Khánh Linh... Chính họ giúp cho ông có thêm niềm tin về sự nghiệp của mình và vui sống những năm tháng tuổi dần cao.
Bước qua rằm tháng Chạp của năm Nhâm Thìn một ngày, thoắt đã thành “ngàn trùng xa cách”. Chiều 27.1.2013, ông ra đi sau khi vợ ông – bà Thái Hằng, và con trai Duy Quang cũng vừa mất không lâu. Đã khóc, đã cười, đã thét lên hùng tráng, đã ngậm ngùi suy tư qua biết bao cung bậc, qua bao nhiêu tác phẩm, người nhạc sĩ tóc trắng như đóa bạch đào giờ không còn nổi trôi, vương vấn gì nữa. Ông đã mãn nguyện dâng hiến cho dân tộc, cũng như dân tộc đã đón nhận những dâng hiến của ông vượt qua mọi khúc mắc, mọi hạn hẹp để trở về đất mẹ quê hương.
Phạm Duy – Còn đó nỗi buồn ...
Phạm Duy đã mất, đã vĩnh viễn từ giã cõi đời. Ông mất tại Sài Gòn, hưởng thọ 93 tuổi.
Không ai chối cãi Phạm Duy là cây cổ thụ của nền âm nhạc Việt Nam. Sáng tác của ông vô cùng đồ sộ, đủ mọi thể loại âm nhạc từ phổ nhạc cho dân ca, nhạc thính phòng, nhạc trữ tình, nhạc mang âm hưởng dân ca, nhạc ngoại quốc lời Việt... Có thể nói không ngoa rằng sự nghiệp âm nhạc của ông chưa có ai có thể sánh bằng ông.
Không ai chối cãi ông là người ... đào hoa. Những cuộc tình của ông cũng đã làm người bạn đời của ông – nữ ca sĩ Thúy Hằng (đã mất năm 1999) – cũng lắm phen sầu muộn.
Không ai chối cãi ông là người cũng lắm phong trần. Những ngày xa xưa, từ Hà Nội ông đã vào chiến khu theo kháng chiến, rồi trở về lại Hà Nội, rồi vào sinh sống ở Sài gòn sau năm 1954, rồi sang tHoa Kỳ tỵ nạn Cộng Sản vào năm 1975, rồi trở về Việt Nam sống hẳn vào năm 2005, và bây giờ đã vĩnh viễn từ giã cuộc đời...
Không ai chối cãi rằng cuộc đời của ông cũng lắm tai tiếng. Những cuộc tình của ông, giã từ cuộc kháng chiến của Cộng Sản Việt Nam, di cư vào Nam (cũng tốn khá nhiều giấy mực của những tay viết Cộng Sản), sang tỵ nạn Cộng Sản tại Hoa Kỳ, rồi trở về sinh sống ở Việt Nam (người Việt ở hải ngoại cũng nổi cáu không kém).
Bây giờ ông đã về chốn vĩnh hằng. Nơi đó, ca nhạc sĩ Duy Quang đang chờ ông và hai cha con ông đang ngồi đối ẩm. Ông đã giã từ thế giới nhiều phiền muộn này để đến một thế giới khác của sự vĩnh cửu. Tuy nhiên, không ai biết là ông vào thiên đường hay địa ngục?
Dù gì đi nữa, cũng thắp một nén nhang cho cây cổ thụ của nền âm nhạc Việt Nam. Phạm Duy, còn đó nỗi buồn...
Phi Vũ
01/27/13
Sunday, January 27, 2013
NHẠC SỸ PHẠM DUY QUA ĐỜI
Phạm Duy |
Sau thời gian điều trị các bệnh về tim, gan, gút, nhạc sĩ Phạm Duy đã trút hơi thở cuối cùng vào chiều nay 27.1 tại phòng cấp cứu Bệnh viện 115, TP.HCM, thọ 92 tuổi. Gia đình của nhạc sĩ Phạm Duy đã xác nhận với các hang thong tấn báo chí tin trên.
Nhạc sĩ Phạm Duy tên thật là Phạm Duy Cẩn, sinh ngày 5.10.1921, tại phố Hàng Cót, Hà Nội.
Ông được xem là một trong những nhạc sĩ lớn của nền tân nhạc VN với số lượng nhạc phẩm đồ sộ cũng như đa dạng thể loại (nhạc cách mạng, nhạc quê hương, nhạc tình đôi lứa, trường ca, rong ca, đạo ca, thiền ca, tâm ca...). Cùng với sáng tác, ông còn có nhiều công trình khảo cứu về âm nhạc VN có giá trị.
Sau năm 1975, Phạm Duy sang sinh sống tại Hoa Kỳ. Đến tháng 5.2005 ông chính thức trở về Việt Nam định cư. Nhiều ca khúc của ông cũng dần được cấp phép phổ biến trở lại như Mùa thu chết, Giọt mưa trên lá, Tạ ơn đời, Tiễn em, Đi đâu cho thiếp theo cùng (đến nay khoảng 60 bài)…
Mới đây nhất là 8 ca khúc trong 10 bài của tập Đạo ca vừa được cấp phép biểu diễn. Song, tâm nguyện cuối đời của ông, từng được ông chia sẻ trên giường bệnh, là "phát hành cuốn phim tài liệu Phạm Duy - nhạc và đời" đến nay vẫn chưa thành...
Cha của nhạc sĩ Phạm Duy là nhà văn Phạm Duy Tốn. Vợ của ông là ca sĩ Thái Hằng nhưng bà đã qua đời vào năm 1999. Các con của ông cũng là những ca sĩ, nhạc sĩ nổi tiếng như con trưởng là ca sĩ Duy Quang (vừa qua đời vào tháng 12.2012), ca sĩ Thái Hiền, Thái Thảo, nhạc sĩ hòa âm Duy Cường...
Phạm Duy và Hoang Cầm |
Đến cuối đời vẫn miệt mài sáng tác
Cách đây không lâu, khi tìm gặp nhạc sĩ Phạm Duy vào đúng dịp sinh nhật của ông (ngày 5.10.2012), vị nhạc sĩ lão làng này khiến chúng tôi khá bất ngờ vì sức khỏe dẻo dai và sự minh mẫn của ông.
Nhạc sĩ cho biết 30 năm ở ngoại quốc tưởng chừng đã khiến ông cạn kiệt nguồn cảm hứng. Thế nhưng từ khi trở về Việt Nam, ông “như sống lại” với những ý tưởng và cảm hứng dào dạt để cho “ra lò” gần 40 tác phẩm mới.
Ông khoe đã hoàn thành 10 bài Hương ca, 10 bài phổ nhạc từ thơ Bích Khê mang tên Dị khúc đồng thời hoàn tất Truyện Kiều với 37 khúc, dài gần 3 tiếng đồng hồ. Những tác phẩm này đều đang trong quá trình xin cấp phép để phát hành rộng rãi.
Ngoài ra, khi đó nhạc sĩ Phạm Duy cũng cho biết đang thực hiện một quyển sách tập hợp các kinh nghiệm mà ông học hỏi được trong suốt 30 năm ở xứ người, cũng như toàn bộ những tinh hoa ông chắt lọc được trong hành trình đến với âm nhạc.
Đồng thời, ông còn dự định phát hành quyển sách mang tên Vang vọng một thời viết về xuất xứ, hoàn cảnh ra đời của các ca khúc.
“Tôi mắc bệnh… nghiện làm việc dù sức khỏe đã không còn được như xưa. Lúc trước tôi ngồi 5 tiếng trước máy vi tính, giờ thì chỉ 2 tiếng thì phải nghỉ tí rồi mới làm tiếp được”, nhạc sĩ Phạm Duy tâm sự khi gặp chúng tôi vào dịp sinh nhật của ông năm vừa rồi.
Vào khoảng tháng 11.2012, nhiều nguồn tin cho biết sức khỏe nhạc sĩ Phạm Duy đã suy giảm rất nhiều. Khi đó, Thanh Niên Online đã lập tức liên lạc với ông. Qua điện thoại, người nhạc sĩ già vẫn tỉnh táo và trả lời rành rọt rằng: “Tôi bị bệnh tim tái phát, nằm viện được gần một tuần thì xin bác sĩ về nhà vì nằm viện tốn kém quá…”.
Khi ấy chỉ vừa xuất viện được ít ngày, vẫn phải nhờ đến xe lăn để di chuyển nhưng nhạc sĩ Phạm Duy đã liền bắt tay vào công việc soạn nhạc. Trong mail gửi cho bạn bè thân hữu, ông viết: “Moa đã ra viện. Lại làm việc như thường”.
Từng “hỏi gở” nhạc sĩ Phạm Duy về sự ra đi, khi ấy ông cười bảo: “Tôi không bao giờ nghĩ đến chuyện tôi sẽ chết vì tôi sẽ không bao giờ chết được cả. Tôi có chết đi chăng nữa thì nhạc của tôi vẫn sẽ hiện hồn trên môi những người ca hát. Vậy thì làm sao tôi chết được? Còn cái chết xác thịt thì ai cũng phải chết thôi. Tôi sống đến giờ cũng hơi lâu rồi...”.
PHẠM DUY
Phạm Duy (5 tháng 10 năm 1921 - 27 tháng 1 năm 2013[1]) tên thật Phạm Duy Cẩn là một nhạc sĩ, ca sĩ, nhà nghiên cứu nhạc của Việt Nam. Ông được coi là một trong những nhạc sĩ lớn của nền Tân nhạc với số lượng sáng tác đồ sộ và đa dạng về thể loại, trong đó có những bài đã trở nên rất quen thuộc với người Việt. Ngoài sáng tác, Phạm Duy còn có nhiều công trình khảo cứu về âm nhạc Việt Nam có giá trị. Ông cũng từng giữ chức giáo sư nhạc ngữ tại trường Quốc gia Âm nhạc Sài Gòn. Mặc dù vậy, các quan điểm nhìn nhận về Phạm Duy còn gây nhiều tranh cãi.
Khởi sự đời nhạc trong gánh hát Đức Huy với vai trò ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời gian trước khi vào miền Nam để tiếp tục tự do hoạt động âm nhạc. Phạm Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực giành cho cả âm nhạc lẫn chính trị, cho đến sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, khi ông vượt biên sang Hoa Kỳ.
Năm 2005, ông về Việt Nam định cư và một số ca khúc của ông mới bắt đầu được cho phép phổ biến. Tính cho đến nay, có hơn 50 ca khúc trong sốhàng nghìn sáng tác của Phạm Duy được cấp phép.
Tiểu sử
Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, xuất thân từ một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
Sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 năm Tân Dậu) tại phố Hàng Cót, Hà Nội. Phạm Duy học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học tiểu học tại trường Hàng Vôi, học không được giỏi và thường bị phạt. Đến khi 13 tuổi (1934) vào được lớp nhất, ông học giỏi lên dần, thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp.
Năm 1936, vào học ở trường Thăng Long, một trọng điểm trong thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có Võ Nguyên Giáp, còn trong đám bạn cùng lớp có nhà thơ Quang Dũng.
Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... nhưng ông không có năng khiếu nhiều và không ham vẽ cho lắm. Thời kỳ này ông ca hát nhiều hơn là vẽ tranh.
Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay "Cô hái mơ".
Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi rất nhiều miền trên đất nước, từ Bắc chí Nam, khiến ông mở mang tầm mắt, ngoài ra tự nhiên cũng trở thành một trong những nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông... và nhất là nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết.
Sau đó ông khởi sự con đường âm nhạc của mình với việc trở thành ca sĩ trong gánh hát Đức Huy, đi diễn lưu động từ Bắc qua Trung vào Nam trong những năm 1943-1945. Ông là người đầu tiên hát nhạc cải cách trên đài Radio Indochine ở Sài Gòn vào năm 1944, mỗi tuần trình bày 2 lần.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi, sau đó ông theo kháng chiến. Trong thời Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Phạm Duy trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó. Thời kỳ này, bên cạnh tài năng được khen ngợi, thì xu hướng lãng mạn của Phạm Duy bị cho là tiêu cực, nhiều bài hát của ông bắt đầu bị xét duyệt, cấm đoán. Sau do không chịu sự quản thúc ngặt nghèo, ông đã rời bỏ Việt Minh về thành[cần dẫn nguồn]. Từ đó tác phẩm của ông bị cấm phổ biến trong vùng kiểm soát của Việt Minh, cũng như ở miền Bắc sau 1954 và trên cả nước sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng.
Năm 1951, ông đem gia đình về Sài Gòn.
Năm 1953, ông qua Pháp học về âm nhạc, tại đây quen với giáo sư Trần Văn Khê. Về lại miền Nam, ông tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long. Nhạc Phạm Duy phổ biến rất rộng rãi ở miền Nam (mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng gọi là "bàng bạc khắp mọi nơi"[2] thời bấy giờ). Thời gian này ông có những hoạt động trong ngành điện ảnh, và đã gây nên một vụ tai tiếng lớn khắp từ Nam chí Bắc khi ngoại tình với ca sĩ Khánh Ngọc, là vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương - người gọi ông bằng anh rể..
Sau sự kiện này, ông lại dính vào một vụ tình cảm nữa với Alice, con gái của một người tình cũ hồi năm 1944 tên Hélène. Tuy nhiên, ông khẳng định cả hai chuyện này đều là những tình cảm trong sáng: "Vì vấn đề chênh lệch tuổi tác cũng như vì tôi không muốn làm phiền những người chung quanh một lần nữa, tôi quyết định ngay từ lúc đầu rằng đây chỉ là một mối tình giữa hai tâm hồn mà thôi. Tôi cố gắng tránh mọi đụng chạm về xác thịt và tôi hãnh diện để nói rằng nàng vẫn là một trinh nữ khi rời xa tôi để bước chân lên xe hoa về nhà chồng. Là một nghệ sĩ, tôi cần tình yêu để sáng tác, giống như con người cần khí trời để thở. Tôi không cần phải chiếm đoạt ai cả, nhất là chiếm đoạt một người con gái còn ít tuổi. Giữa chúng tôi, không có ràng buộc, trói chặt nhau"[cần dẫn nguồn]. Ông đã viết nhạc và lời cho khá nhiều bài nhân chuyện này: "Nụ Tầm Xuân", "Thương Tình Ca", "Chỉ Chừng Đó Thôi", "Tìm Nhau", "Cho Nhau".
Từ sau 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, lần đầu về thăm quê hương sau 25 năm lưu lạc, ông gặp gỡ nhiều bạn cũ ở Việt Nam.
Tháng 5 năm 2005, ông trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang (ca sĩ), Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, có 9 nhạc phẩm của ông được phép lưu hành ở Việt Nam; tháng 11, được phép lưu hành thêm 10 tác phẩm nữa. Tính đến nay (tháng 8 năm 2007) đã có hơn 40 tác phẩm của Phạm Duy được phổ biến tại Việt Nam, tính cả các đoản ca trong "Trường ca con đường cái quan".
Ông qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 27 tháng 1 năm 2013, một tháng sau cái chết của con ông là ca sĩ Duy Quang.
Phạm Duy và Văn Cao
Phạm Duy là người đầu tiên đem ca khúc Buồn tàn thu của Văn Cao đi khắp mọi miền đất nước. Ông từng có đóng góp vào những tác phẩm của Văn Cao, như cùng đặt lời, viết nhạc cho Bến xuân, Suối mơ. Hai người thường được biết đến như là một đôi bạn thân thiết, có một tình bạn kéo dài nửa thế kỷ, dù đi theo hai con đường đối lập nhau. Họ quen nhau tại Hải Phòng năm1944. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy tả về Văn Cao:
"Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng."[4].
Hai người trở thành đôi bạn thân, thường giúp nhau sáng tác nhạc và ra vào những chốn ăn chơi, sau đó còn rủ nhau theo kháng chiến.
Đến năm 1949, Phạm Duy dinh tê về Nam còn Văn Cao ở lại với cách mạng. Bị cấm liên lạc từ đó đến 1987, khi Phạm Duy ở Hoa Kỳ, Văn Cao ở Việt Nam, họ mới liên lạc với nhau được bằng thư tay, qua một số người Việt kiều. Hai người vẫn xưng hô mày, tao như hồi xưa. Sau này vợ chồng Phạm Duy và vợ chồng Văn Cao còn được nghe giọng nói, xem cử chỉ của nhau bằng tin nhắn qua băng video do cô Nam Trân, một phóng viên truyền hình ở hải ngoại giúp đỡ [5].
Năm 1995 Văn Cao mất, nhưng phải đến 2001 Phạm Duy mới viếng mộ được. Trong lần đầu trở lại quê hương, ông đă cầm một chai rượu rưới lên khắp mộ người bạn chí cốt [5]. .
[sửa]Gia đình
Gia đình Phạm Duy có nhiều người nổi tiếng trong lãnh vực nghệ thuật:
Cha của Phạm Duy là nhà văn Phạm Duy Tốn
Anh cả của Phạm Duy là Phạm Duy Khiêm, một học giả và là một nhà văn viết tiếng Pháp
Người anh thứ hai của Phạm Duy là Phạm Duy Nhượng, một nhà giáo, cũng là một nghệ sĩ tài tử, tác giả bài Tà áo Văn Quân
Vợ của Phạm Duy là ca sĩ Thái Hằng
Một người anh họ của ông là học giả Nguyễn Văn Ngọc[cần dẫn nguồn]
Sau này ông có cha nuôi là học giả Trần Trọng Kim[cần dẫn nguồn]
Các con của Phạm Duy cũng là những ca sĩ, nhạc sĩ:
Ca sĩ Thái Hiền
Ca sĩ Duy Quang
Ca sĩ Thái Thảo
Nhạc sĩ hòa âm Duy Cường
Ngoài ra có thể kể đến:
Ca sĩ Thái Thanh, em gái của bà Thái Hằng
Ca sĩ Ý Lan, con gái của Thái Thanh, tức cháu gái của Thái Hằng
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương, em trai của Thái Hằng, là ca sĩ Hoài Bắc của ban hợp ca Thăng Long.
Nghệ sĩ Phạm Đình Sỹ, anh trai của Thái Hằng
Phạm Đình Viêm, anh trai của Thái Hằng, là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.
Ca sĩ Tuấn Ngọc, chồng của Thái Thảo
Ca sĩ Mai Hương, con gái của Phạm Đình Sỹ, tức cháu gái của Thái Hằng
Sự nghiệp
Thời kỳ tiền chiến
Năm 1942, khi còn đang hát cho gánh hát Đức Huy, Phạm Duy cho ra đời tác phẩm đầu tay Cô hái mơ, phổ nhạc cho bài thơ Cô hái mơ của Nguyễn Bính. Năm 1944 đến bài hùng ca Gươm tráng sĩ, là bài hát đầu tiên ông viết cả lời lẫn nhạc.
Thời kháng chiến Nam bộ (1945–1946) ông chơi thân với Văn Cao, ngoài việc cùng ra vào chốn ăn chơi, ông và Văn Cao còn giúp nhau trong phương diện sáng tác (chẳng hạn một số ca khúc của văn cao do ông đặt lời, như bài Bến Xuân). Những nhạc phẩm đầu tay của ông có nhiều hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu... Bên cạnh đó còn có nhạc tình lãng mạn, trong đó có nhiều bài giúp ông trở nên nổi tiếng: Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya...
