Bối cảnh xuất hiện thơ Nguyên Sa
Trong sinh hoạt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam có một số hiện tượng xấu cũng như tốt, thật cũng như giả, nổi bật, được ghi nhận.
Một trong những hiện tượng văn chương nổi bật, còn vang dội tới ngày hôm nay, ở khía cạnh tốt đẹp nhất của sự kiện, theo tôi, là sự xuất hiện, ở lại sâu, rộng của tiếng thơ Nguyên Sa. Khi sử dụng hai tính từ “sâu và, rộng,” tôi muốn nhấn mạnh tới khía cạnh quảng đại quần chúng.
Tôi nghiệm thấy, trong môi trường văn học, nghệ thuật của miền Nam 20 năm, có những tác giả được người cùng giới nhìn nhận, đánh giá cao. Nhưng lại là khuôn mặt mờ nhạt, hay xa lạ với đám đông. Ngược lại, cũng có những tác giả được quần chúng đón nhận một cách nồng nhiệt, nhưng lại không được văn giới nhìn nhận, vì thiếu tính văn chương, sáng tạo.
Do đấy, theo tôi, một tác giả chỉ thực sự được gọi là tác giả lớn, khi tác giả ấy có được cả hai yếu tố vừa kể.
Trong số không nhiều, những thi sĩ của miền Nam, hội đủ cả hai yếu tố nêu trên, là nhà thơ Nguyên Sa.
Trước khi đi sâu vào cái mà tôi muốn gọi là “hiện tượng thơ Nguyên Sa,” có lẽ chúng ta nên lược qua bối cảnh của nền văn học, nghệ thuật miền Nam, tính từ điểm mốc Hiệp Ðịnh Geneva, ngày 20 tháng 7 năm 1954.
Hiệp định cắt đôi Việt Nam thành hai phần với hai chính thể hoàn toàn đối nghịch nhau, là đầu mối dẫn đến cuộc di cư của trên 1 triệu đồng bào miền Bắc, vào Nam.
Trước khi có cuộc di cư vĩ đại ấy, xã hội, đời sống, tâm tình của người miền Nam được kể là rất mực hiền hòa, dung dị. Phải chăng, cũng vì đặc tính này mà, sinh hoạt văn học, nghệ thuật miền Nam được coi là tương đối êm đềm. Không dằn xóc.
Tính tới cuối năm 1954, nhìn chung văn chương miền Nam, nhiều tác giả còn mang tính kể chuyện. Thi ca cũng vậy, nhiều nhà thơ vẫn nghiêng nặng trong phạm trù ngâm vịnh, xướng họa, thù tạc. Những tác giả thuộc thành phần này, tương đối xa lạ với quần chúng.
Trước bức tranh toàn cảnh này thì, con số hơn triệu đồng bào di cư từ miền Bắc, ít nhiều, đã khuấy động không chỉ sinh hoạt xã hội mà còn ở tất cả các lãnh vực khác. Trong đó, có sinh hoạt văn học, nghệ thuật nữa. Cùng những tên tuổi đã định hình, có chỗ đứng riêng biệt trong lịch sử thi ca Việt, như Vũ Hoàng Chương, Ðinh Hùng, Bàng Bá Lân, v.v... là lớp cầm bút trẻ cũng lần lượt xuất hiện.
Sự xuất hiện của lớp văn, thi sĩ này (gồm luôn cả những người đã cầm bút mà không nổi tiếng, chưa được ai biết tới), thật đông đảo. Họ như cá gặp nước, hiểu theo nghĩa, sân chơi văn học nghệ thuật của miền Nam giữa thập niên (19)50 là một sân chơi còn trống vắng! Những nhà thơ miền Nam nổi tiếng như Ðông Hồ, Mộng Tuyết Thất Tiểu Muội... vẫn dành nhiều tâm trí cho việc xướng, họa, ngâm vịnh thi ca với các thi hữu của mình. Vì thế, những cây bút trẻ từ miền Bắc vào, hợp với những cây bút trẻ của miền Nam, đã xông vào sân chơi chữ nghĩa, với tất cả hăm hở, tự tin như xông vào chốn không người.