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc âm hưởng dân ca với mong muốn xâm nhập sâu vào chốn thôn quê hơn, từ đó cho ra đời nhiều bài mà ông gọi là "Dân ca mới", rất được đông đảo quần chúng yêu thích: Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều... Những bài này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí:
Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn
Nhạc sĩ Phạm Duy đang biểu diễn tại một quán nước
Từ năm 1948, bên cạnh những bài có sắc thái tươi vui như: Gánh lúa, Đường ra biên ải... Ông có sáng tác thêm một thể loại mới: nói về sự đau khổ của những người sống trong chiến tranh. Những bài như: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru... đều có hình ảnh làng quê và người dân quê nghèo khổ.
Những bài hát này tuy được quần chúng yêu thích và phổ biến rất rộng rãi, nhưng do nói về sự bi, sự khổ mà Phạm Duy bắt đầu bị sự chỉ trích của cấp trên thời kháng chiến, ông bèn về miền Nam để tự do sáng tác. Năm 1952, bài Tình hoài hương ra đời, khởi xướng cho xu hướng sáng tác "Tình ca quê hương", sau đó là Tình ca; hai bài này được yêu thích từ Nam ra Bắc và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương, với những câu như: "Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất, lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng nâu trên đường bước dồn, lửa bếp nồng, vòm tre non làn khói ấm hương thôn" (trong Tình hoài hương), "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời" (trong Tình ca).
Tiếp đó ông trở về thể loại dân ca mới với những bài Đố ai, Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo... Bên cạnh đó là Thuyền viễn xứ, Viễn dunói về sự chia lìa quê hương. Bài Hẹn hò nói về sự ngăn chia đôi lứa, ông dùng nhạc ngũ cung giọng Huế. Ngoài ra còn có: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì... Năm 1954, ông chuyển từ nhạc tình ca quê hương sang tự tình dân tộc, soạn ra Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, trong đó có Em bé quê với những câu đầu lấy trong sách giáo khoa Quốc Văn, được trẻ con thuộc như bài đồng dao.
[sửa]Thời chia cắt đất nước
Sau khi sang Pháp du học âm nhạc, ông sáng tác thêm được nhiều bài giá trị, ban đầu vẫn là "Dân ca mới", lại có thêm nhiều tác phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa mà phổ biến nhất phải kể đến "Đừng xa nhau", "Ngày đó chúng mình", "Tìm nhau"...
Lúc này ông sáng tác tự do theo nhiều chủ đề, những bài hát như nói về tâm tưởng '"Chiều về trên sông", "Một bàn tay", "Tạ ơn đời", "Đường chiều lá rụng", "Nước mắt rơi"... được Thái Thanh, Kim Tước, Quỳnh Giao thể hiện thành công; nhất là ca sĩ Thái Thanh, em của Thái Hằng, tên tuổi của bà đã gắn liền với những tác phẩm "Dân ca mới" và nhạc tình của Phạm Duy.
Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật. Bản Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết.
[sửa]Thời kỳ ở hải ngoại
Tại Hoa kỳ, thời gian đầu ông sáng tác một số ca khúc nói lên nỗi buồn tha hương, cũng như đả phá chế độ tại Việt Nam, những bản nhạc đó được phổ biến trong băng nhạc Phượng Nga. Nhưng sau này ông sáng tác những bài tình ca trở lại. Đáng kể nhất trong thời gian ở hải ngoại là bộ Minh họa Kiều (phổ nhạc truyện Kiều), Trường ca Hàn Mặc Tử, Hương Ca (lúc đầu chỉ có 7 bài), ...
[sửa]Trở về Việt Nam
Sau nhiều lần về thăm quê hương,[6]. Phạm Duy chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm 2005, với sự cho phép của chính phủ Việt Nam[7]. Sự kiện này được truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt[7][8][9]. Báo chí Việt Nam nhận xét đó là "nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ"[7], "niềm vui thống nhất lòng người"[8], còn Phạm Duy nói cuộc trở về này là "lá rụng về cội"[10][11]. Bên cạnh đó, sự kiện này còn gặp phải sự phản đối của người Việt hải ngoại, vì họ cho rằng ông đã về phe cộng sản.
Công ty Phương Nam cũng nhân dịp này, đã đứng ra mua bản quyền toàn bộ nhạc phẩm của Phạm Duy trong vòng 10 năm với giá hơn 400 nghìn đôla .
Năm 2006, Phạm Duy tổ chức đêm nhạc mang tên "Ngày trở về" tại nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, đêm nhạc tổ chức quy mô hoành tráng, được công chúng đón nhận nhiệt liệt. Một số nhân vật đã phản đối sự đón nhận này, trong đó có nhà báo Nguyễn Lưu với bài "Không thể tung hô" đăng trên báo Đầu tư. Tuy nhiên bài viết của Nguyễn Lưu vấp phải sự phản đối của nhiều độc giả, bị cho là mắc nhiều "sai lầm ngây ngô", và những "lỗ hổng kiến thức chết người". Công ty Phương Nam cũng phản hồi bài viết này bằng một bài báo, trong đó nội dung phần lớn để cải chính những kiến thức sai lầm trong bài của Nguyễn Lưu.. Sau đó báo Đầu tư đã thông báo chấm dứt tranh luận về vấn đề này.
Nhiều đêm nhạc Phạm Duy khác với quy mô lớn tiếp tục diễn ra: Con đường tình ta đi, Ngày trở về tại nhiều tỉnh miền Trung, những đêm giới thiệu Minh họa Kiều tại miền Bắc.. Tháng 3 năm 2009, đêm "Ngày trở về" đã tổ chức thành công ở nhà hát lớn, Hà Nội, nơi ông sinh ra, "Xong buổi diễn, tôi mới thực sự là người về hưu" - ông phát biểu [18]. Ngày 18 tháng 8 năm 2011 ban liên lạc họ Phạm tại Tp Hồ Chí Minh và công ty TNHH họ Phạm Phương Nam tổ chức đêm nhạc Họ Phạm với chủ đề: "Mọi trái tim - một tấm lòng" cũng mời ông và nhạc sỹ Phạm Tuyên tới dự.
[sửa]Phạm Duy tại những vùng cấm
Nhạc Phạm Duy từng rất phổ biến khắp cả miền Nam, miền Bắc nước Việt Nam trong những năm 1945-1954 và được nhiều người hát. Nhưng từ khi ông tỏ ra bất phục với chính quyền cách mạng, đã có nhiều nhìn nhận khắt khe về ông dẫn đến việc cấm hát, cấm nói về Phạm Duy - nhạc Phạm Duy từ sau năm 1954 tại miền Bắc, và việc ông vượt biên sang Mỹ đã khiến nhà nước Việt Nam đưa ông vào danh sách 2 người bị cấm toàn bộ về nhân thân trên toàn nước Việt Nam từ sau 1975.
Tại Bắc Việt Nam trước 1975
Theo hồi ký của Phạm Duy thì lệnh cấm nhạc của ông bắt đầu từ bài Bên cầu biên giới, ra đời năm 1952; bài này bị chỉ trích là có thứ tình cảm bỉ mị buồn bã, làm nản lòng người ta. Sau khi được Nguyễn Xuân Khoát thông báo lệnh cấm, Phạm Duy rời bỏ cách mạng về miền Nam.
Ban đầu tại các diễn đàn văn nghệ còn có những cuộc bàn cãi về việc cho hay không cho hát nhạc Phạm Duy, nhưng về sau thì cấm tiệt. Từ đó, nhạc Phạm Duy bị liệt vào hạng phản động, tên tuổi của ông được đem ra phê phán. Ông cũng bị nghi ngờ có liên hệ với CIA.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận là người hưởng ứng nhiệt tình việc này, ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Trong các bài viết năm 1958 và 1969, Đỗ Nhuận gọi việc sinh viên miền Bắc phổ biến bài Tìm nhau của Phạm Duy là "rải tuyên truyền", Đỗ Nhuận gọi bài đó là "dâm ô".
Tại Việt Nam từ 1975 đến 2005
Sau ngày thống nhất đất nước, Trần Văn Khê từ Pháp có về hỏi Tố Hữu về vụ Phạm Duy, Tố Hữu nói: "Bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi"[20], nghĩa là vẫn nên phổ biến sau khi bỏ hết những bài sáng tác thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi nhạc Phạm Duy vẫn bị cấm trên cả nước, ngoài ra bàn luận về Phạm Duy cũng bị cấm. Ông cùng với Hoàng Thi Thơ là hai nhạc sĩ đặc biệt nhất bị cấm về nhân thân.
Tuy vậy, khoảng 30 năm, vẫn thấy vài người viết về Phạm Duy. Trong cuốn Những bài viết tiến bộ công khai trên báo chí Sài Gòn từ 1954 – 1975 có cho đăng lại một phần trích đoạn của cuốnPhạm Duy đă chết như thế nào. Hay như thi sĩ Chế Lan Viên cũng nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên "Hồi Ký" đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986:
"Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh."
Bài viết của Chế Lan Viên kết thúc bằng đoạn:
"Vâng chỉ có trường hợp anh Phạm Duy là…là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết, lá rụng đều về cội cả và mọc lên thành cội nữa."
Nhà báo Nguyễn Phúc Long trong bài "Công và tội" đăng trên báo Đoàn kết, số 393 ra tháng 7 năm 1987, có nhắc đến Phạm Duy, sau một loạt tên tuổi mà ông cho là "phản bội", nhưng vẫn có công cho văn hoá nước nhà như Trần Ích Tắc, Lê Trắc, Phạm Thái, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Khiêm, Võ Phiến và nhóm Tự Lực Văn Đoàn:
"Trong lĩnh vực ca nhạc, Phạm Duy, “con người của phản bội”, bị nhân dân ta khinh bỉ cũng đă có cái may mắn là để lại cho chúng ta một số bài hát giàu tính dân ca và trữ tình nhất là những bài được ông ta sáng tác trong thời kỳ đi theo kháng chiến – 1946 - 1949."
Đến năm 1994, báo chí Việt Nam mới có một bài thiện ý với Phạm Duy. Đó là bài thơ "Về thôi" mà nhà văn Lưu Trọng Văn, con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư, gửi lên tờ Tuổi trẻ chủ nhật, có đề chữ "Tặng P.D." bên cạnh. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đă phổ nhạc bài này. Rồi sau đó chính Phạm Duy cũng phổ nhạc với tên "Trăm năm bến cũ". Theo Phạm Duy, đây là bài thơ làm ông nghĩ nhiều tới việc về thăm Việt Nam, mà năm 2001 ông đă thực hiện.
Phân loại tác phẩm
Bài chi tiết: Nhạc Phạm Duy
Các sáng tác của Phạm Duy có thể chia ra làm nhiều loại:
Nhạc cách mạng: Sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nói lên sự căm giận của người dân quê đối với giặc cướp nước, phá làng. Tiêu biểu có thể kể: Bà mẹ Gio Linh, Mười hai lời ru, Chiến sĩ vô danh.
Nhạc quê hương: Một phần quan trọng trong sự nghiệp của ông, gồm những bài ca ngợi quê hương đất nước, hình ảnh con trâu, đồng lúa, cái cày... Nhiều bài rất quen thuộc với người Việt: Tình ca, Về miền Trung, Tình hoài hương, Bà mẹ quê, Em bé quê...
Nhạc tình đôi lứa: Tình yêu là một đề tài lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy. Nhạc tình có khối lượng nhiều nhất trong kho nhạc đồ sộ của ông, có thể kể những bài được giới trẻ trong nam ngoài bắc hát như Hẹn hò, Cỏ hồng, Ngày đó chúng mình, Cây đàn bỏ quên, Phượng yêu, Kiếp nào có yêu nhau, Đừng xa nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Tôi còn yêu tôi cứ yêu, Trả lại em yêu, Giết người trong mộng...
Nhạc tâm tư: Ngoài viết về tình yêu trai gái, tình yêu quê hương, thì những sự suy tưởng cao siêu hay nhớ nhung buồn nản vẩn vơ cũng được Phạm Duy ghi lại thành nhạc, có thể kể đếnĐường chiều lá rụng, Bên cầu biên giới, Chiều về trên sông, Dạ lai hương, Viễn du... Hay những bài nói lên tâm trạng phẫn uất trước nội chiến, cảm khái trước thế thời như: Huyền sử ca một người mang tên Quốc.
Trường ca: Những tác phẩm lớn khiến ông có một địa vị chắc chắn trong nền tân nhạc Việt Nam: Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam, Hàn Mạc Tử, sau này là Minh họa Kiều, bản trường ca dài nhất và hoàn thành lâu nhất của ông.
Rong ca: Gồm 10 bài sáng tác năm 1988: Người tình già trên đầu non, Hẹn em năm 2000, Mẹ năm 2000, Mộ phần thế kỷ, Ngụ ngôn mùa Xuân, Nắng chiều rực rỡ, Bài hát nghìn thu, Trăng già, Ngựa hồng, Rong khúc.
Đạo ca: Gồm 10 bài, phổ thơ của Phạm Thiên Thư vào thập niên 1970: Pháp thân, Đại nguyện, Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng, Quán thế âm, Một cành mai, Lời ru bú mớm nâng niu, Qua suối mây hồng, Giọt chuông cam lộ, Chắp tay hoa, Tâm xuân.
Thiền ca: Gồm 10 bài, sáng tác vào thập niên 1980: Thinh không, Võng, Thế thôi, Không tên, Xuân, Chiều, Người tình, Răn, Thiên đàng địa ngục, Nhân quả.
Tâm ca: Gồm 10 bài, thở than về những xáo trộn trong cuộc sống người dân miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ: Tôi ước mơ (thơ Thích Nhất Hạnh), Để lại cho em (thơNguyễn Đắc Xuân), Tiếng hát to, Ngồi gần nhau, Giọt mưa trên lá, Một cành củi khô, Kẻ thù ta (ý thơ Nhất Hạnh), Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi. Ngoài ra còn nhiều bài khác cũng theo hướng Tâm ca như Những gì sẽ đem theo về cõi chết, Tôi còn yêu tôi cứ yêu.
Tâm phẫn ca: Sáng tác sau Tết Mậu Thân: Tôi không phải gỗ đá, Nhân danh (thơ Tâm Hằng), Bi hài kịch (thơ Thái Luân), Đi vào quê hương (thơ Hoa Đất Nắng), Người lính trẻ, Bà mẹ phù sa... Ngoài ra còn một số bài sáng tác cho phong trào du ca.
Tục ca, vỉa hè ca: Gồm những bài ca lời dung tục, chỉ có tác giả hát, không ca sĩ nào hát.
Bên cạnh những thể loại kể trên, còn có Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ, Tị nạn ca nói về tâm trạng và sự khó nhọc của người ly hương; Hoàng Cầm ca phổ những bài thơ của thi sĩ Hoàng Cầm; Hương ca sáng tác khi ông về ở Việt Nam...
[sửa]Trường ca
"Con đường cái quan"
Bài chi tiết: Con đường cái quan
Những dòng nhạc đầu tiên của trường ca này được ông sáng tác năm 1954 tại Paris, ngay khi Hiệp định Genève vừa ký kết để phản đối sự chia cắt đất nước. Phần còn lại được soạn sau đó 6 năm, hoàn tất năm 1960. Cho đến nay đây vẫn là trường ca thành công nhất của Phạm Duy.
Nội dung trường ca nói về một sự du hành từ miền Bắc Việt Nam, qua miền Trung Việt Nam, đến miền Nam Việt Nam của một người du khách, với chí hướng nối ba miền làm một. Chuyến đi ấy bắt đầu từ Ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, từ ngày lập quốc cho đến ngày hoàn thành, đi trong lịch sử nhưng cũng là trong lòng người dân để nối liền đất nước, nối liền lòng dân, mà đi tới đâu người lữ khách cũng được dân chúng miền đó đón chào.
Trường ca này gồm có ba phần: từ miền Bắc, qua miền Trung, vào miền Nam. Mỗi phần được sáng tác theo phong cách dân ca nơi đó và mỗi phần mang một ý nghĩa riêng. Phần từ miền Bắc bắt đầu bằng âm điệu hào hùng, như tâm trạng người vừa lên đường vì chí lớn, và trở nên dịu êm dần. Nhạc chuyển thành đau xót ở phần qua miền Trung, do chứng kiến cảnh lầm than của dân. Nhạc tươi sáng dần lên khi sang đoạn vào miền Nam vì lòng sung sướng của người lữ khách đã làm được một việc lớn.
Theo nhiều người (Trần Văn Khê, Georges Étienne Gauthier...), trường ca "Con đường cái quan" đã chứng tỏ có thể đem yếu tố nhạc Việt Nam truyền thống kết hợp với nhạc giao hưởng phong cách Tây phương mà vẫn không làm mất tính chất Việt. Trường ca được phát sóng rất nhiều lần trên Đài Phát thanh Sài Gòn với giọng Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân để trở những giai điệu quen thuộc nhất của Việt Nam. Nhiều sinh viên ở nhiều nơi đã dựng tác phẩm này thành một hoạt cảnh. Sau này, khi nhạc Phạm Duy đã bị cấm tại Việt Nam, đài truyền hình Bình Dương vẫn thường mở một vài đoạn hoà tấu ngắn trong trường ca lúc chuyển tiếp chương trình.
"Mẹ Việt Nam"
Bài chi tiết: Mẹ Việt Nam (trường ca)
Tác phẩm này rực rỡ không kém trường ca Con đường cái quan. Mẹ Việt Nam soạn năm 1964 và hoàn thành trong năm đó, ca tụng hình ảnh người mẹ tổ quốc hay những bà mẹ điển hình tronglịch sử.
Trường ca gồm 4 phần: Đất mẹ, Núi mẹ, Sông mẹ và Biển mẹ, tượng trưng cho các giai đoạn của bà mẹ: từ tươi trẻ mầu mỡ đến kiên cường sắt đá rồi thì rộng lượng bao dung. Khi sáng tạo hình ảnh người mẹ trong trường ca này, tác giả có ý đi tìm "mẫu số chung" của dân tộc. Tác phẩm này có phong cách dân ca với giọng khoan hò và điệu ru con mà giai điệu và lời, theo Georges Étienne Gauthier trong cuốn Một người Gia Nã Đại với nhạc Phạm Duy, đã đạt tới trình độ "toàn thiện".
Về sự phổ biến, trường ca "Mẹ Việt Nam" có lẽ không được rộng rãi như "Con đường cái quan", nhưng vẫn rất được nhiều người yêu thích qua những giọng của Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân.
"Hàn Mạc Tử"
Bài chi tiết: Hàn Mặc Tử (trường ca)
Trường ca này được sáng tác bên Mỹ vào năm 1994, dựa vào 9 bài thơ của Hàn Mạc Tử. Trường ca gồm ba phần: Tình quê, Trăng sao và Ave Maria, mà tác giả đã cố ý diễn tả tâm trạng của Hàn Mạc Tử qua giai điệu của mình. Do sáng tác bên Mỹ và chỉ hát bên Mỹ, cộng với giai điệu mang nhiều phong cách Tây phương nên trường ca này không phổ biến tại Việt Nam bằng hai trường ca trên, tuy vậy vẫn được xem là thành công với giọng hát Tuấn Ngọc, Thái Hiền, Duy Quang, Thái Thảo.
"Bầy chim bỏ xứ"
Bài chi tiết: Bầy chim bỏ xứ
Theo Phạm Duy, "Con đường cái quan" mang tính chất tả thực, "Mẹ Việt Nam" mang tính chất tượng trưng, "Hàn Mạc Tử" mang tính chất siêu hình, thì "Bầy chim bỏ xứ" mang tính chất ẩn dụ.
Trường ca này có thể cho là một thành công của Phạm Duy, dù chỉ ở hải ngoại. Khởi soạn năm 1975, hoàn tất năm 1985, thu thanh năm 1990, với các giọng ca Kim Tước, Vũ Anh, tác phẩm này gồm 16 đoản khúc (có thể là 16 bài hát riêng) nói về một bầy chim, mà mỗi con chim ẩn dụ cho một hạng người, một số phận khác nhau... mà chính nhất là chim quyên, lấy cảm hứng từ tích Thục Đế. Chim quyên rời bỏ thôn Đoài, trải qua bao nhiêu việc, bao nhiêu lần hoá thân, rồi chết nơi xứ người, nhưng từ đống tro tàn ấy, chim quyên lại tái sinh để về lại thôn Đoài.
"Minh họa Kiều"
Bài chi tiết: Minh họa Kiều
Như tên của nó, tác phẩm này có ý minh họa lại truyện Kiều của Nguyễn Du, để thể hiện lòng kính trọng của tác giả với nhà đại thi hào. Đây là tác phẩm rất dài vì gom gần hết những lời thơ trong Truyện Kiều, âm điệu cũng phức tạp nhưng không đậm màu dân ca. "Minh họa Kiều" chia ra làm bốn phần, bốn giai đoạn của Thuý Kiều: phần một Kiều gặp Đạm Tiên, biết được số phận long đong của mình; phần hai Kiều gặp Kim Trọng, tình yêu nảy nở nhưng biết là không trọn vẹn; phần ba là giai đoạn khổ nhục của Thuý Kiều; phần bốn Kiều gặp Từ Hải, phần này tác giả chưa soạn xong.
Theo Phạm Duy, đây là tác phẩm ông bỏ công nhiều nhất (sáng tác những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21). Tác phẩm được thể hiện đầu tiên với giọng Duy Quang, Tuấn Ngọc, Thái Hiền,Ái Vân, Thanh Ngoan, Thái Thảo, Anh Dũng,...
Tháng 3 năm 2009, ông cho biết đã hoàn thành Minh họa Kiều, ông có nhiều buổi diễn thuyết tại Hà Nội về đề tài này.
Phổ nhạc, đặt lời
Bài chi tiết: Thơ phổ nhạc Phạm Duy
Phạm Duy được xem là một trong số ít nhạc sĩ Việt Nam giỏi về nghệ thuật phổ nhạc vào thơ và đặt lời cho nhạc nước ngoài, nhạc bán cổ điển.
Những tác phẩm thơ phổ nhạc thành công nhất của ông có thể kể đến "Ngậm ngùi" (thơ Huy Cận - nhà thơ Huy Cận từng gửi lời cám ơn ông về việc giúp bài thơ này nổi tiếng); "Ngày xưa Hoàng Thị" (thơ Phạm Thiên Thư); "Áo anh sứt chỉ đường tà" (trích Màu tím hoa sim của Hữu Loan); "Tiễn em" (thơ Cung Trầm Tưởng); "Tỳ bà" (thơ Bích Khê); "Vần thơ sầu rụng", "Tiếng thu" (thơ Lưu Trọng Lư); "Tình cầm" (thơ Hoàng Cầm); "Em hiền như Masoeur", "Thà như giọt mưa", "Hai năm tình lận đận" (thơ Nguyễn Tất Nhiên)...
Nhiều ca khúc nước ngoài nhờ ông đặt lời Việt mà trở nên phổ biến ở Việt Nam, như "Em đẹp nhất đêm nay" (La plus belle pour aller danser), "Khi xưa ta bé" (Bang bang), "Tình cho không" (L'amour c'est pour rien), "Tuyết Rơi" (Tomber la neige), "Tiếng Cười Trong Đêm" (La nuit), "Những Mùa Nắng Đẹp" (Seasons in The Sun), "Chuyện tình" (Where Do I Begin - nhạc phim Love Story của Andy Williams),... Ngoài ra ông còn đặt lời cho dân ca của nhiều nước trên thế giới.
Tiếp đến là những tác phẩm nhạc bán cổ điển, vốn là loại nhạc khó hoà nhập, thì ông cùng với tiếng hát Thái Thanh đã dễ dàng đưa đến số đông dân chúng: "Dạ khúc" (Nächtliches Ständchencủa Franz Schubert), "Dòng sông xanh" (An der schönen blauen Donau op. 314 của Johann Strauss), "Mối tình xa xưa" (Célèbre Valse, hay bài số 15 trong "16 bài valse cho piano", củaJohannes Brahms)...
Ca sĩ thể hiện
Thành công nhất với nhạc Phạm Duy cho đến nay là Thái Thanh. Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy từ những ngày đầu ông sáng tác, bà đã biểu diễn và ghi âm hàng trăm bài. Từ những bài "Dân ca mới" như Tình ca, Người về, Về miền Trung, Quê nghèo, Tình hoài hương,..., những bài có âm điệu phức tạp như Đường chiều lá rụng, Chiều về trên sông... đến tình ca đôi lứa dễ hát dễ thuộc như Ngày xưa Hoàng Thị, Nghìn thu, Dạ lai hương... bà đều thể hiện tốt với sự đồng cảm. Nhạc Phạm Duy - giọng Thái Thanh đã là sự kết hợp hoàn hảo suốt nhiều thập kỷ qua.
Về mảng nhạc mang âm hưởng dân ca, ngoài Thái Thanh còn có một giọng nam thể hiện thành công là Duy Khánh. Những bản Ngày trở về, Chiến sĩ vô danh, Một bàn tay, Những bàn chân, Quê nghèo, Về miền Trung, Dân ca thương binh, Dặn dò,.. từng nổi tiếng cùng với tên tuổi Duy Khánh. Duy Khánh cùng với Thái Thanh là hai ca sĩ đầu tiên thể hiện hai trường ca Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam, và được xem là thành công nhất. Cho đến nay chỉ có vài ca sĩ hay nhóm nhạc hát lại hai trường ca này.
Ngoài hai danh ca trên, có thể kể đến Khánh Ly với rất nhiều ca khúc thành công như Xuân Thì, Khối tình Trương Chi, Còn gì nữa đâu, 54-75, Bên Ni Bên Nớ; Kim Tước, Quỳnh Giao, Mai Hương, Hà Thanh hát ít nhưng cũng được yêu thích với những phong cách riêng. Một số ca sĩ thành công với những bài riêng như Julie với Mùa thu chết, Yêu Tinh Tình Nữ, Huyền thoại trên một vùng biển; Lệ Thu với Ngậm ngùi, Thuyền viễn xứ, Nước Mắt Mùa Thu, Người Về; Duy Quang với Chỉ chừng đó thôi, Em hiền như Masoeur, Cô bắc kỳ nho nhỏ; Tuấn Ngọc với Tiễn em, Hẹn hò, Trăng sao rớt rụng; Thái Hiền thì nổi danh khoảng thập niên 1970 với những bài nhạc Phạm Duy sáng tác cho "tuổi ô mai". Gần đây có các ca sĩ Bích Liên, Mộng Thủy,... tại Mỹ cũng hát thành công nhạc Phạm Duy.
Gần đây có nhóm ca sĩ trẻ ở Việt Nam gồm Mỹ Linh, Đức Tuấn, Quang Linh... cũng hay hát nhạc Phạm Duy, riêng nam ca sĩ Đức Tuấn đã cho là mình thành công với nhạc Phạm Duy trong một bài phỏng vấn.
Nhận xét
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý:
"Trong "gia tài" của Phạm Duy, có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc. Chẳng hạn như "Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười"… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ." - Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương:
"Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ nàỵ" - Trong bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ
Giáo sư Trần Văn Khê:
"Từ trước đến giờ, tôi chỉ thấy Mai Văn Bộ, Lê Thương và Phạm Duy là đặt lời đẹp nhất - từ năm 1950 đến giờ tôi không theo sát phong trào nhạc mới nên có thể có nhiều người khác đặt lời đẹp mà tôi chưa biết - Có điều tôi chắc là trong hầu hết những bài hát của Phạm Duy, lời và nhạc chẳng những hay, mà lại có tánh cách giản dị, mộc mạc và nên thơ của những bài ca daọ Những câu lục bát biến thể, hay những câu lục bát có thêm tiếng đệm được phổ nhạc một cách tài tình." - Trong bài viết Nhân xem trường ca "Con đường cái quan" của Phạm Duy
Thi sĩ Nguyên Sa:
"Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ... Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi Viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương." - Trong bài viết Phạm Duy, đại lực sĩ
Nhà nghiên cứu nhạc Georges-Étienne Gauthier:
"Sở dĩ cái tiếng Việt Nam có thể gợi nơi tôi một chút ý tưởng hoà bình và đẹp đẽ, nhân ái và từ thiện, sở dĩ trải qua nhiều tháng nhiều năm, tôi đã có thể yêu mến nước Việt Nam ít ra cũng như yêu mến chính nước tôi, sở dĩ như thế trước hết và trên hết là chính nhờ Phạm Duy và một số nghệ sĩ Việt Nam khác." - Trong cuốn Một người Gia Nã Đại và nhạc Phạm Duy
Danh mục
Viết về Phạm Duy
Nhạc
Trong bài hát "Sài Gòn niềm nhớ không tên" của nhà thơ Nguyễn Đình Toàn có đoạn:
Sài Gòn ơi! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhauNhớ Phạm Duy với tình ca sầuMắt lệ rơi khóc thuở ban đầuCòn gì đâu...Sách
Một người Gia Nã Đại và nhạc Phạm Duy - Georges-Étienne Gauthier
Phạm Duy - còn đó nỗi buồn - Tạ Tỵ
Nửa thế kỷ Phạm Duy - Xuân Vũ
Hồi ký Phạm Duy - Phạm Duy
Hành trình Phạm Duy qua dòng lịch sử - Jason Gibbs
Tiểu luận, báo chí
Phạm Duy, đại lực sĩ; Phạm Duy với ngàn lời ca - Nguyên Sa
Văn Cao - Phạm Duy : Trần Gian Và Tiên Cảnh - Thụy Khuê
His Music Links The Generations - Los Angeles Times
Phạm Duy Thể Nghiệm Việt Nhạc - Latina Musica Contemporanea Del Mundo
Nghệ thuật phổ thơ vào nhạc - Phạm Quang Tuấn
Viết về Phạm Duy - Nguyễn Đình Toàn
Con đường cái quan - Georges-Étienne Gauthier
Phạm Duy, Vietnam's Music Man - Ngọc Bích
Văn Cao - Phạm Duy : Hai con người, một mối tình - Phạm Thế Định
Phạm Duy và tiếng hát quê hương - Giao Chỉ
Phạm Duy và tôi - Ngô Đồng
Phạm Duy, Con én đưa thoi - Cổ Ngư
Phạm Duy - Nhạc sỹ vượt thời gian - Nguyễn Ngọc Sơn
Tính hiện thực trong ca từ của Phạm Duy - Trần Hữu Thục
Phạm Duy người nghệ sĩ tự do - Đỗ Xuân Kiên
Nhạc phẩm
Để xem đầy đủ danh sách các sáng tác của Phạm Duy, xem Nhạc Phạm Duy.
Áo anh sứt chỉ đường tà
Bà mẹ Gio Linh
Bà mẹ phù sa
Bên cầu biên giới
Bên ni bên nớ
Bao giờ biết tương tư
Cây đàn bỏ quên
Chiều về trên sông
Con đường cái quan
Chỉ chừng đó thôi (ĐVH vol 4)
Còn chút gì để nhớ
Dạ lai hương
Đạo ca
Đường chiều lá rụng
Đưa em tìm động hoa vàng
Giọt mưa trên lá
Giải thoát cho em
Giết người trong mộng
Giờ thì em yêu
Giọt chuông cam lộ
Gọi em là đóa hoa sầu
Hạ hồng
Hẹn hò
Kỷ vật cho em
Kỷ niệm
Minh Họa Kiều
Mộ khúc
Mẹ Việt Nam
Ngày trở về
Nha Trang ngày về
Ngày xưa Hoàng Thị
Ngày đó chúng mình
Ngày em hai mươi tuổi
Ngày sẽ tới
Ngày tháng hạ
Ngày trở về
Ngày xưa
Nghìn năm vẫn chưa quên
Nghìn thu
Ngồi gần nhau
Ngọn trào quay súng
Ngụ ngôn mùa đông
Ngựa hồng
Người lính bên tê
Người lính trẻ
Người tình
Người tình già trên đầu non
Người về
Người việt cao quý
Ngậm ngùi
Nha Trang ngày về
Nhạc tuổi xanh
Phố buồn
Quê nghèo
Rong ca
Tâm ca
Thiền ca
Thông điệp mùa xuân
Thương ca chiến trường
Tình ca
Tình hoài hương
Tiếng thu
Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ
Trường ca Con đường cái quan
Trường ca Hàn Mặc Tử
Trường ca Mẹ Việt Nam
Tục ca
Về miền Trung
Vần thơ sầu rụng
Quán bên đường
Quán Thế Âm
Răn
Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà
Rong khúc
Ru con
Thu ca điệu ru đơn
Thu chiến trường
Thương ai nhớ ai
Thương tình ca
Thuyền viễn xứ
Tiễn em
Tiếng bước trên đường khuya
Tiếng hát to
Tiếng hát trên sông
Tiếng hát trên sông Lô
Tiếng hò miền Nam
Tiếng sáo Thiên Thai
Tiếng thời xưa
Viễn du
Xin em giữ dùm anh
Xin tình yêu Giáng sinh
Xuân
Xuân ca
Xuân hành
Xuân hiền
Xuân thì
Xuất quân
Yêu em vào cõi chết
Yêu là chết trong lòng
Tập nhạc đã in
Những điệu hát bình dân Nhà xuất bản Đất Mới -Thanh Hoá, 1950.
Tình ca, Tự xuất bản - Saigon, 1969.
Một mẹ trăm con, Bộ Thông Tin - Saigon, 1962.
Trường Ca Con đường cái quan, Tập san Sáng dội miền Nam - Saigon,1960 và Quảng hoá - Saigon, 1970.
Mười Bài Tâm Ca, Lá Bối - Saigon, 1965.
Ngày đó chúng mình yêu nhau - An Tiêm - Saigon, 1968.
Gìn vàng Giữ ngọc, Saigon, 1971
Nghìn trùng xa cách, An Tiêm - Saigon, 1968.
Hát vào đời, An Tiêm - Saigon, 1969.
Vòng tay thế giới, Quảng Hóa - Saigon, 1969.
Giết người trong mộng, Trí Dũng - Saigon, 1970.
Ca khúc cho ngày mai, Quảng Hóa - Saigon, 1970.
Cho nhau riêng nhau một đời, Khai Phóng - Saigon, 1970.
Giọt lệ cho tình ta, Chân Mây - Saigon, 1970.
Mười bảy tình ca bất tử Thương Yêu - Saigon, 1971.
Đạo ca, Văn học sử - Saigon, 1971.
Nhi đồng ca, Cục Tâm lý chiến - Saigon,1971.
Kỷ vật chúng ta, Gìn vàng Giữ ngọc - Saigon, 1971.
Thương ca chiến trường, Gìn vàng Giữ ngọc - Saigon, 1971.
Chiến ca mùa hè, Tiên Rồng- Saigon, 1972.
Con đường tình ta đi, Gìn vàng Giữ ngọc- Saigon, 1973.
Tuyển tập nhạc tiền chiến (trong đó có nhạc Phạm Duy) Kẻ sĩ - Saigon, 1968.
Tuyển tập 20 năm nhạc tình(trong đó có nhạc Phạm Duy) Khai Phóng - Saigon,1970.
Hoàng cầm ca, Hội văn hoá VN tại Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, 1984.
Thấm thoát mười năm, Hội văn hoá VN tại Bắc Mỹ - Hoa kỳ, 1984
TỦ SÁCH CÀNH NAM và TẠP CHÍ XÁC ĐỊNH - Hoa kỳ, 1985.
MƯờI BÀI RONG CA PDC PRODUCTIONS, Midway City, USA 1988
MƯờI BÀI TÂM CA PDC PRODUCTIONS, Midway City, USA 1990
BẦY CHIM BỎ XỨ CÀNH VÀNG - Westminster, CA USA 1990
MộT ĐờI ĐỂ YÊU (30 tình khúc) NAM Á - Paris FRANCE 1989
VƯờN THƠ CÁNH NHẠC (30 bài thơ phổ nhạc) NAM Á - Paris FRANCE 1989
TÌNH SI (30 tình khúc) NAM Á - Paris FRANCE 1992
TÌNH CA QUÊ HƯƠNG(30 bài ca quê hương) NAM Á - Paris FRANCE 1992
LỊCH SỬ TRONG TIM (30 bài ca kháng chiến) NAM Á - Paris FRANCE 1992
HÁT TRÊN ĐƯờNG VỀ (Đạo Ca, Rong Ca, Thiền Ca) NAM Á - Paris, FRANCE 1992
NIỀM VUI CÒN ĐÓ (Bé Ca, Nữ Ca,Bình Ca) HỒNG LĨNH - Westninster, CA USA 1994
TẠ ƠN ĐờI HỒNG LĨNH - Westninster, CA, USA 1994 Có Thêm Ngoại Ngữ
Trường Ca Mẹ Việt Nam (Việt-Anh-Pháp) Phủ Đặc Ủy Chiêu Hồi - Saigon,1960 LÁ BỐI, 1967
Trường Ca Mẹ Việt Nam (Việt-Pháp) NAM Á, Paris, FRANCE 1985
DÂN CA - FOLK SONGS (Việt -Anh) USIS - Saigon, 1968.
HOAN CA (Việt - Anh) DU CA - Saigon, 1973.
HÁT TRÊN ĐƯờNG TỊ NẠN (Việt-Anh) ĐÔNG PHƯƠNG - Santa Ana, CA USA1979.
MƯờI BÀI NGỤC CA (Việt-Anh) NGUYỄN HỮU Hiệu - Arlington, VA USA1980.
HAI MƯƠI BÀI NGỤC CA (Việt-Anh) Hội VĂN HOÁ Bắc Mỹ - Arlington, VA USA 1980.
NGỤC CA (Việt-Anh-Pháp) QUÊ ME - Paris, 1982. PDC Productions - MIdway City CA USA 1989
DÂN CA FOLK SONG-CHANT POPULAIRE (Việt, Anh, Pháp) PDC Musical Productions - Midway City, 1980.
Trường Ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN (Anh-Việt) PDC Musical Productions, Midway City, 1980
Sách giáo khoa, sử liệu
Lược khảo về dân nhạc Việt Nam, Hiện Đại - Saigon, 1970. Xuân Thu tái bản, USA 1991
Music of Viet Nam S.I.U - Carbondale, ILL USA 1975.