Những thể tài được coi là mới mẻ vào thời điểm đó, như:
-Hướng về miền Bắc.
-Khẳng định sẽ trở về Hà Nội, giải phóng quê hương.
-Phóng lớn những tình cảm biệt ly, ngăn cách Nam-Bắc...
Những thể tài đó, một thời gian được coi là ăn khách tới độ, nhiều cây bút, di cư vào Nam, còn rất trẻ, kỷ niệm sống ở miền Bắc không nhiều... Nhưng thơ, văn của họ, lại nói toàn về Hà Nội. Về tình yêu đổ vỡ. Ðoạn lìa! Thậm chí có những người trẻ không biết một chút gì về Hà Nội, cũng đề cập tới Hà Nội ba mươi sáu phố phường. Hồ Gươm. Hồ Tây. Ðường Cổ Ngư. Ðê Yên Phụ... Như thể Hà Nội là tình yêu thắm thiết nhất đời mình.
Dẫu sao thì sự chia đôi đất nước, khiến cho miền Nam đứt lìa hẳn miền Bắc, cũng đã giúp cho những cây bút trẻ sau này, múa những đường gươm tự do trong một sân chơi văn chương và, thi ca miền Nam hoang vắng. Tôi muốn nói, trước mặt họ, không một bức tường cản, chắn. Không một bóng cây lớn dẫn tới nguy cơ làm cớm đám cây non.
Thế hệ của những người trẻ mới cầm bút, là một thế hệ gần như không đàn anh. Họ cũng chẳng bị ràng buộc, nể trọng hay, kiêng dè tác giả nào. Họ nghĩ, họ đang cống hiến cho văn học miền Nam một dòng thơ độc lập. Không chằng rễ. Không liên hệ gì, với quá khứ.
Những tuyên bố ồn ào, những kêu gọi chôn sống nền văn học cũ, bởi những người viết mới, theo nhau xuất hiện. Như nấm sau mưa.
Tại miền Nam, những ngôi sao bắc đẩu của trời thơ tiền chiến, chỉ mỉm cười. Ngao ngán. Không một ai lên tiếng. Chẳng một ai trả lời. Những Vũ Hoàng Chương, Bàng Bá Lân, Ðinh Hùng... tách lìa khỏi sinh hoạt của lớp người trẻ vừa kể. Sự im lặng của lớp đàn anh từng chiếm giữ những địa vị chói lọi trong dòng thi ca Việt, càng khiến cho nhóm cầm bút mới, thấy họ là những cao thủ không có đối trọng. Niềm tin hay hãnh tiến vô căn cứ, không nền tảng này, đã đưa họ tới những chân trời bất cập. Vấn đề của họ không nằm nơi nỗ lực sáng tạo. Giá trị tự thân của tác phẩm. Mà, là những tuyên ngôn ngông cuồng. Những gào thét mê sảng. Những bắt chước, biểu dương lố bịch, ngớ ngẩn, khôi hài.
Trước sự hỗn loạn, không phương hướng của sinh hoạt văn học, nghệ thuật miền Nam, những năm tháng đầu, sau 1954, người ta ghi nhận được sự có mặt của một vài diễn đàn văn chương đứng đắn - Với chủ tâm làm mới nền văn học miền Nam. Các diễn đàn này hiện ra, như những hứa hẹn đáng tin cậy. Trong số ít oi này, có tạp chí Sáng Tạo.
Sáng Tạo quy tụ được một số trí thức trẻ. Ðứng đầu là Mai Thảo. Những thành viên nòng cốt có Duy Thanh, Trần Thanh Hiệp, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền và Ngọc Dũng. Họ cũng có thêm sự cộng tác ngay tự những số đầu của Nguyễn Văn Trung và, Nguyên Sa, Nguyễn Văn Trung du học ở Bỉ về trước; Nguyên Sa du học ở Pháp, về nước, trễ muộn hơn.
Sau Sáng Tạo, người ta thường kể tới tạp chí Hiện Ðại do nhà thơ Nguyên Sa chủ trương - Có được sự hợp tác chặt chẽ của Thái Thủy, Trịnh Viết Thành, Ðinh Hùng, Nguyễn Văn Trung...