Tự học Guitare (3 Tập) Phạm Duy Enterprises Midway City, CA USA 1976.
Hồi ký (3 tập) PDC Productions -Midway City, CA USA 89, 90, 91
Ngàn lời ca, PDC Productions -Midway City, CA USA 1987, 88
Đường về dân ca, Xuân Thu - Los Alamitos, CA, USA 1990
Nửa thế kỷ tân nhạc (bài báo) Nguyệt san Văn Học, Mỹ
Những năm đầu của tân nhạc (bài báo) Tập San HợP LƯU - CA 1994
Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đầu - PNC, Việt Nam, 2005
Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui
Một đêm, một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về…
XUÂN CA
Chương Một
Tôi ra đời tại nhà hộ sinh ở số 40 Rue Takou (phố Hàng Cót) Hà Nội vào lúc 1 giờ 15 sáng ngày 05 tháng 10 năm 1921, theo âm lịch là ngày mùng 5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu. Trước đó vài giờ, mẹ tôi còn đang ôm bụng ngồi đánh tổ tôm với mấy bà bạn và với Bác Hàn Làng Vẽ (1).
Mẹ tôi vừa ù xong ván bài tổ tôm thì dở dạ và người nhà vội vàng đưa vào nhà đẻ. Do đó, khi tôi lớn lên, mỗi lần gặp Bác Hàn là bác nhắc tới chuyện ván bài tổ tôm và gọi tôi là thằng Tôm. Ai ngờ bây giờ về già, tôi cũng trở thành một thứ Uncle Tom.
Tuy luôn luôn đắc ý cho rằng mình ra đời trong một canh bạc thắng của mẹ, nhưng khi lớn lên thằng Tôm này lại khoái với cái tên tự do chính mình đặt ra làMộng Vân. Vì sao? Vì trong một lúc quá yêu Tôm, mẹ buột miệng nói rằng đã nằm mơ thấy những đám mây trong thời kỳ có mang… Lại cũng là một cái tên tiền định. Thằng Tôm sẽ như mây, lang thang suốt đời. Và khi du nhập vào nghề hát rong thì đụng ngay một đoàn hát Cải Lương mang tên Gánh Mộng Vân.
Ngoài hai tên hiệu đó, cái tên thật — rất quan trọng vì là tên cúng cơm — cha mẹ đặt cho khi tôi vừa chào đời, tuy nó chẳng ngộ nghĩnh hay thơ mộng gì cho lắm, nhưng khi tôi trở thành ca sĩ của một gánh hát rong và chỉ dùng chữ họ và chữ đệm để cho khán giả dễ nhớ tên thì… cái tên cúng cơm đó biến mất. Ngay chị ruột tôi, về sau, cũng chỉ gọi tôi bằng tên đệm mà thôi. Giống như là có một sự quên tên hay kiêng tên vậy. Có điều chắc chắn là tôi đã ra thoát được tục lệ từ xưa của người Việt là thường đặt những cái tên rất xấu xí cho con cái để ma quỷ không thèm bắt đi như: (xin lỗi) thằng Buồi, thằng Đít vân vân…
Bố tôi là Phạm Duy Tốn, được người đời biết như là một nhà báo, một nhà văn đã từng tiếp súc với văn hóa Âu Tây và đã không còn là một nhà nho thuần túy nữa, nhưng khi bố tôi đặt tên cho con cái thì đều dựa vào chữ nho cả. Tên của ông cũng như tên của các con đều là tên của những đức tính và nếu viết bằng chữ nho thì chữ nào cũng nằm trong bộ ngôn, nghĩa là bộ chữ thuộc vào những hạng người thích ăn to nói lớn.
Anh cả của tôi mang tên Khiêm, tới hai người chị là Thuận và Trinh, rồi tới người anh hơn tôi 2 tuổi là Nhượng. Hai người anh trong thực tế sẽ sống bằng nghề ăn nói, họ đều là những ông thầy dạy học. Nhưng họ đều giống tôi ở chỗ tính nết sẽ không như cái tên bố đã đặt cho. Ông Khiêm nhiều khi có vẻ thiếu khiêm cung. Ông Nhượng không hẳn lúc nào cũng nhường nhịn em nhỏ. Còn tôi, với cái tên Cẩn, nếu suốt đời đã sống nhờ chữ ”ngôn” trong cái tên thì trái với điều mong muốn của bố tôi, chẳng bao giờ tôi thấy trong tôi có được một sự cẩn trọng tối thiểu ! Tuy vậy, về sau tôi cũng học mót bố tôi trong việc đặt tên cho tám đứa con. Chúng đều phải mang những cái tên tốt đẹp như: Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh. Tôi đã thừa hưởng tinh thần hướng thượng của bố tôi vậy.
Ông nội tôi là người đã từng giữ chức Thiên Hộ — chef de quartier — cai quản một khu phố trong nội thành Hà Nội. Ông bà tôi chỉ có hai người con, một trai là bố tôi và một gái (chúng tôi gọi là cô Án) lấy chồng làm Án Sát ở Bắc Ninh. Cô tôi có người con rể là hoạ sĩ Côn Sinh, chuyên vẽ hí hoạ cho báo LOA, người khuyến khích tôi vào học trường Mỹ Thuật sau này.
Tôi không biết mặt ông nội nhưng bà nội thì có ảnh chụp từ ngày xưa để lại. Trông bà thật là đẹp đẽ. Lúc còn bé, không nhớ đã có ai trong họ cho tôi biết rằng bà là một ca kỹ tài danh của một thuở xa xưa, lọt vào đôi mắt hào hoa của tay chơi Thiên Hộ Phạm Duy Đạt rồi được ông cưới về làm vợ. Các con, cháu và chắt của bà có trở thành những văn nhân, tài tử cũng nhờ ở huyết thống này. Trong bức ảnh cũ, thấy bà còn có vẻ phúc hậu nữa. Nhưng theo lời mẹ tôi kể thì bà không hiền lành lắm đâu, còn có thể nói là ác nghiệt nữa :
– Không phải ác với tao mà ác với bố mày…
Bố tôi là một trong những người Việt Nam đầu tiên cắt búi tó và mặc âu phục. Không biết lúc chuẩn bị cắt tóc bố tôi có sai vợ lập ban thờ để làm lễ xin tổ tiên tha cho cái tội tày trời như những người cùng cảnh ngộ hay không? Nhưng sau khi bố tôi cắt tóc, bà tôi buồn rầu và căm giận đến độ từ đó trở đi, mỗi một buổi sáng vừa mở mắt dậy là bà tôi ngồi chửi con. Bà cứ ngồi ở đầu giường, không thèm đi xúc miệng vì muốn làm tăng ác độ của câu chửi… Kèm theo câu chửi là câu rủa… Đệm vào câu rủa là một cái bát đàn — loại bát bằng đất nung, rẻ tiền nhất — được bà tôi đập xuống đất vỡ tan. Rủa cho bố tôi chết. Lời rủa có vẻ hiệu nghiệm. Bố tôi chết trước bà tôi hai năm.
Mẹ tôi là con dâu nên coi thái độ đó của mẹ chồng là nghiệt ngã nhưng tôi không nghĩ rằng bà tôi là người ác tâm. Bà là đại diện của một nền văn minh cũ, mang trong lòng tất cả những tín ngưỡng rất lâu đời và khó bỏ. Việc cắt tóc của bố tôi không chỉ là một hành động chống lại mẹ, nó còn là sự đả phá một kỷ luật đã có hằng mấy trăm năm, nếu không dám nói là cả nghìn năm. Có cái gap generation nào mà không làm đau lòng những người trong cả hai thế hệ?
Ông ngoại tôi lúc sinh thời — được gọi là cụ Tú Hàng Gai — có nhiều học trò lắm, mỗi lần tới ngày kỵ của ông thì có rất đông học trò cũ từ miền quê lên Hà Nội và tới phố Hàng Gai để cúng giỗ. Ông ngoại tôi có hai vợ, do đó họ ngoại của tôi đông hơn bên họ nội. Không biết mặt ông bà ngoại nhưng bà trẻ — nàng hầu của ông ngoại — thì tôi biết. Bà trẻ hiền lành lắm. Không đẹp đẽ và oai phong như bà nội ở trong bức ảnh cũ, bà trẻ là hình ảnh của sự chịu đựng nơi những người sinh ra để làm vợ thứ. Dù con cái của bà — cậu Khuê và dì bé lấy chồng làm Tham Tá tên là Nhữ — đều là những người có địa vị trong xã hội nhưng lúc nào bà cũng sống như một chiếc bóng nhạt mầu.
Mẹ tôi là con gái của một ông thầy đồ và trước khi lấy chồng, mẹ tôi là cô hàng bán sách ở phố hàng Gai. Tôi không biết tên họ của ông bà ngoại nhưng một hôm gặp bà dì ruột ở Saigon vào khoảng 1970 thì dì nói :
– Mày có biết bà họ gì không? Họ Lưu, dòng dõi Lưu Vĩnh Phúc đó!
Thế ra trong tôi có dòng máu nổi loạn à? Người Pháp gọi Lưu Vĩnh Phúc là giặc — Giặc Cờ Đen — nhưng đối với tôi, ông là người làm Cách Mạng.
Tôi có khá nhiều các bác, các dì, các cậu và có rất đông các anh em, chị em họ cùng với một rừng các cháu gọi tôi bằng chú và bằng cậu. Một trong những người anh họ của tôi là Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, con của Bác Hai Hàng Đường. Tôi thường được ngồi ngắm tác giả CỔ HỌC TINH HOA, TỤC NGỮ PHONG DAO… nằm hút thuốc phiện.
Trong đại gia đình tôi, không phải chỉ có anh Ngọc mới là bạn của Nàng Tiên Nâu. Tôi có bao nhiêu ông chú, ông cậu, có bao nhiêu ông anh hay em họ là có bấy nhiêu ông tiên. Thậm chí sau này, con của cậu tôi, tên là Bá, còn mở hẳn một tiệm hút ở phố Hàng Dầu, không có một nhà văn Hà Nội nào hằng đêm là không tới đó để gặp nhau. — đây, tôi hay gập Đồ Phồn, Lan Sơn, Đàm Quang Thiện…
Nói tới đại gia đình là nhớ tới nhưng ngày đại giỗ. Gia đình càng lớn thì hằng năm càng có nhiều ngày giỗ. Vào những ngày này, tôi mới được gặp gỡ tất cả mọi người và tôi có nhận xét là các bác, các cậu và các anh họ tôi ai cũng có giọng nói rất lớn. Nói chuyện trong nhà mà như người ta cãi nhau khi mổ bò. Ngược lại, các mợ, các dì, các cháu gái lại nói năng rất khẽ như bị đàn ông ăn hiếp vậy. Ít khi tôi được ăn cơm với người lớn. Tôi và lũ cháu trai — gần bằng tuổi nhau nên toàn xưng hô mày, tao — tranh nhau từng miếng gan gà hay mảnh trứng muối. Mấy thằng cháu này hơn tôi ở chỗ chúng nó uống rượu như uống nước lã. Trong ngày giỗ, chỉ có con trai được cho vào ăn chung một mâm và ăn trước. Con gái đều phải chui xuống bếp để giúp việc rồi ăn sau. Tinh thần trọng nam giới của gia đình tôi vào đoạn đầu của thế kỷ 20 này dường như vẫn còn đeo đẳng tôi cho tới tận bây giờ.
_________________
(1) Bác Hàn là họ bên nội.
Khởi sự đời nhạc trong gánh hát Đức Huy với vai trò ca sĩ hát lưu động. Từng tham gia Kháng chiến chống Pháp một thời gian trước khi vào miền Nam để tiếp tục tự do hoạt động âm nhạc. Phạm Duy là một tên tuổi lớn và đầy ảnh hưởng tại miền Nam Việt Nam với những hoạt động tích cực giành cho cả âm nhạc lẫn chính trị, cho đến sau sự kiện 30 tháng 4 năm 1975, khi ông vượt biên sang Hoa Kỳ.
Năm 2005, ông về Việt Nam định cư và một số ca khúc của ông mới bắt đầu được cho phép phổ biến. Tính cho đến nay, có hơn 50 ca khúc trong sốhàng nghìn sáng tác của Phạm Duy được cấp phép.
Tiểu sử
Nhạc sĩ Phạm Duy, tên thật là Phạm Duy Cẩn, xuất thân từ một gia đình văn nghiệp. Cha là Phạm Duy Tốn thường được xem như nhà văn xã hội đầu tiên của nền Văn học Mới hồi đầu thế kỷ 20. Anh là Phạm Duy Khiêm, giáo sư thạc sĩ, cựu Đại sứ Việt Nam Cộng hòa tại Pháp, văn sĩ Pháp văn, tác giả những cuốn Légendes des terres sereines, Nam et Sylvie, De Hanoi à Lacourtine...
Sinh ngày 5 tháng 10 năm 1921 (5 tháng 9 năm Tân Dậu) tại phố Hàng Cót, Hà Nội. Phạm Duy học vỡ lòng tại trường Hàng Thùng, học tiểu học tại trường Hàng Vôi, học không được giỏi và thường bị phạt. Đến khi 13 tuổi (1934) vào được lớp nhất, ông học giỏi lên dần, thành một trong những học sinh ưu tú của lớp, nhất là môn đọc thơ tiếng Pháp.
Năm 1936, vào học ở trường Thăng Long, một trọng điểm trong thời kỳ kháng chiến. Thầy dạy ông có Võ Nguyên Giáp, còn trong đám bạn cùng lớp có nhà thơ Quang Dũng.
Năm 1940, nghe lời bè bạn, ông thi vào trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông dương, học thầy Tô Ngọc Vân, chung lớp với Bùi Xuân Phái, Võ Lăng... nhưng ông không có năng khiếu nhiều và không ham vẽ cho lắm. Thời kỳ này ông ca hát nhiều hơn là vẽ tranh.
Năm 1942 ông có sáng tác đầu tay "Cô hái mơ".
Năm 1944, ông thành ca sĩ hát tân nhạc trong gánh hát cải lương Đức Huy – Charlot Miều. Gánh hát này đưa ông đi rất nhiều miền trên đất nước, từ Bắc chí Nam, khiến ông mở mang tầm mắt, ngoài ra tự nhiên cũng trở thành một trong những nhân tố quan trọng trong việc phổ biến tân nhạc đến các vùng. Thời kỳ hát rong, Phạm Duy được gặp gỡ nhiều tên tuổi lớn như thi sĩ Lưu Trọng Lư, nhạc sĩ Lê Thương, Lê Xuân Ái, Văn Đông... và nhất là nhạc sĩ Văn Cao, người sau này trở thành bạn thân thiết.
Sau đó ông khởi sự con đường âm nhạc của mình với việc trở thành ca sĩ trong gánh hát Đức Huy, đi diễn lưu động từ Bắc qua Trung vào Nam trong những năm 1943-1945. Ông là người đầu tiên hát nhạc cải cách trên đài Radio Indochine ở Sài Gòn vào năm 1944, mỗi tuần trình bày 2 lần.
Năm 1945, xảy ra nạn đói, Phạm Duy rời nhà cũ đi lang thang nhiều nơi, sau đó ông theo kháng chiến. Trong thời Chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, Phạm Duy trở thành cán bộ văn nghệ của Việt Minh và là một trong những nhạc sĩ thành công nhất lúc đó. Thời kỳ này, bên cạnh tài năng được khen ngợi, thì xu hướng lãng mạn của Phạm Duy bị cho là tiêu cực, nhiều bài hát của ông bắt đầu bị xét duyệt, cấm đoán. Sau do không chịu sự quản thúc ngặt nghèo, ông đã rời bỏ Việt Minh về thành[cần dẫn nguồn]. Từ đó tác phẩm của ông bị cấm phổ biến trong vùng kiểm soát của Việt Minh, cũng như ở miền Bắc sau 1954 và trên cả nước sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Năm 1949 ông lập gia đình với ca sĩ Thái Hằng.
Năm 1951, ông đem gia đình về Sài Gòn.
Năm 1953, ông qua Pháp học về âm nhạc, tại đây quen với giáo sư Trần Văn Khê. Về lại miền Nam, ông tiếp tục sáng tác và biểu diễn trong ban hợp ca Thăng Long. Nhạc Phạm Duy phổ biến rất rộng rãi ở miền Nam (mà nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng gọi là "bàng bạc khắp mọi nơi"[2] thời bấy giờ). Thời gian này ông có những hoạt động trong ngành điện ảnh, và đã gây nên một vụ tai tiếng lớn khắp từ Nam chí Bắc khi ngoại tình với ca sĩ Khánh Ngọc, là vợ của nhạc sĩ Phạm Đình Chương - người gọi ông bằng anh rể..
Sau sự kiện này, ông lại dính vào một vụ tình cảm nữa với Alice, con gái của một người tình cũ hồi năm 1944 tên Hélène. Tuy nhiên, ông khẳng định cả hai chuyện này đều là những tình cảm trong sáng: "Vì vấn đề chênh lệch tuổi tác cũng như vì tôi không muốn làm phiền những người chung quanh một lần nữa, tôi quyết định ngay từ lúc đầu rằng đây chỉ là một mối tình giữa hai tâm hồn mà thôi. Tôi cố gắng tránh mọi đụng chạm về xác thịt và tôi hãnh diện để nói rằng nàng vẫn là một trinh nữ khi rời xa tôi để bước chân lên xe hoa về nhà chồng. Là một nghệ sĩ, tôi cần tình yêu để sáng tác, giống như con người cần khí trời để thở. Tôi không cần phải chiếm đoạt ai cả, nhất là chiếm đoạt một người con gái còn ít tuổi. Giữa chúng tôi, không có ràng buộc, trói chặt nhau"[cần dẫn nguồn]. Ông đã viết nhạc và lời cho khá nhiều bài nhân chuyện này: "Nụ Tầm Xuân", "Thương Tình Ca", "Chỉ Chừng Đó Thôi", "Tìm Nhau", "Cho Nhau".
Từ sau 30 tháng 4 năm 1975, ông và gia đình cư ngụ tại Thành phố Midway, Quận Cam, California.
Năm 1990, ông bắt đầu viết hồi ký, khi hoàn tất chia làm 4 cuốn.
Năm 1999, vợ ông là bà Thái Hằng qua đời, sự kiện này khiến ông bị cao huyết áp phải đi nằm bệnh viện một thời gian dài. Sau năm này, lần đầu về thăm quê hương sau 25 năm lưu lạc, ông gặp gỡ nhiều bạn cũ ở Việt Nam.
Tháng 5 năm 2005, ông trở về Việt Nam, mua nhà sống tại Quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh cùng các con trai Duy Quang (ca sĩ), Duy Cường. Tháng 7 cùng năm, có 9 nhạc phẩm của ông được phép lưu hành ở Việt Nam; tháng 11, được phép lưu hành thêm 10 tác phẩm nữa. Tính đến nay (tháng 8 năm 2007) đã có hơn 40 tác phẩm của Phạm Duy được phổ biến tại Việt Nam, tính cả các đoản ca trong "Trường ca con đường cái quan".
Ông qua đời tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 27 tháng 1 năm 2013, một tháng sau cái chết của con ông là ca sĩ Duy Quang.
Phạm Duy và Văn Cao
Phạm Duy là người đầu tiên đem ca khúc Buồn tàn thu của Văn Cao đi khắp mọi miền đất nước. Ông từng có đóng góp vào những tác phẩm của Văn Cao, như cùng đặt lời, viết nhạc cho Bến xuân, Suối mơ. Hai người thường được biết đến như là một đôi bạn thân thiết, có một tình bạn kéo dài nửa thế kỷ, dù đi theo hai con đường đối lập nhau. Họ quen nhau tại Hải Phòng năm1944. Trong hồi ký của mình, Phạm Duy tả về Văn Cao:
"Thấp bé hơn tôi, khép kín hơn tôi, nhưng Văn Cao tài hoa hơn tôi nhiều. Chắc chắn là đứng đắn hơn tôi. Lúc mới gặp nhau, anh ta chưa dám mày-tao với tôi, nhưng tôi thì có cái tật thích nói văng mạng (và văng tục) từ lâu, kết cục, cu cậu cũng theo tôi mà xổ chữ nho. Nhưng Văn Cao bản tính lầm lỳ, ít nói, khi nói thì bàn tay gầy gò luôn luôn múa trước mặt người nghe. Anh ta thích hút thuốc lào từ khi còn trẻ, có lần say thuốc ngă vào tay tôi. Về sau, anh còn nghiện rượu rất nặng."[4].
Hai người trở thành đôi bạn thân, thường giúp nhau sáng tác nhạc và ra vào những chốn ăn chơi, sau đó còn rủ nhau theo kháng chiến.
Đến năm 1949, Phạm Duy dinh tê về Nam còn Văn Cao ở lại với cách mạng. Bị cấm liên lạc từ đó đến 1987, khi Phạm Duy ở Hoa Kỳ, Văn Cao ở Việt Nam, họ mới liên lạc với nhau được bằng thư tay, qua một số người Việt kiều. Hai người vẫn xưng hô mày, tao như hồi xưa. Sau này vợ chồng Phạm Duy và vợ chồng Văn Cao còn được nghe giọng nói, xem cử chỉ của nhau bằng tin nhắn qua băng video do cô Nam Trân, một phóng viên truyền hình ở hải ngoại giúp đỡ [5].
Năm 1995 Văn Cao mất, nhưng phải đến 2001 Phạm Duy mới viếng mộ được. Trong lần đầu trở lại quê hương, ông đă cầm một chai rượu rưới lên khắp mộ người bạn chí cốt [5]. .
[sửa]Gia đình
Gia đình Phạm Duy có nhiều người nổi tiếng trong lãnh vực nghệ thuật:
Cha của Phạm Duy là nhà văn Phạm Duy Tốn
Anh cả của Phạm Duy là Phạm Duy Khiêm, một học giả và là một nhà văn viết tiếng Pháp
Người anh thứ hai của Phạm Duy là Phạm Duy Nhượng, một nhà giáo, cũng là một nghệ sĩ tài tử, tác giả bài Tà áo Văn Quân
Vợ của Phạm Duy là ca sĩ Thái Hằng
Một người anh họ của ông là học giả Nguyễn Văn Ngọc[cần dẫn nguồn]
Sau này ông có cha nuôi là học giả Trần Trọng Kim[cần dẫn nguồn]
Các con của Phạm Duy cũng là những ca sĩ, nhạc sĩ:
Ca sĩ Thái Hiền
Ca sĩ Duy Quang
Ca sĩ Thái Thảo
Nhạc sĩ hòa âm Duy Cường
Ngoài ra có thể kể đến:
Ca sĩ Thái Thanh, em gái của bà Thái Hằng
Ca sĩ Ý Lan, con gái của Thái Thanh, tức cháu gái của Thái Hằng
Nhạc sĩ Phạm Đình Chương, em trai của Thái Hằng, là ca sĩ Hoài Bắc của ban hợp ca Thăng Long.
Nghệ sĩ Phạm Đình Sỹ, anh trai của Thái Hằng
Phạm Đình Viêm, anh trai của Thái Hằng, là ca sĩ Hoài Trung của ban hợp ca Thăng Long.
Ca sĩ Tuấn Ngọc, chồng của Thái Thảo
Ca sĩ Mai Hương, con gái của Phạm Đình Sỹ, tức cháu gái của Thái Hằng
Sự nghiệp
Thời kỳ tiền chiến
Năm 1942, khi còn đang hát cho gánh hát Đức Huy, Phạm Duy cho ra đời tác phẩm đầu tay Cô hái mơ, phổ nhạc cho bài thơ Cô hái mơ của Nguyễn Bính. Năm 1944 đến bài hùng ca Gươm tráng sĩ, là bài hát đầu tiên ông viết cả lời lẫn nhạc.
Thời kháng chiến Nam bộ (1945–1946) ông chơi thân với Văn Cao, ngoài việc cùng ra vào chốn ăn chơi, ông và Văn Cao còn giúp nhau trong phương diện sáng tác (chẳng hạn một số ca khúc của văn cao do ông đặt lời, như bài Bến Xuân). Những nhạc phẩm đầu tay của ông có nhiều hùng ca: Gươm tráng sĩ, Chinh phụ ca, Thu chiến trường, Chiến sĩ vô danh, Nợ xương máu... Bên cạnh đó còn có nhạc tình lãng mạn, trong đó có nhiều bài giúp ông trở nên nổi tiếng: Cây đàn bỏ quên, Khối tình Trương Chi, Tình kỹ nữ, Tiếng bước trên đường khuya...
Năm 1947, Phạm Duy bắt đầu sáng tác nhạc âm hưởng dân ca với mong muốn xâm nhập sâu vào chốn thôn quê hơn, từ đó cho ra đời nhiều bài mà ông gọi là "Dân ca mới", rất được đông đảo quần chúng yêu thích: Nhớ người thương binh (1947), Dặn dò, Ru con, Mùa đông chiến sĩ, Nhớ người ra đi, Người lính bên tê, Tiếng hát sông Lô, Nương chiều... Những bài này được ông sáng tác dựa trên 2 tiêu chí:
Nét nhạc vẫn dùng âm giai ngũ cung cố hữu nhưng áp dụng nhạc thuật chuyển hệ làm cho giai điệu không nằm chết trong một ngũ cung nào đó như trong dân ca cổ mà chạy dài trên nhiều hệ thống ngũ cung khác nhau;
Lời ca tuy nằm trong thể thơ lục bát, nhưng có nhiều khi được biến thể, do đó tiết điệu cũng theo âm tiết của lời ca mà trở nên phong phú hơn
Nhạc sĩ Phạm Duy đang biểu diễn tại một quán nước
Từ năm 1948, bên cạnh những bài có sắc thái tươi vui như: Gánh lúa, Đường ra biên ải... Ông có sáng tác thêm một thể loại mới: nói về sự đau khổ của những người sống trong chiến tranh. Những bài như: Bao giờ anh lấy được đồn tây (sau đổi thành Quê nghèo), Bà mẹ Gio Linh, Về miền Trung, Mười hai lời ru... đều có hình ảnh làng quê và người dân quê nghèo khổ.
Những bài hát này tuy được quần chúng yêu thích và phổ biến rất rộng rãi, nhưng do nói về sự bi, sự khổ mà Phạm Duy bắt đầu bị sự chỉ trích của cấp trên thời kháng chiến, ông bèn về miền Nam để tự do sáng tác. Năm 1952, bài Tình hoài hương ra đời, khởi xướng cho xu hướng sáng tác "Tình ca quê hương", sau đó là Tình ca; hai bài này được yêu thích từ Nam ra Bắc và nằm trong những tác phẩm tiêu biểu nhất nói về quê hương, với những câu như: "Quê hương tôi có con đê dài ngây ngất, lúc tan chợ chiều xa tắp, bóng nâu trên đường bước dồn, lửa bếp nồng, vòm tre non làn khói ấm hương thôn" (trong Tình hoài hương), "Tôi yêu tiếng nước tôi từ khi mới ra đời, người ơi, mẹ hiền ru những câu xa vời, à à ơi! tiếng ru muôn đời" (trong Tình ca).
Tiếp đó ông trở về thể loại dân ca mới với những bài Đố ai, Nụ tầm xuân, Ngày trở về, Người về, Tình nghèo... Bên cạnh đó là Thuyền viễn xứ, Viễn dunói về sự chia lìa quê hương. Bài Hẹn hò nói về sự ngăn chia đôi lứa, ông dùng nhạc ngũ cung giọng Huế. Ngoài ra còn có: Xuân ca, Dạ lai hương, Xuân thì... Năm 1954, ông chuyển từ nhạc tình ca quê hương sang tự tình dân tộc, soạn ra Bà mẹ quê, Em bé quê, Vợ chồng quê, trong đó có Em bé quê với những câu đầu lấy trong sách giáo khoa Quốc Văn, được trẻ con thuộc như bài đồng dao.
[sửa]Thời chia cắt đất nước
Sau khi sang Pháp du học âm nhạc, ông sáng tác thêm được nhiều bài giá trị, ban đầu vẫn là "Dân ca mới", lại có thêm nhiều tác phẩm ca ngợi tình yêu đôi lứa mà phổ biến nhất phải kể đến "Đừng xa nhau", "Ngày đó chúng mình", "Tìm nhau"...
Lúc này ông sáng tác tự do theo nhiều chủ đề, những bài hát như nói về tâm tưởng '"Chiều về trên sông", "Một bàn tay", "Tạ ơn đời", "Đường chiều lá rụng", "Nước mắt rơi"... được Thái Thanh, Kim Tước, Quỳnh Giao thể hiện thành công; nhất là ca sĩ Thái Thanh, em của Thái Hằng, tên tuổi của bà đã gắn liền với những tác phẩm "Dân ca mới" và nhạc tình của Phạm Duy.
Năm 1973, lúc Phong trào Nhạc trẻ lên cao, ông cùng với ca sĩ Thanh Lan và nhạc sĩ Ngọc Chánh đi dự Đại hội âm nhạc Quốc tế tại Tokyo, Nhật. Bản Tuổi biết buồn của ông được lọt vào vòng chung kết.
[sửa]Thời kỳ ở hải ngoại
Tại Hoa kỳ, thời gian đầu ông sáng tác một số ca khúc nói lên nỗi buồn tha hương, cũng như đả phá chế độ tại Việt Nam, những bản nhạc đó được phổ biến trong băng nhạc Phượng Nga. Nhưng sau này ông sáng tác những bài tình ca trở lại. Đáng kể nhất trong thời gian ở hải ngoại là bộ Minh họa Kiều (phổ nhạc truyện Kiều), Trường ca Hàn Mặc Tử, Hương Ca (lúc đầu chỉ có 7 bài), ...
[sửa]Trở về Việt Nam
Sau nhiều lần về thăm quê hương,[6]. Phạm Duy chính thức trở về định cư tại Việt Nam ngày 17 tháng 5 năm 2005, với sự cho phép của chính phủ Việt Nam[7]. Sự kiện này được truyền thông trong nước lẫn hải ngoại quan tâm đặc biệt[7][8][9]. Báo chí Việt Nam nhận xét đó là "nhịp cầu nối quê hương với người Việt xa xứ"[7], "niềm vui thống nhất lòng người"[8], còn Phạm Duy nói cuộc trở về này là "lá rụng về cội"[10][11]. Bên cạnh đó, sự kiện này còn gặp phải sự phản đối của người Việt hải ngoại, vì họ cho rằng ông đã về phe cộng sản.
Công ty Phương Nam cũng nhân dịp này, đã đứng ra mua bản quyền toàn bộ nhạc phẩm của Phạm Duy trong vòng 10 năm với giá hơn 400 nghìn đôla .
Năm 2006, Phạm Duy tổ chức đêm nhạc mang tên "Ngày trở về" tại nhà hát Thành phố Hồ Chí Minh, đêm nhạc tổ chức quy mô hoành tráng, được công chúng đón nhận nhiệt liệt. Một số nhân vật đã phản đối sự đón nhận này, trong đó có nhà báo Nguyễn Lưu với bài "Không thể tung hô" đăng trên báo Đầu tư. Tuy nhiên bài viết của Nguyễn Lưu vấp phải sự phản đối của nhiều độc giả, bị cho là mắc nhiều "sai lầm ngây ngô", và những "lỗ hổng kiến thức chết người". Công ty Phương Nam cũng phản hồi bài viết này bằng một bài báo, trong đó nội dung phần lớn để cải chính những kiến thức sai lầm trong bài của Nguyễn Lưu.. Sau đó báo Đầu tư đã thông báo chấm dứt tranh luận về vấn đề này.
Nhiều đêm nhạc Phạm Duy khác với quy mô lớn tiếp tục diễn ra: Con đường tình ta đi, Ngày trở về tại nhiều tỉnh miền Trung, những đêm giới thiệu Minh họa Kiều tại miền Bắc.. Tháng 3 năm 2009, đêm "Ngày trở về" đã tổ chức thành công ở nhà hát lớn, Hà Nội, nơi ông sinh ra, "Xong buổi diễn, tôi mới thực sự là người về hưu" - ông phát biểu [18]. Ngày 18 tháng 8 năm 2011 ban liên lạc họ Phạm tại Tp Hồ Chí Minh và công ty TNHH họ Phạm Phương Nam tổ chức đêm nhạc Họ Phạm với chủ đề: "Mọi trái tim - một tấm lòng" cũng mời ông và nhạc sỹ Phạm Tuyên tới dự.
[sửa]Phạm Duy tại những vùng cấm
Nhạc Phạm Duy từng rất phổ biến khắp cả miền Nam, miền Bắc nước Việt Nam trong những năm 1945-1954 và được nhiều người hát. Nhưng từ khi ông tỏ ra bất phục với chính quyền cách mạng, đã có nhiều nhìn nhận khắt khe về ông dẫn đến việc cấm hát, cấm nói về Phạm Duy - nhạc Phạm Duy từ sau năm 1954 tại miền Bắc, và việc ông vượt biên sang Mỹ đã khiến nhà nước Việt Nam đưa ông vào danh sách 2 người bị cấm toàn bộ về nhân thân trên toàn nước Việt Nam từ sau 1975.
Tại Bắc Việt Nam trước 1975
Theo hồi ký của Phạm Duy thì lệnh cấm nhạc của ông bắt đầu từ bài Bên cầu biên giới, ra đời năm 1952; bài này bị chỉ trích là có thứ tình cảm bỉ mị buồn bã, làm nản lòng người ta. Sau khi được Nguyễn Xuân Khoát thông báo lệnh cấm, Phạm Duy rời bỏ cách mạng về miền Nam.
Ban đầu tại các diễn đàn văn nghệ còn có những cuộc bàn cãi về việc cho hay không cho hát nhạc Phạm Duy, nhưng về sau thì cấm tiệt. Từ đó, nhạc Phạm Duy bị liệt vào hạng phản động, tên tuổi của ông được đem ra phê phán. Ông cũng bị nghi ngờ có liên hệ với CIA.
Nhạc sĩ Đỗ Nhuận là người hưởng ứng nhiệt tình việc này, ông đặc biệt tỏ ra coi thường âm nhạc của Phạm Duy. Trong các bài viết năm 1958 và 1969, Đỗ Nhuận gọi việc sinh viên miền Bắc phổ biến bài Tìm nhau của Phạm Duy là "rải tuyên truyền", Đỗ Nhuận gọi bài đó là "dâm ô".
Tại Việt Nam từ 1975 đến 2005
Sau ngày thống nhất đất nước, Trần Văn Khê từ Pháp có về hỏi Tố Hữu về vụ Phạm Duy, Tố Hữu nói: "Bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi"[20], nghĩa là vẫn nên phổ biến sau khi bỏ hết những bài sáng tác thời chiến tranh Việt Nam. Nhưng rồi nhạc Phạm Duy vẫn bị cấm trên cả nước, ngoài ra bàn luận về Phạm Duy cũng bị cấm. Ông cùng với Hoàng Thi Thơ là hai nhạc sĩ đặc biệt nhất bị cấm về nhân thân.
Tuy vậy, khoảng 30 năm, vẫn thấy vài người viết về Phạm Duy. Trong cuốn Những bài viết tiến bộ công khai trên báo chí Sài Gòn từ 1954 – 1975 có cho đăng lại một phần trích đoạn của cuốnPhạm Duy đă chết như thế nào. Hay như thi sĩ Chế Lan Viên cũng nhắc tới Phạm Duy trong một bài báo tên "Hồi Ký" đăng tại tạp chí Sông Hương ngày 22 tháng 6 năm 1986:
"Tất cả về cội, không mất mát gì ư? Có chứ, Mất Phạm Duy! Chúng ta tiếc lắm, vì anh có tài lớn. Nhưng chúng ta làm sao được! Anh ấy bỏ chúng ta, chứ chúng ta đâu có bỏ anh."
Bài viết của Chế Lan Viên kết thúc bằng đoạn:
"Vâng chỉ có trường hợp anh Phạm Duy là…là không cần cội vậy thôi. Chứ hình như hầu hết, lá rụng đều về cội cả và mọc lên thành cội nữa."
Nhà báo Nguyễn Phúc Long trong bài "Công và tội" đăng trên báo Đoàn kết, số 393 ra tháng 7 năm 1987, có nhắc đến Phạm Duy, sau một loạt tên tuổi mà ông cho là "phản bội", nhưng vẫn có công cho văn hoá nước nhà như Trần Ích Tắc, Lê Trắc, Phạm Thái, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Khiêm, Võ Phiến và nhóm Tự Lực Văn Đoàn:
"Trong lĩnh vực ca nhạc, Phạm Duy, “con người của phản bội”, bị nhân dân ta khinh bỉ cũng đă có cái may mắn là để lại cho chúng ta một số bài hát giàu tính dân ca và trữ tình nhất là những bài được ông ta sáng tác trong thời kỳ đi theo kháng chiến – 1946 - 1949."
Đến năm 1994, báo chí Việt Nam mới có một bài thiện ý với Phạm Duy. Đó là bài thơ "Về thôi" mà nhà văn Lưu Trọng Văn, con trai nhà thơ Lưu Trọng Lư, gửi lên tờ Tuổi trẻ chủ nhật, có đề chữ "Tặng P.D." bên cạnh. Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý đă phổ nhạc bài này. Rồi sau đó chính Phạm Duy cũng phổ nhạc với tên "Trăm năm bến cũ". Theo Phạm Duy, đây là bài thơ làm ông nghĩ nhiều tới việc về thăm Việt Nam, mà năm 2001 ông đă thực hiện.
Phân loại tác phẩm
Bài chi tiết: Nhạc Phạm Duy
Các sáng tác của Phạm Duy có thể chia ra làm nhiều loại:
Nhạc cách mạng: Sáng tác trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nói lên sự căm giận của người dân quê đối với giặc cướp nước, phá làng. Tiêu biểu có thể kể: Bà mẹ Gio Linh, Mười hai lời ru, Chiến sĩ vô danh.