Kế tới là tạp chí Thế Kỷ Hai Mươi của Giáo Sư Nguyễn Khắc Hoạch, tức nhà thơ Trần Hồng Châu và; tạp chí Văn Nghệ do nhà văn Lý Hoàng Phong chủ trương.
Trong bài viết này, tôi xin chỉ đề cập tới tạp chí Sáng Tạo. Như là một trong vài diễn đàn văn chương điển hình, cho giai đoạn ấy.
Nhóm Sáng Tạo với hoa tiêu là nhà văn Mai Thảo, ngay tự bước khởi hành, đã cho thấy rõ quyết tâm làm mới sinh hoạt văn chương miền Nam, từ văn xuôi tới thi ca. Tuy nhiên, ở lãnh vực thi ca, Sáng Tạo có những nỗ lực cụ thể hơn, nếu so sánh với văn xuôi. Ðó là chủ trương khai triển và phát huy phong trào thơ tự do một cách triệt để.
Chính trong bối cảnh này, tiếng thơ Nguyên Sa hiện ra. Tự thân tiếng thơ này đã mang trong nó một lực hút mạnh mẽ. Một từ trường hình ảnh, ý tưởng, ngôn ngữ mới mẻ. Gây chấn động không chỉ giới cầm bút mà, luôn cả độc giả nữa.
Quan niệm về thơ Tự Do của tác giả “Thơ Nguyên Sa.”
Tôi viết “Nhóm Sáng Tạo khai triển và, phát động phong trào thơ Tự Do...” vì không phải đợi tới lúc tạp chí Sáng Tạo ra đời, thơ tự do mới được du nhập vào Việt Nam! Sự thực thơ Tự Do đã được các tác giả thời tiền chiến, cũng như kháng chiến sử dụng, như một phương tiện diễn đạt cảm xúc mới. Sau đó, thơ Tự Do còn được các tác giả như Phan Lạc Tuyên, và Mạc Ly Châu khai thác triệt để. Thậm chí, Mạc Ly Châu còn viết nguyên một tác phẩm bàn về nghệ thuật làm thơ Tự Do. Xa hơn, bắt đầu từ những năm (19)40, một số tác giả Việt du học tại Pháp đã làm quen và, thao tác với thể thơ này. Nhưng vì sự hạn chế của phương tiện truyền thông thời đó, khiến ít người trong nước được biết.
Dẫn đầu cuộc khai phá thể thơ Tự Do ở Pháp, những năm (19)40 có thể kể tới một số tên tuổi quen thuộc như Lê Trạch Lựu, Hoàng Anh Tuấn, Nguyên Sa, v.v...
(Nhiều người chỉ biết Lê Trạch Lựu trong cương vị nhạc sĩ qua ca khúc nổi tiếng, bài “Em Tôi” mà, không hề biết rằng, ông còn là một nhà thơ chuyên làm thơ Tự Do nữa.)
Vì chủ trương đưa thể thơ Tự Do trở thành một hiện tượng hay, một cuộc lột xác mang tính dấu ấn cho giai đoạn của mình, nên những người chủ trương tạp chí Sáng Tạo đã chú trọng nhiều tới việc làm mới thi ca từ hình thức tới nội dung. Nhu cầu làm một cuộc cách mạng quyết liệt, để phân biệt giữa thơ Tự Do và thơ Mới (có vần điệu), đã đem lại cho độc giả nhiều bài thơ tự do khó hiểu. Xa lạ.
Người đọc ở vị trí giới hạn, khiêm tốn, chẳng những không thể lại gần thơ Tự Do mà, còn bị đẩy đi xa hơn vì thế. Sự xa cách đó làm cho những người không thể tiêu hóa nổi thơ tự do của nhóm Sáng Tạo, đã ở lại với thơ cũ một cách thoải mái. Tự nhiên. Những người này cảm thấy thơ Mới vẫn là thơ dành cho họ!