Nhạc quê hương: Một phần quan trọng trong sự nghiệp của ông, gồm những bài ca ngợi quê hương đất nước, hình ảnh con trâu, đồng lúa, cái cày... Nhiều bài rất quen thuộc với người Việt: Tình ca, Về miền Trung, Tình hoài hương, Bà mẹ quê, Em bé quê...
Nhạc tình đôi lứa: Tình yêu là một đề tài lớn trong cuộc đời cũng như trong sự nghiệp sáng tác của Phạm Duy. Nhạc tình có khối lượng nhiều nhất trong kho nhạc đồ sộ của ông, có thể kể những bài được giới trẻ trong nam ngoài bắc hát như Hẹn hò, Cỏ hồng, Ngày đó chúng mình, Cây đàn bỏ quên, Phượng yêu, Kiếp nào có yêu nhau, Đừng xa nhau, Mưa rơi, Đường em đi, Tôi còn yêu tôi cứ yêu, Trả lại em yêu, Giết người trong mộng...
Nhạc tâm tư: Ngoài viết về tình yêu trai gái, tình yêu quê hương, thì những sự suy tưởng cao siêu hay nhớ nhung buồn nản vẩn vơ cũng được Phạm Duy ghi lại thành nhạc, có thể kể đếnĐường chiều lá rụng, Bên cầu biên giới, Chiều về trên sông, Dạ lai hương, Viễn du... Hay những bài nói lên tâm trạng phẫn uất trước nội chiến, cảm khái trước thế thời như: Huyền sử ca một người mang tên Quốc.
Trường ca: Những tác phẩm lớn khiến ông có một địa vị chắc chắn trong nền tân nhạc Việt Nam: Con đường cái quan, Mẹ Việt Nam, Hàn Mạc Tử, sau này là Minh họa Kiều, bản trường ca dài nhất và hoàn thành lâu nhất của ông.
Rong ca: Gồm 10 bài sáng tác năm 1988: Người tình già trên đầu non, Hẹn em năm 2000, Mẹ năm 2000, Mộ phần thế kỷ, Ngụ ngôn mùa Xuân, Nắng chiều rực rỡ, Bài hát nghìn thu, Trăng già, Ngựa hồng, Rong khúc.
Đạo ca: Gồm 10 bài, phổ thơ của Phạm Thiên Thư vào thập niên 1970: Pháp thân, Đại nguyện, Chàng dũng sĩ và con ngựa vàng, Quán thế âm, Một cành mai, Lời ru bú mớm nâng niu, Qua suối mây hồng, Giọt chuông cam lộ, Chắp tay hoa, Tâm xuân.
Thiền ca: Gồm 10 bài, sáng tác vào thập niên 1980: Thinh không, Võng, Thế thôi, Không tên, Xuân, Chiều, Người tình, Răn, Thiên đàng địa ngục, Nhân quả.
Tâm ca: Gồm 10 bài, thở than về những xáo trộn trong cuộc sống người dân miền Nam thời Đệ nhất Cộng hòa Việt Nam sụp đổ: Tôi ước mơ (thơ Thích Nhất Hạnh), Để lại cho em (thơNguyễn Đắc Xuân), Tiếng hát to, Ngồi gần nhau, Giọt mưa trên lá, Một cành củi khô, Kẻ thù ta (ý thơ Nhất Hạnh), Ru người hấp hối, Tôi bảo tôi mãi mà tôi không nghe, Hát với tôi. Ngoài ra còn nhiều bài khác cũng theo hướng Tâm ca như Những gì sẽ đem theo về cõi chết, Tôi còn yêu tôi cứ yêu.
Tâm phẫn ca: Sáng tác sau Tết Mậu Thân: Tôi không phải gỗ đá, Nhân danh (thơ Tâm Hằng), Bi hài kịch (thơ Thái Luân), Đi vào quê hương (thơ Hoa Đất Nắng), Người lính trẻ, Bà mẹ phù sa... Ngoài ra còn một số bài sáng tác cho phong trào du ca.
Tục ca, vỉa hè ca: Gồm những bài ca lời dung tục, chỉ có tác giả hát, không ca sĩ nào hát.
Bên cạnh những thể loại kể trên, còn có Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ, Tị nạn ca nói về tâm trạng và sự khó nhọc của người ly hương; Hoàng Cầm ca phổ những bài thơ của thi sĩ Hoàng Cầm; Hương ca sáng tác khi ông về ở Việt Nam...
[sửa]Trường ca
"Con đường cái quan"
Bài chi tiết: Con đường cái quan
Những dòng nhạc đầu tiên của trường ca này được ông sáng tác năm 1954 tại Paris, ngay khi Hiệp định Genève vừa ký kết để phản đối sự chia cắt đất nước. Phần còn lại được soạn sau đó 6 năm, hoàn tất năm 1960. Cho đến nay đây vẫn là trường ca thành công nhất của Phạm Duy.
Nội dung trường ca nói về một sự du hành từ miền Bắc Việt Nam, qua miền Trung Việt Nam, đến miền Nam Việt Nam của một người du khách, với chí hướng nối ba miền làm một. Chuyến đi ấy bắt đầu từ Ải Nam Quan cho đến mũi Cà Mau, từ ngày lập quốc cho đến ngày hoàn thành, đi trong lịch sử nhưng cũng là trong lòng người dân để nối liền đất nước, nối liền lòng dân, mà đi tới đâu người lữ khách cũng được dân chúng miền đó đón chào.
Trường ca này gồm có ba phần: từ miền Bắc, qua miền Trung, vào miền Nam. Mỗi phần được sáng tác theo phong cách dân ca nơi đó và mỗi phần mang một ý nghĩa riêng. Phần từ miền Bắc bắt đầu bằng âm điệu hào hùng, như tâm trạng người vừa lên đường vì chí lớn, và trở nên dịu êm dần. Nhạc chuyển thành đau xót ở phần qua miền Trung, do chứng kiến cảnh lầm than của dân. Nhạc tươi sáng dần lên khi sang đoạn vào miền Nam vì lòng sung sướng của người lữ khách đã làm được một việc lớn.
Theo nhiều người (Trần Văn Khê, Georges Étienne Gauthier...), trường ca "Con đường cái quan" đã chứng tỏ có thể đem yếu tố nhạc Việt Nam truyền thống kết hợp với nhạc giao hưởng phong cách Tây phương mà vẫn không làm mất tính chất Việt. Trường ca được phát sóng rất nhiều lần trên Đài Phát thanh Sài Gòn với giọng Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân để trở những giai điệu quen thuộc nhất của Việt Nam. Nhiều sinh viên ở nhiều nơi đã dựng tác phẩm này thành một hoạt cảnh. Sau này, khi nhạc Phạm Duy đã bị cấm tại Việt Nam, đài truyền hình Bình Dương vẫn thường mở một vài đoạn hoà tấu ngắn trong trường ca lúc chuyển tiếp chương trình.
"Mẹ Việt Nam"
Bài chi tiết: Mẹ Việt Nam (trường ca)
Tác phẩm này rực rỡ không kém trường ca Con đường cái quan. Mẹ Việt Nam soạn năm 1964 và hoàn thành trong năm đó, ca tụng hình ảnh người mẹ tổ quốc hay những bà mẹ điển hình tronglịch sử.
Trường ca gồm 4 phần: Đất mẹ, Núi mẹ, Sông mẹ và Biển mẹ, tượng trưng cho các giai đoạn của bà mẹ: từ tươi trẻ mầu mỡ đến kiên cường sắt đá rồi thì rộng lượng bao dung. Khi sáng tạo hình ảnh người mẹ trong trường ca này, tác giả có ý đi tìm "mẫu số chung" của dân tộc. Tác phẩm này có phong cách dân ca với giọng khoan hò và điệu ru con mà giai điệu và lời, theo Georges Étienne Gauthier trong cuốn Một người Gia Nã Đại với nhạc Phạm Duy, đã đạt tới trình độ "toàn thiện".
Về sự phổ biến, trường ca "Mẹ Việt Nam" có lẽ không được rộng rãi như "Con đường cái quan", nhưng vẫn rất được nhiều người yêu thích qua những giọng của Thái Thanh, Kim Tước, Thái Hằng – Duy Khánh, Nhật Trường, Trần Ngọc và ban nhạc Hoa Xuân.
"Hàn Mạc Tử"
Bài chi tiết: Hàn Mặc Tử (trường ca)
Trường ca này được sáng tác bên Mỹ vào năm 1994, dựa vào 9 bài thơ của Hàn Mạc Tử. Trường ca gồm ba phần: Tình quê, Trăng sao và Ave Maria, mà tác giả đã cố ý diễn tả tâm trạng của Hàn Mạc Tử qua giai điệu của mình. Do sáng tác bên Mỹ và chỉ hát bên Mỹ, cộng với giai điệu mang nhiều phong cách Tây phương nên trường ca này không phổ biến tại Việt Nam bằng hai trường ca trên, tuy vậy vẫn được xem là thành công với giọng hát Tuấn Ngọc, Thái Hiền, Duy Quang, Thái Thảo.
"Bầy chim bỏ xứ"
Bài chi tiết: Bầy chim bỏ xứ
Theo Phạm Duy, "Con đường cái quan" mang tính chất tả thực, "Mẹ Việt Nam" mang tính chất tượng trưng, "Hàn Mạc Tử" mang tính chất siêu hình, thì "Bầy chim bỏ xứ" mang tính chất ẩn dụ.
Trường ca này có thể cho là một thành công của Phạm Duy, dù chỉ ở hải ngoại. Khởi soạn năm 1975, hoàn tất năm 1985, thu thanh năm 1990, với các giọng ca Kim Tước, Vũ Anh, tác phẩm này gồm 16 đoản khúc (có thể là 16 bài hát riêng) nói về một bầy chim, mà mỗi con chim ẩn dụ cho một hạng người, một số phận khác nhau... mà chính nhất là chim quyên, lấy cảm hứng từ tích Thục Đế. Chim quyên rời bỏ thôn Đoài, trải qua bao nhiêu việc, bao nhiêu lần hoá thân, rồi chết nơi xứ người, nhưng từ đống tro tàn ấy, chim quyên lại tái sinh để về lại thôn Đoài.
"Minh họa Kiều"
Bài chi tiết: Minh họa Kiều
Như tên của nó, tác phẩm này có ý minh họa lại truyện Kiều của Nguyễn Du, để thể hiện lòng kính trọng của tác giả với nhà đại thi hào. Đây là tác phẩm rất dài vì gom gần hết những lời thơ trong Truyện Kiều, âm điệu cũng phức tạp nhưng không đậm màu dân ca. "Minh họa Kiều" chia ra làm bốn phần, bốn giai đoạn của Thuý Kiều: phần một Kiều gặp Đạm Tiên, biết được số phận long đong của mình; phần hai Kiều gặp Kim Trọng, tình yêu nảy nở nhưng biết là không trọn vẹn; phần ba là giai đoạn khổ nhục của Thuý Kiều; phần bốn Kiều gặp Từ Hải, phần này tác giả chưa soạn xong.
Theo Phạm Duy, đây là tác phẩm ông bỏ công nhiều nhất (sáng tác những năm cuối thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21). Tác phẩm được thể hiện đầu tiên với giọng Duy Quang, Tuấn Ngọc, Thái Hiền,Ái Vân, Thanh Ngoan, Thái Thảo, Anh Dũng,...
Tháng 3 năm 2009, ông cho biết đã hoàn thành Minh họa Kiều, ông có nhiều buổi diễn thuyết tại Hà Nội về đề tài này.
Phổ nhạc, đặt lời
Bài chi tiết: Thơ phổ nhạc Phạm Duy
Phạm Duy được xem là một trong số ít nhạc sĩ Việt Nam giỏi về nghệ thuật phổ nhạc vào thơ và đặt lời cho nhạc nước ngoài, nhạc bán cổ điển.
Những tác phẩm thơ phổ nhạc thành công nhất của ông có thể kể đến "Ngậm ngùi" (thơ Huy Cận - nhà thơ Huy Cận từng gửi lời cám ơn ông về việc giúp bài thơ này nổi tiếng); "Ngày xưa Hoàng Thị" (thơ Phạm Thiên Thư); "Áo anh sứt chỉ đường tà" (trích Màu tím hoa sim của Hữu Loan); "Tiễn em" (thơ Cung Trầm Tưởng); "Tỳ bà" (thơ Bích Khê); "Vần thơ sầu rụng", "Tiếng thu" (thơ Lưu Trọng Lư); "Tình cầm" (thơ Hoàng Cầm); "Em hiền như Masoeur", "Thà như giọt mưa", "Hai năm tình lận đận" (thơ Nguyễn Tất Nhiên)...
Nhiều ca khúc nước ngoài nhờ ông đặt lời Việt mà trở nên phổ biến ở Việt Nam, như "Em đẹp nhất đêm nay" (La plus belle pour aller danser), "Khi xưa ta bé" (Bang bang), "Tình cho không" (L'amour c'est pour rien), "Tuyết Rơi" (Tomber la neige), "Tiếng Cười Trong Đêm" (La nuit), "Những Mùa Nắng Đẹp" (Seasons in The Sun), "Chuyện tình" (Where Do I Begin - nhạc phim Love Story của Andy Williams),... Ngoài ra ông còn đặt lời cho dân ca của nhiều nước trên thế giới.
Tiếp đến là những tác phẩm nhạc bán cổ điển, vốn là loại nhạc khó hoà nhập, thì ông cùng với tiếng hát Thái Thanh đã dễ dàng đưa đến số đông dân chúng: "Dạ khúc" (Nächtliches Ständchencủa Franz Schubert), "Dòng sông xanh" (An der schönen blauen Donau op. 314 của Johann Strauss), "Mối tình xa xưa" (Célèbre Valse, hay bài số 15 trong "16 bài valse cho piano", củaJohannes Brahms)...
Ca sĩ thể hiện
Thành công nhất với nhạc Phạm Duy cho đến nay là Thái Thanh. Thái Thanh hát nhạc Phạm Duy từ những ngày đầu ông sáng tác, bà đã biểu diễn và ghi âm hàng trăm bài. Từ những bài "Dân ca mới" như Tình ca, Người về, Về miền Trung, Quê nghèo, Tình hoài hương,..., những bài có âm điệu phức tạp như Đường chiều lá rụng, Chiều về trên sông... đến tình ca đôi lứa dễ hát dễ thuộc như Ngày xưa Hoàng Thị, Nghìn thu, Dạ lai hương... bà đều thể hiện tốt với sự đồng cảm. Nhạc Phạm Duy - giọng Thái Thanh đã là sự kết hợp hoàn hảo suốt nhiều thập kỷ qua.
Về mảng nhạc mang âm hưởng dân ca, ngoài Thái Thanh còn có một giọng nam thể hiện thành công là Duy Khánh. Những bản Ngày trở về, Chiến sĩ vô danh, Một bàn tay, Những bàn chân, Quê nghèo, Về miền Trung, Dân ca thương binh, Dặn dò,.. từng nổi tiếng cùng với tên tuổi Duy Khánh. Duy Khánh cùng với Thái Thanh là hai ca sĩ đầu tiên thể hiện hai trường ca Con đường cái quan và Mẹ Việt Nam, và được xem là thành công nhất. Cho đến nay chỉ có vài ca sĩ hay nhóm nhạc hát lại hai trường ca này.
Ngoài hai danh ca trên, có thể kể đến Khánh Ly với rất nhiều ca khúc thành công như Xuân Thì, Khối tình Trương Chi, Còn gì nữa đâu, 54-75, Bên Ni Bên Nớ; Kim Tước, Quỳnh Giao, Mai Hương, Hà Thanh hát ít nhưng cũng được yêu thích với những phong cách riêng. Một số ca sĩ thành công với những bài riêng như Julie với Mùa thu chết, Yêu Tinh Tình Nữ, Huyền thoại trên một vùng biển; Lệ Thu với Ngậm ngùi, Thuyền viễn xứ, Nước Mắt Mùa Thu, Người Về; Duy Quang với Chỉ chừng đó thôi, Em hiền như Masoeur, Cô bắc kỳ nho nhỏ; Tuấn Ngọc với Tiễn em, Hẹn hò, Trăng sao rớt rụng; Thái Hiền thì nổi danh khoảng thập niên 1970 với những bài nhạc Phạm Duy sáng tác cho "tuổi ô mai". Gần đây có các ca sĩ Bích Liên, Mộng Thủy,... tại Mỹ cũng hát thành công nhạc Phạm Duy.
Gần đây có nhóm ca sĩ trẻ ở Việt Nam gồm Mỹ Linh, Đức Tuấn, Quang Linh... cũng hay hát nhạc Phạm Duy, riêng nam ca sĩ Đức Tuấn đã cho là mình thành công với nhạc Phạm Duy trong một bài phỏng vấn.
Nhận xét
Nhạc sĩ Nguyễn Văn Tý:
"Trong "gia tài" của Phạm Duy, có những tác phẩm mà qua lăng kính của mình ông đã nói lên những triết lý sâu sắc. Chẳng hạn như "Nghìn trùng xa cách, người đã đi rồi. Còn gì đâu nữa mà khóc với cười"… Công tâm mà nói, trong kho tàng âm nhạc Việt Nam, Phạm Duy là một nhạc sĩ có nhiều tác phẩm để đời và mãi mãi còn trong lòng người Việt Nam qua nhiều thế hệ." - Trong bài viết Phạm Duy, người bạn, người anh, người thầy của tôi
Nhạc sĩ Lê Uyên Phương:
"Như tiếng chuông vọng đến từ hư vô. Như những tia chớp sáng ngời trong đêm tối. Như những tia nắng ấm đầu tiên của một ngày trong mùa Đông giá lạnh. Như những tia nắng chiều rực rỡ của một ngày đầy vui buồn của kiếp sống. Âm nhạc Phạm Duy đã đến trong mỗi cuộc đời Việt Nam như không khí trong bầu khí quyển của ca dao, tục ngữ, của truyện Kiều, của Cung Oán Ngâm Khúc, của Chinh Phụ Ngâm, của ngôn ngữ, của âm thanh, của cảm xúc Việt Nam. Trong đáy lòng của mỗi người Việt Nam, từ đã từng là một thiếu niên trong thời kháng chiến hay đến hôm nay là một thanh niên ở cuối thế kỷ 20, đều mang một dấu vết nào đó còn sót lại của bầu dưỡng khí đã nuôi lớn tâm hồn họ trong gần nửa thế kỷ nàỵ" - Trong bài viết Phạm Duy, nắng chiều rực rỡ
Giáo sư Trần Văn Khê:
"Từ trước đến giờ, tôi chỉ thấy Mai Văn Bộ, Lê Thương và Phạm Duy là đặt lời đẹp nhất - từ năm 1950 đến giờ tôi không theo sát phong trào nhạc mới nên có thể có nhiều người khác đặt lời đẹp mà tôi chưa biết - Có điều tôi chắc là trong hầu hết những bài hát của Phạm Duy, lời và nhạc chẳng những hay, mà lại có tánh cách giản dị, mộc mạc và nên thơ của những bài ca daọ Những câu lục bát biến thể, hay những câu lục bát có thêm tiếng đệm được phổ nhạc một cách tài tình." - Trong bài viết Nhân xem trường ca "Con đường cái quan" của Phạm Duy
Thi sĩ Nguyên Sa:
"Hôm nay, có những người thích Rong Ca, có những người mê Bầy Chim Bỏ Xứ, có những người ngất ngây với Hoàng Cầm Ca, có những tín đồ của Thiền Ca. Có những người yêu Phạm Duy của new age, của nhạc giao hưởng, của mini opera và của thánh ca hơn Phạm Duy của Tình ca, Phạm Duy của dân ca, Phạm Duy của Kháng chiến ca, Phạm Duy của thơ phổ nhạc. Và ngược lại, có những người, với họ, chỉ có Phạm Duy của Tình ca mới là Phạm Duy. Chỉ có Phạm Duy Kháng Chiến Ca. Chỉ có Phạm Duy thơ phổ nhạc. Chỉ có Phạm Duy, chỉ có Phạm Duỵ... Nhưng đó, bạn thích Phạm Duy nào, tùy bạn. Cũng vậy thôi Viên kim cương có một ngàn mặt. Khác biệt với tấm gương chỉ có một mặt. Cho nên phải chọn lựa, phải bàn cãi, phải bất đồng, phải suối ngàn đầu, sông trăm nhánh chảy về vĩnh viễn một đại dương." - Trong bài viết Phạm Duy, đại lực sĩ
Nhà nghiên cứu nhạc Georges-Étienne Gauthier:
"Sở dĩ cái tiếng Việt Nam có thể gợi nơi tôi một chút ý tưởng hoà bình và đẹp đẽ, nhân ái và từ thiện, sở dĩ trải qua nhiều tháng nhiều năm, tôi đã có thể yêu mến nước Việt Nam ít ra cũng như yêu mến chính nước tôi, sở dĩ như thế trước hết và trên hết là chính nhờ Phạm Duy và một số nghệ sĩ Việt Nam khác." - Trong cuốn Một người Gia Nã Đại và nhạc Phạm Duy
Danh mục
Viết về Phạm Duy
Nhạc
Trong bài hát "Sài Gòn niềm nhớ không tên" của nhà thơ Nguyễn Đình Toàn có đoạn:
Sài Gòn ơi! Thôi hết rồi những ngày hát nhớ nhauNhớ Phạm Duy với tình ca sầuMắt lệ rơi khóc thuở ban đầuCòn gì đâu...Sách
Một người Gia Nã Đại và nhạc Phạm Duy - Georges-Étienne Gauthier
Phạm Duy - còn đó nỗi buồn - Tạ Tỵ
Nửa thế kỷ Phạm Duy - Xuân Vũ
Hồi ký Phạm Duy - Phạm Duy
Hành trình Phạm Duy qua dòng lịch sử - Jason Gibbs
Tiểu luận, báo chí
Phạm Duy, đại lực sĩ; Phạm Duy với ngàn lời ca - Nguyên Sa
Văn Cao - Phạm Duy : Trần Gian Và Tiên Cảnh - Thụy Khuê
His Music Links The Generations - Los Angeles Times
Phạm Duy Thể Nghiệm Việt Nhạc - Latina Musica Contemporanea Del Mundo
Nghệ thuật phổ thơ vào nhạc - Phạm Quang Tuấn
Viết về Phạm Duy - Nguyễn Đình Toàn
Con đường cái quan - Georges-Étienne Gauthier
Phạm Duy, Vietnam's Music Man - Ngọc Bích
Văn Cao - Phạm Duy : Hai con người, một mối tình - Phạm Thế Định
Phạm Duy và tiếng hát quê hương - Giao Chỉ
Phạm Duy và tôi - Ngô Đồng
Phạm Duy, Con én đưa thoi - Cổ Ngư
Phạm Duy - Nhạc sỹ vượt thời gian - Nguyễn Ngọc Sơn
Tính hiện thực trong ca từ của Phạm Duy - Trần Hữu Thục
Phạm Duy người nghệ sĩ tự do - Đỗ Xuân Kiên
Nhạc phẩm
Để xem đầy đủ danh sách các sáng tác của Phạm Duy, xem Nhạc Phạm Duy.
Áo anh sứt chỉ đường tà
Bà mẹ Gio Linh
Bà mẹ phù sa
Bên cầu biên giới
Bên ni bên nớ
Bao giờ biết tương tư
Cây đàn bỏ quên
Chiều về trên sông
Con đường cái quan
Chỉ chừng đó thôi (ĐVH vol 4)
Còn chút gì để nhớ
Dạ lai hương
Đạo ca
Đường chiều lá rụng
Đưa em tìm động hoa vàng
Giọt mưa trên lá
Giải thoát cho em
Giết người trong mộng
Giờ thì em yêu
Giọt chuông cam lộ
Gọi em là đóa hoa sầu
Hạ hồng
Hẹn hò
Kỷ vật cho em
Kỷ niệm
Minh Họa Kiều
Mộ khúc
Mẹ Việt Nam
Ngày trở về
Nha Trang ngày về
Ngày xưa Hoàng Thị
Ngày đó chúng mình
Ngày em hai mươi tuổi
Ngày sẽ tới
Ngày tháng hạ
Ngày trở về
Ngày xưa
Nghìn năm vẫn chưa quên
Nghìn thu
Ngồi gần nhau
Ngọn trào quay súng
Ngụ ngôn mùa đông
Ngựa hồng
Người lính bên tê
Người lính trẻ
Người tình
Người tình già trên đầu non
Người về
Người việt cao quý
Ngậm ngùi
Nha Trang ngày về
Nhạc tuổi xanh
Phố buồn
Quê nghèo
Rong ca
Tâm ca
Thiền ca
Thông điệp mùa xuân
Thương ca chiến trường
Tình ca
Tình hoài hương
Tiếng thu
Tổ khúc Bầy chim bỏ xứ
Trường ca Con đường cái quan
Trường ca Hàn Mặc Tử
Trường ca Mẹ Việt Nam
Tục ca
Về miền Trung
Vần thơ sầu rụng
Quán bên đường
Quán Thế Âm
Răn
Rồi đây anh sẽ đưa em về nhà
Rong khúc
Ru con
Thu ca điệu ru đơn
Thu chiến trường
Thương ai nhớ ai
Thương tình ca
Thuyền viễn xứ
Tiễn em
Tiếng bước trên đường khuya
Tiếng hát to
Tiếng hát trên sông
Tiếng hát trên sông Lô
Tiếng hò miền Nam
Tiếng sáo Thiên Thai
Tiếng thời xưa
Viễn du
Xin em giữ dùm anh
Xin tình yêu Giáng sinh
Xuân
Xuân ca
Xuân hành
Xuân hiền
Xuân thì
Xuất quân
Yêu em vào cõi chết
Yêu là chết trong lòng
Tập nhạc đã in
Những điệu hát bình dân Nhà xuất bản Đất Mới -Thanh Hoá, 1950.
Tình ca, Tự xuất bản - Saigon, 1969.
Một mẹ trăm con, Bộ Thông Tin - Saigon, 1962.
Trường Ca Con đường cái quan, Tập san Sáng dội miền Nam - Saigon,1960 và Quảng hoá - Saigon, 1970.
Mười Bài Tâm Ca, Lá Bối - Saigon, 1965.
Ngày đó chúng mình yêu nhau - An Tiêm - Saigon, 1968.
Gìn vàng Giữ ngọc, Saigon, 1971
Nghìn trùng xa cách, An Tiêm - Saigon, 1968.
Hát vào đời, An Tiêm - Saigon, 1969.
Vòng tay thế giới, Quảng Hóa - Saigon, 1969.
Giết người trong mộng, Trí Dũng - Saigon, 1970.
Ca khúc cho ngày mai, Quảng Hóa - Saigon, 1970.
Cho nhau riêng nhau một đời, Khai Phóng - Saigon, 1970.
Giọt lệ cho tình ta, Chân Mây - Saigon, 1970.
Mười bảy tình ca bất tử Thương Yêu - Saigon, 1971.
Đạo ca, Văn học sử - Saigon, 1971.
Nhi đồng ca, Cục Tâm lý chiến - Saigon,1971.
Kỷ vật chúng ta, Gìn vàng Giữ ngọc - Saigon, 1971.
Thương ca chiến trường, Gìn vàng Giữ ngọc - Saigon, 1971.
Chiến ca mùa hè, Tiên Rồng- Saigon, 1972.
Con đường tình ta đi, Gìn vàng Giữ ngọc- Saigon, 1973.
Tuyển tập nhạc tiền chiến (trong đó có nhạc Phạm Duy) Kẻ sĩ - Saigon, 1968.
Tuyển tập 20 năm nhạc tình(trong đó có nhạc Phạm Duy) Khai Phóng - Saigon,1970.
Hoàng cầm ca, Hội văn hoá VN tại Bắc Mỹ - Hoa Kỳ, 1984.
Thấm thoát mười năm, Hội văn hoá VN tại Bắc Mỹ - Hoa kỳ, 1984
TỦ SÁCH CÀNH NAM và TẠP CHÍ XÁC ĐỊNH - Hoa kỳ, 1985.
MƯờI BÀI RONG CA PDC PRODUCTIONS, Midway City, USA 1988
MƯờI BÀI TÂM CA PDC PRODUCTIONS, Midway City, USA 1990
BẦY CHIM BỎ XỨ CÀNH VÀNG - Westminster, CA USA 1990
MộT ĐờI ĐỂ YÊU (30 tình khúc) NAM Á - Paris FRANCE 1989
VƯờN THƠ CÁNH NHẠC (30 bài thơ phổ nhạc) NAM Á - Paris FRANCE 1989
TÌNH SI (30 tình khúc) NAM Á - Paris FRANCE 1992
TÌNH CA QUÊ HƯƠNG(30 bài ca quê hương) NAM Á - Paris FRANCE 1992
LỊCH SỬ TRONG TIM (30 bài ca kháng chiến) NAM Á - Paris FRANCE 1992
HÁT TRÊN ĐƯờNG VỀ (Đạo Ca, Rong Ca, Thiền Ca) NAM Á - Paris, FRANCE 1992
NIỀM VUI CÒN ĐÓ (Bé Ca, Nữ Ca,Bình Ca) HỒNG LĨNH - Westninster, CA USA 1994
TẠ ƠN ĐờI HỒNG LĨNH - Westninster, CA, USA 1994 Có Thêm Ngoại Ngữ
Trường Ca Mẹ Việt Nam (Việt-Anh-Pháp) Phủ Đặc Ủy Chiêu Hồi - Saigon,1960 LÁ BỐI, 1967
Trường Ca Mẹ Việt Nam (Việt-Pháp) NAM Á, Paris, FRANCE 1985
DÂN CA - FOLK SONGS (Việt -Anh) USIS - Saigon, 1968.
HOAN CA (Việt - Anh) DU CA - Saigon, 1973.
HÁT TRÊN ĐƯờNG TỊ NẠN (Việt-Anh) ĐÔNG PHƯƠNG - Santa Ana, CA USA1979.
MƯờI BÀI NGỤC CA (Việt-Anh) NGUYỄN HỮU Hiệu - Arlington, VA USA1980.
HAI MƯƠI BÀI NGỤC CA (Việt-Anh) Hội VĂN HOÁ Bắc Mỹ - Arlington, VA USA 1980.
NGỤC CA (Việt-Anh-Pháp) QUÊ ME - Paris, 1982. PDC Productions - MIdway City CA USA 1989
DÂN CA FOLK SONG-CHANT POPULAIRE (Việt, Anh, Pháp) PDC Musical Productions - Midway City, 1980.
Trường Ca CON ĐƯỜNG CÁI QUAN (Anh-Việt) PDC Musical Productions, Midway City, 1980
Sách giáo khoa, sử liệu
Lược khảo về dân nhạc Việt Nam, Hiện Đại - Saigon, 1970. Xuân Thu tái bản, USA 1991
Music of Viet Nam S.I.U - Carbondale, ILL USA 1975.
Tự học Guitare (3 Tập) Phạm Duy Enterprises Midway City, CA USA 1976.
Hồi ký (3 tập) PDC Productions -Midway City, CA USA 89, 90, 91
Ngàn lời ca, PDC Productions -Midway City, CA USA 1987, 88
Đường về dân ca, Xuân Thu - Los Alamitos, CA, USA 1990
Nửa thế kỷ tân nhạc (bài báo) Nguyệt san Văn Học, Mỹ
Những năm đầu của tân nhạc (bài báo) Tập San HợP LƯU - CA 1994
Tân nhạc Việt Nam thời kỳ đầu - PNC, Việt Nam, 2005
HỒI KÝ NHẠC SỸ PHẠM DUY
Xuân trong tôi đã khơi trong một đêm vui
Một đêm, một đêm gối chăn phòng the đón cha mẹ về…
XUÂN CA
Chương Một
Tôi ra đời tại nhà hộ sinh ở số 40 Rue Takou (phố Hàng Cót) Hà Nội vào lúc 1 giờ 15 sáng ngày 05 tháng 10 năm 1921, theo âm lịch là ngày mùng 5 tháng 9 (nhuận) năm Tân Dậu. Trước đó vài giờ, mẹ tôi còn đang ôm bụng ngồi đánh tổ tôm với mấy bà bạn và với Bác Hàn Làng Vẽ (1).
Mẹ tôi vừa ù xong ván bài tổ tôm thì dở dạ và người nhà vội vàng đưa vào nhà đẻ. Do đó, khi tôi lớn lên, mỗi lần gặp Bác Hàn là bác nhắc tới chuyện ván bài tổ tôm và gọi tôi là thằng Tôm. Ai ngờ bây giờ về già, tôi cũng trở thành một thứ Uncle Tom.
Tuy luôn luôn đắc ý cho rằng mình ra đời trong một canh bạc thắng của mẹ, nhưng khi lớn lên thằng Tôm này lại khoái với cái tên tự do chính mình đặt ra làMộng Vân. Vì sao? Vì trong một lúc quá yêu Tôm, mẹ buột miệng nói rằng đã nằm mơ thấy những đám mây trong thời kỳ có mang… Lại cũng là một cái tên tiền định. Thằng Tôm sẽ như mây, lang thang suốt đời. Và khi du nhập vào nghề hát rong thì đụng ngay một đoàn hát Cải Lương mang tên Gánh Mộng Vân.
Ngoài hai tên hiệu đó, cái tên thật — rất quan trọng vì là tên cúng cơm — cha mẹ đặt cho khi tôi vừa chào đời, tuy nó chẳng ngộ nghĩnh hay thơ mộng gì cho lắm, nhưng khi tôi trở thành ca sĩ của một gánh hát rong và chỉ dùng chữ họ và chữ đệm để cho khán giả dễ nhớ tên thì… cái tên cúng cơm đó biến mất. Ngay chị ruột tôi, về sau, cũng chỉ gọi tôi bằng tên đệm mà thôi. Giống như là có một sự quên tên hay kiêng tên vậy. Có điều chắc chắn là tôi đã ra thoát được tục lệ từ xưa của người Việt là thường đặt những cái tên rất xấu xí cho con cái để ma quỷ không thèm bắt đi như: (xin lỗi) thằng Buồi, thằng Đít vân vân…
Bố tôi là Phạm Duy Tốn, được người đời biết như là một nhà báo, một nhà văn đã từng tiếp súc với văn hóa Âu Tây và đã không còn là một nhà nho thuần túy nữa, nhưng khi bố tôi đặt tên cho con cái thì đều dựa vào chữ nho cả. Tên của ông cũng như tên của các con đều là tên của những đức tính và nếu viết bằng chữ nho thì chữ nào cũng nằm trong bộ ngôn, nghĩa là bộ chữ thuộc vào những hạng người thích ăn to nói lớn.
Anh cả của tôi mang tên Khiêm, tới hai người chị là Thuận và Trinh, rồi tới người anh hơn tôi 2 tuổi là Nhượng. Hai người anh trong thực tế sẽ sống bằng nghề ăn nói, họ đều là những ông thầy dạy học. Nhưng họ đều giống tôi ở chỗ tính nết sẽ không như cái tên bố đã đặt cho. Ông Khiêm nhiều khi có vẻ thiếu khiêm cung. Ông Nhượng không hẳn lúc nào cũng nhường nhịn em nhỏ. Còn tôi, với cái tên Cẩn, nếu suốt đời đã sống nhờ chữ ”ngôn” trong cái tên thì trái với điều mong muốn của bố tôi, chẳng bao giờ tôi thấy trong tôi có được một sự cẩn trọng tối thiểu ! Tuy vậy, về sau tôi cũng học mót bố tôi trong việc đặt tên cho tám đứa con. Chúng đều phải mang những cái tên tốt đẹp như: Quang, Minh, Hùng, Cường, Hiền, Thảo, Đức, Hạnh. Tôi đã thừa hưởng tinh thần hướng thượng của bố tôi vậy.
Ảnh bên: Cô tôi |
Ông nội tôi là người đã từng giữ chức Thiên Hộ — chef de quartier — cai quản một khu phố trong nội thành Hà Nội. Ông bà tôi chỉ có hai người con, một trai là bố tôi và một gái (chúng tôi gọi là cô Án) lấy chồng làm Án Sát ở Bắc Ninh. Cô tôi có người con rể là hoạ sĩ Côn Sinh, chuyên vẽ hí hoạ cho báo LOA, người khuyến khích tôi vào học trường Mỹ Thuật sau này.
Tôi không biết mặt ông nội nhưng bà nội thì có ảnh chụp từ ngày xưa để lại. Trông bà thật là đẹp đẽ. Lúc còn bé, không nhớ đã có ai trong họ cho tôi biết rằng bà là một ca kỹ tài danh của một thuở xa xưa, lọt vào đôi mắt hào hoa của tay chơi Thiên Hộ Phạm Duy Đạt rồi được ông cưới về làm vợ. Các con, cháu và chắt của bà có trở thành những văn nhân, tài tử cũng nhờ ở huyết thống này. Trong bức ảnh cũ, thấy bà còn có vẻ phúc hậu nữa. Nhưng theo lời mẹ tôi kể thì bà không hiền lành lắm đâu, còn có thể nói là ác nghiệt nữa :
– Không phải ác với tao mà ác với bố mày…
Đại gia đình |
Mẹ tôi là con dâu nên coi thái độ đó của mẹ chồng là nghiệt ngã nhưng tôi không nghĩ rằng bà tôi là người ác tâm. Bà là đại diện của một nền văn minh cũ, mang trong lòng tất cả những tín ngưỡng rất lâu đời và khó bỏ. Việc cắt tóc của bố tôi không chỉ là một hành động chống lại mẹ, nó còn là sự đả phá một kỷ luật đã có hằng mấy trăm năm, nếu không dám nói là cả nghìn năm. Có cái gap generation nào mà không làm đau lòng những người trong cả hai thế hệ?
Ông ngoại tôi lúc sinh thời — được gọi là cụ Tú Hàng Gai — có nhiều học trò lắm, mỗi lần tới ngày kỵ của ông thì có rất đông học trò cũ từ miền quê lên Hà Nội và tới phố Hàng Gai để cúng giỗ. Ông ngoại tôi có hai vợ, do đó họ ngoại của tôi đông hơn bên họ nội. Không biết mặt ông bà ngoại nhưng bà trẻ — nàng hầu của ông ngoại — thì tôi biết. Bà trẻ hiền lành lắm. Không đẹp đẽ và oai phong như bà nội ở trong bức ảnh cũ, bà trẻ là hình ảnh của sự chịu đựng nơi những người sinh ra để làm vợ thứ. Dù con cái của bà — cậu Khuê và dì bé lấy chồng làm Tham Tá tên là Nhữ — đều là những người có địa vị trong xã hội nhưng lúc nào bà cũng sống như một chiếc bóng nhạt mầu.