Giữa lúc người đọc cảm thấy choáng váng, ngơ ngác với cảm giác bị xua đuổi khỏi lãnh địa thơ Tự Do của nhóm Sáng Tạo thì, cũng trên Sáng Tạo, một dòng thơ mới xuất hiện. Dòng thơ này, tuy cũng là thơ Tự Do, nhưng lại hàm chứa trong nó nhiều quyến rũ. Dòng thơ ấy, nhanh chóng thắp lên trong cảm nhận của nhiều độc giả niềm tin đối với thơ Tự Do.
Ðó là sự xuất hiện của những bài thơ tự do mang tên Nguyên Sa. Thoạt tiên trên Sáng Tạo. Sau đấy, trên tạp chí Hiện Ðại và, một vài diễn đàn khác.
Sự xuất hiện những bài thơ Tự Do, ký tên Nguyên Sa, vào những năm giữa thập niên (19)50, là một chấn động lớn. Chúng không chỉ gây choáng váng cho người đọc mà, còn là một kích động bất ngờ cho văn giới.
Tính thuyết phục của những bài thơ Tự Do ký tên Nguyên Sa, một mặt nào khác, cũng khiến cho một số những người làm thơ trẻ thời đó, tin tưởng và, ném mình vào cuộc thử thách với thơ Tự Do một cách say sưa, tin tưởng hơn.
Sự kiện này, làm nhiều người nhớ lại rằng, khi phong trào thơ Mới, ra đời vào những năm đầu thập niên (19)30.
Cũng giống như phong trào thơ Tự Do, khởi đầu thơ Mới không gây được niềm tin đáng kể nơi người đọc. Bên cạnh đó, sự khích bác, mỉa mai của những tên tuổi chọn thủy chung với thể thơ Ðường Luật, cũng gây tổn thương, làm chậm đường bay của loại thơ này.
Phải đợi tới lúc những tên tuổi như Thế Lữ, Xuân Diệu, Lưu Trọng Lư rồi Huy Cận v.v... tập trung quanh ngọn cờ Phong Hóa-Ngày Nay của nhóm Tự Lực Văn Ðoàn, hợp cùng những thi sĩ ở ngoài nhóm, như Vũ Hoàng Chương, Hồ Dzếnh, Thâm Tâm, Trần Huyền Trân, Nguyễn Bính, v.v... Thơ Mới lần hồi mới có được cho nó một chỗ đứng xứng đáng.
Nói cách khác, theo một số nhà phân tích văn học thì, ở thời điểm vừa kể, nếu không có những kiện tướng như Vũ Hoàng Chương, Thế Lữ, Hồ Dzếnh, Xuân Diệu, Huy Cận... nhiều người e rằng, không biết tới khi nào, phong trào thơ Mới, mới có được địa vị vững vàng, kéo dài tới ngày hôm nay (?).
Từ thành kiến thơ tự do do nhóm Sáng Tạo cổ võ mà, một số người quá khích, cực đoan, đã dán nhãn cho thể thơ này là “bí hiểm,” “hũ nút!” Hoặc đó là một cuộc “xóc chữ, xin xâm” - Thì, thơ Tự Do của Nguyên Sa và, những bằng hữu của ông, như Thái Thủy, Hoàng Anh Tuấn, Trần Dạ Từ, Nhã Ca,... đã mở ra những chân trời khác. Những chân trời tươi rói nhiều lượng máu canh tân, luân lưu trong cơ thể thi ca Việt Nam trì trệ mấy chục năm.
Ðiểm đầu tiên, nổi bật trong cõi giới thơ Nguyên Sa, về phương diện hình thức là không câu nệ, không trói buộc mình vào một số chữ cố định cho một bài thơ. Một câu thơ có thể chỉ vài chữ, đi liền với những câu thơ hằng chục chữ. Nhưng, cùng lúc, Nguyên Sa cũng không triệt tiêu hoàn toàn phần âm vận, để toàn bộ bài thơ không chỉ như một khung nhà thiếu mái che, chẳng tường vách. Hay, một thân thể không máu, thịt.
Thí dụ bài “Nga,” (một trong những thờ thơ rất nổi tiếng của Nguyên Sa) sáng tác tháng 12 năm 1954 ở Áo, in lại sau đó, để “Thay giấy báo hỷ, in tại Paris ngày 10 tháng 12 năm 1955” trước khi tác giả về nước, 1956.
Về bài thơ vừa kể, sinh thời, nhà văn Mai Thảo viết:
“...Ðó là bài thơ Nga với tiểu đề ‘Thay cho thiệp báo hỷ’, cũng là bài thơ đầu tiên Nguyên Sa làm từ Paris mang về và trao cho chúng tôi. Báo hỷ thiệt. Báo hỷ không chỉ về sắp sống chung hòa bình với một vị hôn thê mà thơ ngộ nghĩnh tả lúc như ‘một con chó ốm’ lúc như ‘một con mèo ngái ngủ.’ Mà còn báo hỷ cho thơ. Rằng thơ vừa có tin vui. Rằng trời thơ Việt vừa có một vì sao mới. Bài thơ Nga, tôi nhớ Thanh Tâm Tuyền rất thích. Ðăng ngay trên tờ Người Việt, tiền thân của tờ Sáng Tạo và là diễn đàn của bọn chúng tôi lúc bấy giờ, với mấy lời giới thiệu trang trọng chào mừng tài thơ Nguyên Sa từ Pháp mới về, bởi vì ‘một dòng máu không chảy ngoài huyết quản.’” (Mai Thảo, Màu Lụa Hà Ðông trong thơ Nguyên Sa, “Nguyên Sa, Tác Giả và Tác Phẩm,” trang 58, 59. Ðời, California, XB năm 1991.)
“Hôm nay Nga buồn như một con chó ốm
“Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
“Ðôi mắt cá ươn sắp sửa se mình
“Ðể anh giận sao chả là nước biển!...
(......)
“Người ta làm thế nào cấm được chúng mình yêu nhau
“nếu anh không có tiền mua nhẫn đeo tay
“Anh sẽ hôn đền em
“Và anh sẽ bảo em soi gương
“Nhìn vết môi anh trên má
“Môi anh tròn lắm cơ
“Tròn hơn cả chữ O
“Tròn hơn cả chiếc nhẫn
“Tròn hơn cả hai chiếc nhẫn đeo tay!...
(......)
“Em sẽ cười phải không em
“Vì không ai cấm được chúng mình yêu nhau!...
“Không ai cấm được anh làm những câu thơ anh thích
“Không ai cấm được anh làm cả bài thơ
“Với chữ N
“Với chữ G
“Với chữ A
“Người ta có thể đọc một câu, hai câu, hay cả ba
“Người ta có thể không thích
“(thì người ta không thích một mình)
“Nhưng người ta không thể cấm được anh yêu bài thơ của anh...”
(Nga, “Thơ Nguyên Sa Toàn Tập,” tr. 63, 64, 66, 67. Ðời, California, XB năm 2000.)
Tác giả “Nga” cũng có một quan niệm rất minh bạch về Thơ Xuôi.
Trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho ba nhà báo là Thượng Sỹ, Phan Kim Thịnh và Vũ Bằng,vào những năm đầu thập niên (19)60, nhà thơ Nguyên Sa nói:
“...Thơ Tự Do cũng như thơ Văn Xuôi, không bó buộc vần và khác hẳn thơ Mới, số lượng câu gieo vần trắc quan trọng bằng vần bằng, mà thơ Mới thì nghiêng về vần bằng nhiều hơn. Số chữ của thơ Tự Do hay thơ Văn Xuôi không cố định, tám chữ, mười hai, hai mươi bốn chữ hay một chữ hai chữ tùy hứng của nhà thơ.
“Thí dụ thơ Văn Xuôi câu nhiều chữ:
“Suốt cả đời người anh đã chờ đợi tin yêu: lửa đến từ những cửa ngỏ cuộc đời đã đốt cháy mười đầu ngón tay bằng những khối nhựa đường nóng bỏng.”