Mẹ tôi là con gái của một ông thầy đồ và trước khi lấy chồng, mẹ tôi là cô hàng bán sách ở phố hàng Gai. Tôi không biết tên họ của ông bà ngoại nhưng một hôm gặp bà dì ruột ở Saigon vào khoảng 1970 thì dì nói :
– Mày có biết bà họ gì không? Họ Lưu, dòng dõi Lưu Vĩnh Phúc đó!
Thế ra trong tôi có dòng máu nổi loạn à? Người Pháp gọi Lưu Vĩnh Phúc là giặc — Giặc Cờ Đen — nhưng đối với tôi, ông là người làm Cách Mạng.
Ba chị em: Bác Hai, Mẹ và Dì Năm… |
Tôi có khá nhiều các bác, các dì, các cậu và có rất đông các anh em, chị em họ cùng với một rừng các cháu gọi tôi bằng chú và bằng cậu. Một trong những người anh họ của tôi là Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, con của Bác Hai Hàng Đường. Tôi thường được ngồi ngắm tác giả CỔ HỌC TINH HOA, TỤC NGỮ PHONG DAO… nằm hút thuốc phiện.
Trong đại gia đình tôi, không phải chỉ có anh Ngọc mới là bạn của Nàng Tiên Nâu. Tôi có bao nhiêu ông chú, ông cậu, có bao nhiêu ông anh hay em họ là có bấy nhiêu ông tiên. Thậm chí sau này, con của cậu tôi, tên là Bá, còn mở hẳn một tiệm hút ở phố Hàng Dầu, không có một nhà văn Hà Nội nào hằng đêm là không tới đó để gặp nhau. — đây, tôi hay gập Đồ Phồn, Lan Sơn, Đàm Quang Thiện…
Nói tới đại gia đình là nhớ tới nhưng ngày đại giỗ. Gia đình càng lớn thì hằng năm càng có nhiều ngày giỗ. Vào những ngày này, tôi mới được gặp gỡ tất cả mọi người và tôi có nhận xét là các bác, các cậu và các anh họ tôi ai cũng có giọng nói rất lớn. Nói chuyện trong nhà mà như người ta cãi nhau khi mổ bò. Ngược lại, các mợ, các dì, các cháu gái lại nói năng rất khẽ như bị đàn ông ăn hiếp vậy. Ít khi tôi được ăn cơm với người lớn. Tôi và lũ cháu trai — gần bằng tuổi nhau nên toàn xưng hô mày, tao — tranh nhau từng miếng gan gà hay mảnh trứng muối. Mấy thằng cháu này hơn tôi ở chỗ chúng nó uống rượu như uống nước lã. Trong ngày giỗ, chỉ có con trai được cho vào ăn chung một mâm và ăn trước. Con gái đều phải chui xuống bếp để giúp việc rồi ăn sau. Tinh thần trọng nam giới của gia đình tôi vào đoạn đầu của thế kỷ 20 này dường như vẫn còn đeo đẳng tôi cho tới tận bây giờ.
_________________
(1) Bác Hàn là họ bên nội.
ÔNG KHÔNG CÒN PHẢI TRỐN AI NỮA
Thời trai trẻ, như bao thanh niên Hà Thành lãng mạn khác, ông theo Việt Minh vào rừng kháng chiến chống Pháp. Nhưng ông quá tài hoa và lãng mạn nên không thể nào tương thích với những người cộng sản đang bao trùm lên Việt Minh. Ông "dinh tê" về thành.
Rồi ông phải trốn vào Nam như gần một triệu đồng bào khác.
Sài Gòn là đất lành để ông phóng tài năng của ông lên đỉnh cao. Nhưng Sài Gòn của những năm chiến tranh khốc liệt và rối loạn cũng làm cho ông mất phương hướng. Với nhiều người, ông đã chết như thế nào. Với nhiều người, ông còn đó nỗi buồn...
Rồi cộng sản vào đến Sài Gòn, ông không còn đất sống ở Việt Nam. Ông trốn sang nước Mỹ như hàng triệu đồng bào khác.
Về cuối đời, thấy không còn phải trốn ai nữa, ông trở lại quê hương.
Bây giờ ông vĩnh viễn nằm vào lòng đất mẹ. Không còn ai có thể xua đuổi ông được nữa.
Việt Nam, Việt Nam, mẹ đã giữ chặt ông vào lòng, đứa con tài hoa của mẹ.
HNC
Rồi ông phải trốn vào Nam như gần một triệu đồng bào khác.
Phạm Duy Việt Minh |
Sài Gòn là đất lành để ông phóng tài năng của ông lên đỉnh cao. Nhưng Sài Gòn của những năm chiến tranh khốc liệt và rối loạn cũng làm cho ông mất phương hướng. Với nhiều người, ông đã chết như thế nào. Với nhiều người, ông còn đó nỗi buồn...
Rồi cộng sản vào đến Sài Gòn, ông không còn đất sống ở Việt Nam. Ông trốn sang nước Mỹ như hàng triệu đồng bào khác.
Về cuối đời, thấy không còn phải trốn ai nữa, ông trở lại quê hương.
Bây giờ ông vĩnh viễn nằm vào lòng đất mẹ. Không còn ai có thể xua đuổi ông được nữa.
Việt Nam, Việt Nam, mẹ đã giữ chặt ông vào lòng, đứa con tài hoa của mẹ.
HNC
Tôi không hợp lắm với nhạc sĩ Phạm Duy như đối với Văn Cao và Trịnh Công Sơn, nhưng khi nghĩ về ca khúc Việt, nếu chọn 3 người thì tôi chọn 3 nhạc sĩ này. Có lần tôi đề nghị bạn bè chọn cho tôi người thứ 4, và nhiều tên tuổi lớn được đưa ra, nhưng rốt cuộc, các lựa chọn đều nấn ná không dứt khoát. Tất nhiên là mỗi người đều có những quan niệm riêng, nhưng chọn Văn Cao, Trịnh Công Sơn và Phạm Duy thì thường ít gây tranh cãi nhất. Đó là những nhạc sĩ có ấn tượng mạnh mẽ trong lòng công chúng âm nhạc Việt Nam, và họ đều là những nhạc sĩ lớn của dân tộc.
Nhớ mấy năm trước năm 2000, các tờ báo ở Việt Nam không hề được nhắc tên Phạm Duy từ sau khi ông Trần Bạch Đằng dẫn lời ông Tố Hữu nói về người nhạc sĩ này: “Với Phạm Duy thì bỏ khúc giữa, lấy khúc đầu và khúc đuôi”. Khi làm Thư ký tòa soạn tạp chí Âm Nhạc của Hội Nhạc Sĩ Việt Nam, tôi hiểu rõ sự húy kị không văn bản đó. Nhưng rồi năm 1998, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đi Pháp có dịp gặp Phạm Duy và nghe nhạc của ông, tôi đã đặt anh viết một bài báo về cuộc gặp gỡ đó. Hoàng Phủ Ngọc Tường viết ngay bài “Đêm nghe Kiều ca cùng Phạm Duy ở Paris” khá hay, tôi định đưa in ngay, nhưng lại sợ báo mình bị “phạt” nên tạm để bài lại vào tệp bài chờ. Lúc đó tôi đang viết thêm cho mục “Thư ra hải ngoại” của báo Đại Đoàn Kết, và tôi quyết định đưa vấn đề Phạm Duy lên mục này của tờ báo bạn, qua bức thư gửi một người bạn Việt kiều. Trong lá thư đó tôi có nhắc chuyện Phạm Duy muốn về thăm đất nước bằng một lời mời từ Việt Nam, và tôi nhắc lại những bài hát cách mạng thời kháng chiến chống Pháp của ông cùng với kỷ niệm về “Bà mẹ Gio Linh” – một ca khúc nổi tiếng – Phạm Duy viết trong chuyến đi vào Quảng Trị thời bấy giờ. Cuối thư là một lời nhắn gửi chân thành: “Nếu nhạc sĩ Phạm Duy thực sự muốn về thăm quê thì ông hãy về theo lời mời của chính ông, nghĩa là có thể về theo con đường du lịch”. Bức thư được đăng lên báo, và phản ứng của A25 (CA bảo vệ văn hóa văn nghệ) lúc ấy là… đồng tình. Vậy là tôi cho đăng luôn bài viết của Hoàng Phủ Ngọc Tường lên tạp chí Âm Nhạc.
Tháng sau, nhạc sĩ Hoàng Dương cho biết là ông đã phô-tô 2 bài báo đó gửi cho Phạm Duy. Rồi Phạm Duy gọi điện liên lạc với tôi rất vui vẻ và nói là ông sẽ về thăm quê.
Chuyến về thăm quê của Phạm Duy sau 25 năm xa nước thật vui. Nhà thơ Hoàng Cầm “cử” con trai là Hoàng Kỳ ra sân bay Nội Bài đón và tặng hoa. Khi ông về ở khách sạn Sofitel Plaza Hà Nội, nhạc sĩ Trần Hoàn lúc ấy là Phó ban Tư tưởng Văn hóa TW đến thăm và chuyện trò thân mật. Phạm Duy gọi điện hẹn tôi đến chơi. Khi tôi đến hơi muộn giờ hẹn, đã thấy ông ngồi chờ ở phòng khách, và câu chuyện không ngoài niềm vui trở về của ông. Tóc ông bạc trắng bồng bềnh như mây ôm lấy khuôn mặt đầy đặn với nụ cười hiền hậu khiến tôi không nghĩ là ông đang bước vào tuổi tám mươi.
Mấy ngày sau trong một cuộc vui, tôi và Nguyễn Thụy Kha nhờ nghệ sĩ Ngọc Bảo tác động để ông Phạm Thế Duyệt (ủy viên BCT) gặp Phạm Duy, và ông Phạm Thế Duyệt đã tiếp Phạm Duy tại trụ sở Ban Việt Kiều TW. Nhạc sĩ Trọng Bằng, Tổng thư ký Hội Nhạc Sĩ VN cũng đã đến dự và tặng hoa cho người nhạc sĩ tài ba, có nhiều bài hát mà ông đã thuộc từ hồi còn nhỏ.
Từ đó, Phạm Duy trở về nước nhiều lần. Lần nào về, ông cũng gọi điện cho tôi và Nguyễn Thụy Kha đi ăn sáng cùng ông, thường thì ăn “phở Lý Quốc Sư” gần nhà Hoàng Cầm. Rồi đầu năm 2005, ông cho biết là ông muốn rời Hoa Kỳ về sống hẳn ở Việt Nam những năm cuối đời. Ông nói: “Tôi ở hải ngoại chỉ có 2 triệu công chúng, nhưng tôi về nước là về với 80 triệu đồng bào”. Đó là một tin vui đối với công chúng yêu nhạc Phạm Duy, nhưng với chúng tôi còn có một niềm vui khác là nhà nước đã “cởi mở” hơn đối với những tài năng được gọi là “có vấn đề”.
Ngày 17.5.2005 tin Phạm Duy rời hẳn Hoa Kỳ về nước chính thức được loan báo trên nhiều phương tiện truyền thông của Việt Nam với dòng chữ tô đậm: “9 giờ 45 ngày 17-5-2005, nhạc sĩ Phạm Duy đã về đến phi trường Tân Sơn Nhất (TP.HCM). Ông đã nhiều lần về VN, nhưng đây là lần về rất đặc biệt: về ở hẳn…”.
Ngày đó, tôi đang trên đường đi Nghệ An thì nhận được điện thoại của VietNamNet đề nghị trả lời phỏng vấn. Tôi đã trả lời trên chiếc xe đang chạy tốc độ đường dài, và rất vui khi nói rằng: “Nên để cho cả những bài hát hay, bài hát đẹp về quê hương đất nước và tình yêu của Phạm Duy được trở về nước cùng ông…”. Cuộc trả lời của tôi vẫn còn được lưu đâu đó trên mạng:
“1. Theo tôi, dù ở đâu, phương trời nào trên trái đất này, Phạm Duy cũng không thoát khỏi “con người Việt”, không thể tách rời khỏi hồn Việt. Đó là định mệnh của một con người mà gốc gác âm nhạc là từ hồn Việt mà ra. Tôi nói như vậy là vì những lý do sau đây:
- Ông là người đầu tiên đưa dân ca vào ca khúc Việt. Những bài hát của ông thấm đẫm tâm hồn Việt. Nói một cách minh bạch, chúng ta phải ghi công Phạm Duy ở khía cạnh này. Ông cũng là người đầu tiên lấy cảm hứng âm nhạc từ Truyện Kiều của Nguyễn Du. Bộ “Kiều ca” của ông được sáng tác khi ở xa nước đủ để đem lại những cảm xúc mới mẻ về tuyệt tác thi ca Truyện Kiều cho chúng ta – những người Việt ở trong nước. Cách đây hơn mười năm, khi còn làm TKTS tạp chí Âm nhạc, tôi đã đăng tải bài viết của anh Hoàng Phủ Ngọc Tường với tiêu đề: “Đêm nghe Kiều ca cùng Phạm Duy ở Paris” qua đó đã có sự chia sẻ sâu sắc với Phạm Duy về tình cảm sâu nặng đối với di sản văn học của đất nước.
- Phạm Duy về nước lần đầu vào năm 1999 – nhưng với tư cách là người về thăm quê hương chứ không phải với tư cách nhạc sĩ (để giới thiệu tác phẩm của mình). Nhưng trong mấy năm qua, sau những chuyến đi, ông đã làm trên dưới 10 bài hát, hợp thành đĩa “Hương ca”. Tôi đã nghe đĩa nhạc này và rất xúc động với hồn quê, hồn nước trong đó. Dù chỉ là những cuộc trở về ngắn ngủi, nhưng những bài hát đó thể hiện sự tha thiết với nguồn cội. Kể cả bài “Tắm truồng” – bài hát bị phê phán – thì tôi cũng thấy thấm đẫm tình cảm của người rất yêu quê, yêu con sông quê. Điều đó chứng tỏ, dù ở đâu ông cũng không xa rời được dân tộc Việt.
- Phạm Duy là người có tên tuổi trong thời kỳ đầu của tân nhạc VN trước 1945. Ông là nhạc sĩ đã tham gia Cách mạng (CM) không chỉ bằng tác phẩm mà bằng sự dấn thân đối với CM. Ông đã từng vào miền Trung, đi thẳng đến chiến trường Bình Trị Thiên, ăn khoai với các bà mẹ, bà chị ở Quảng Trị, nghe những câu chuyện của những bà mẹ có con đi làm Cách mạng và bị chặt đầu. Và ông đã viết một bài hát rất Cách mạng, bài hát vừa thể hiện sự căm thù sâu sắc với giặc Pháp, vừa miêu tả được tấm lòng của những bà mẹ VN anh hùng. Đó là bài hát “Bà mẹ Gio Linh” nổi tiếng. Nhờ bài hát đó mà sau này có người đề nghị ở Quảng Trị nên có con đường “Bà mẹ Gio Linh”. Việc này chưa được thực hiện, nhưng những bài hát như thế của Phạm Duy là tài sản quý của âm nhạc Cách mạng VN, của nhân dân VN. Đó là sự đóng góp đáng ghi nhận, không thể từ chối.
Trong cuộc đời của Phạm Duy, có những đoạn đời, đoạn đường khác nhau, và ông đã xa quê Bắc của ông hơn nửa thế kỷ, xa Tổ Quốc 30 năm. (Mỗi con người đều có những giai đoạn phức tạp – đó mới là con người). Nhưng trong ông luôn nhớ về cội nguồn như bất cứ người VN nào.
2. Nhạc sĩ Phạm Duy đã trở về nước. Tôi mong muốn những bài hát hay, những bài hát đẹp của ông được trở về với ông trên đất nước này. Nên có một chương trình mà những ca khúc Cách mạng của ông được ra mắt. Những bài hát về quê hương, những tình ca hay, cả bộ “Kiều ca” của ông cũng nên đến được mọi người.
Chúng ta, những người yêu đất nước và thực sự nhân văn nên để điều đó được hiển thị”.
Từ đó, nhiều đêm nhạc, đĩa nhạc, sách nhạc của Pham Duy đã hiện diện ngay trên trên đất nước của ông. Năm 2006 tôi vào Sài Gòn, gọi điện thăm ông, và thật vui, ông mời tôi đến một quán bar trên đường Nguyễn Du nghe người ta hát nhạc Phạm Duy. Đó cũng là dịp sinh nhật lần thứ 85 của ông. Ông giới thiệu tôi với mọi người rất thân tình, như một đứa em, và tôi đã hát “Khúc hát sông quê” chúc mừng ông.
Tôi gặp ông lần cuối cùng khi ông trở lại Hà Nội làm cuộc trò chuyện âm nhạc tại sân khấu của Nhà hát ca múa nhạc 79 Hàng Trống mùa thu 2012. Dường như ông muốn tóm tắt cuộc đời âm nhạc của ông trong mấy trang giấy đã viết sẵn. Giọng nói của ông vẫn khỏe và trong. Cách nói nhấn nha hơi điệu nghệ của ông khiến tôi khẽ mỉm cười nghĩ về một tâm hồn “ga-lăng” không bao giờ phai nhạt dù đã qua tuổi 90. Và khi tôi nói với ông “Anh vẫn khỏe lắm” thì ông nói “Cậu yên tâm nhé, Phạm Duy vẫn sống cả khi đã chết mà”. Câu nói vui, cũng là niềm tự tin của ông về sự nghiệp âm nhạc của mình hiến dâng cho cuộc sống.
Không ai chống nổi thời gian. Người nhạc sĩ tài hoa ấy cuối cùng cũng từ giã cõi đời. Chiều nay, tôi nhận được tin nhắn của ca sĩ Ánh Tuyết: “Gia đình và bạn bè thương tiếc báo tin… Nhạc sĩ Phạm Duy đã từ trần lúc 14h 30’ ngày 27.1.2013 hưởng thọ 92 tuổi. Tang lễ được cử hành tại tư gia lúc 9h ngày 28.1…”.
Tôi gọi điện cho Ánh Tuyết và nghe chị nói thảng thốt: “Em định làm 3 album ca khúc Phạm Duy để tặng tác giả, nhưng chưa kịp hoàn thành thì ông đã đi rồi. Nghe tin Phạm Duy ra đi, người em như tan chảy…”.
Đó cũng là cảm giác của nhiều người khi nghe tin những nhân vật tài ba vĩnh viễn ra đi. Và cuộc ra đi của nhạc sĩ Phạm Duy lại khiến tôi nhớ những cuộc trở về của ông. Vâng, những cuộc trở về sau những chuyến đi xa, sau những biền biệt cách chia, để rồi vĩnh viễn hóa thân vào Cõi Về muôn trùng xa thẳm…
Hà Nội, đêm 27.1.2013
No comments:
Post a Comment