“Về vần, không bó buộc, có khi gần nhau:
“Còn nếu như em không đến? Em không đến, tôi cũng chẳng dám giận hờn em. Em hãy ở lại nhà. Ðóng chặt cửa sổ kẻo mưa hiu hắt. Kéo chăn chùm kín cổ kẻo gió lùa về lạnh như những giấc mơ êm.”
“Hoặc (vần) xa nhau rất nhiều:
“Tôi cũng không phải hỏi rừng để rừng bảo hỏi cây. Cây khuyên hỏi lá. Lá bảo hỏi chim muông. Tôi nhìn quanh tôi những cánh quạ đen cười riễu cợt...” (Sđd. Tr. 49, 50.)
Cũng trong cuộc phỏng vấn đó, trả lời một câu hỏi khác của nhà báo Thượng Sỹ, về “thực chất” và “ưu điểm” của thơ tự do,” Tác giả “Thơ Nguyên Sa” cho biết:
“Không có loại thơ nào ưu điểm hơn loại thơ nào; thơ Lục Bát không ưu điểm hơn thơ Ðường, thơ Ðường không ưu điểm hơn thơ Mới, thơ Mới không ưu điểm hơn thơ Tự Do. Riêng tôi, tới khi nào tôi cảm hứng và thích loại thơ nào thì tôi làm loại thơ đó. Thí dụ cuốn thơ của tôi vừa tái bản (Thơ Nguyên Sa, tập 1,) tôi chia làm ba loại: thơ Mới, thơ Tự Do, thơ Văn Xuôi. Tôi nhắc lại rằng theo tôi, nếu ấn định phải làm thơ theo một số đề tài, hình thức nào tức là mình giáo điều, do đó chính mình làm cho mình tê liệt xúc động. (Sđd. Tr. 51)
Phát biểu này của thi sĩ Nguyên Sa, khiến những người chủ trương “tính độc tôn” của thơ Tự Do, thuở đó, khó chịu!
Tôi không biết lý do gì, nhiều người cho rằng nhà thơ Nguyên Sa không thuộc nhóm Sáng Tạo! Quả quyết này chỉ được giải tỏa khi họ gặp nhà văn Mai Thảo và, nghe chính tác giả “Ðêm giã từ Hà Nội” xác nhận rằng:
“Không. Nguyên Sa có mặt từ những ngày đầu tiên, với anh em Sáng Tạo.”
Những ai có cơ hội đọc “Nguyên Sa, tác giả và tác phẩm,” trong đó có bài viết của Mai Thảo thì không có nghi vấn đó:
“Tờ Người Việt đình bản. Tờ Sáng Tạo thay thế. Vào nghề gõ đầu trẻ, vẫn cái mũ casque trắng, vẫn giáo viên trường làng, vẫn Khái Hưng, Nguyên Sa khác với Hoàng Anh Tuấn, Nguyễn (văn) Trung, Nguyễn Khắc Hoạch không thường xuyên, đã cùng với giao tình thân thiết mau chóng, trở thành người viết chủ lực của Sáng Tạo suốt hai năm đầu của diễn đàn này. Ðó là thời kỳ của những tiểu luận văn học, triết học đầy không khí Sorbone và những bài thơ tự do loạt đầu, làm từ trở về Việt Nam của Nguyên Sa gần như không số nào là không có đăng trên tờ Sáng Tạo...” (Mai Thảo, “Màu Lụa Hà Ðông” trong thơ Nguyên Sa,” Sđd. Tr. 59.)
Mặt khác, trong hồi ký của mình, nhà thơ Nguyên Sa cũng thuật rõ liên hệ giữa ông và, tạp chí Sáng Tạo, ngay khi tạp chí này ở giai đoạn chuẩn bị:
“Trước khi Sáng Tạo chào đời, Mai Thảo và tôi vẫn cùng nhau đi chơi lung tung ở Sài Gòn. Khi Sáng Tạo trong thời kỳ chuẩn bị, tôi nhiệt tình bàn tính với Mai Thảo. Phải ra chứ. Làm chứ sợ gì. Mai Thảo chở tôi trên chiếc xe Austin đi chơi lung tung, tôi lái chiếc xe hào hứng tới rủ Nguyễn Văn Trung về viết cho Sáng Tạo, rủ cả Linh Mục Trần Văn Hiến Minh cùng đi chuyến xe...” (Sđd. Tr. 191.)
Nhưng điều gì đã xẩy ra giữa Nguyên Sa và Sáng Tạo, khiến nhà văn Mai Thảo không che giấu bùi ngùi trước sự kiện tác giả “Thơ Nguyên Sa” chấm dứt cộng tác với Sáng Tạo qua đoạn viết sau đây:
“...Sau hai năm đầu kể từ hồi hương và với tờ Sáng Tạo, Nguyên Sa không còn gần tôi nữa. Con chim đã vùn vụt cất cánh bay tới những phần đất khác. Ðời sống trăm dòng và nhà thơ kiêm giáo sư triết, người giám đốc trường, người chủ nhiệm mới đã ở trên cái trăm dòng nhiều mặt ấy. Khiến chẳng những tôi đã thấy xa còn như thấy mất hẳn Nguyên Sa trước tầm mắt nhiều khoảng thời gian. Ở những khuất mặt này, tấm lòng đôi lúc cũng xa và đã gây nên một vài ngộ nhận đáng tiếc không do nơi tôi và cũng chẳng nên thuật lại làm gì...” (Sđd. Tr. 61, 62.)
Người đứng đầu tạp chí Sáng Tạo đã rất đỗi thành thật khi nói, “ngộ nhận” không do nơi ông. Hơn thế, thoạt đầu, chính ông cũng không biết nguyên nhân sâu xa của điều mà ông gọi là “ngộ nhận.” Một “ngộ nhận” đáng tiếc (rất đáng tiếc), theo tôi.
Sau này, đôi lần, trong chỗ riêng tư, Mai Thảo nói rõ đó là sự “ngộ nhận” giữa Thanh Tâm Tuyền và Nguyên Sa. Hai nhà thơ mà ông từng coi là “hai tiếng thơ xung kích, tiền phong,” trong bài ông viết giới thiệu thi phẩm “Thơ Nguyên Sa, Tập Hai”:
“Trở về nước sau nhiều năm du học ở Âu Châu, bấy giờ là cuối thập niên 50, ông đã cùng với Thanh Tâm Tuyền, dẫu mỗi người từ một vị thế khác biệt, là hai tiếng thơ xung kích, tiền phong vượt qua dòng thơ tiền chiến như một biên thùy cũ của thơ và đưa thơ tới những biên thùy mới. Bằng làm đầy cho thơ một định nghĩa và một chứa đựng mới. Bằng phá vỡ hết mọi ước lệ, mọi câu thúc vẫn còn với dòng thơ tiền chiến...” (Sđd. Tr. 67, 68.)
Nhưng, do đâu mà hai tác giả kia, lại có sự “đối chọi” đáng tiếc ấy?
Muốn hiểu ngọn nguồn, có dễ chúng ta phải đi ngược lại những năm đầu ở giữa thập niên (19)50, khi tác giả “Áo Lụa Hà Ðông” trả lời cuộc phỏng vấn của nhà báo Hồ Nam (1) vào đầu năm 1956 ở Sài Gòn. Nguyên Sa viết:
“...Chúng tôi không có sự xa cách của đối chọi. Dù vậy, có một khoảng cách. Khoảng cách của ngộ nhận. Một trái núi hiểu lầm đã vô tình được dựng lên giữa Nguyên Sa và các bạn văn trong Sáng Tạo, trông thì chỉ như giả sơn, mà vượt qua không được. Hạnh phúc và bất hạnh của tôi trong những ngày tháng đầu tiên về nước, đầu năm 1956 là được Hồ Nam phỏng vấn cho một chương trình văn nghệ gì đó trên đài phát thanh. Từ Paris từ những cuộc thảo luận thâu đêm canh thức, từ không khí hừng hực văn chương và triết học của tả ngạn sông Seine, đúng như Thanh Tâm Tuyền đã viết Nguyên Sa mang về cùng với thơ, không khí tự do mà chúng ta mong nhớ. Nhưng người làm thơ từ Paris trở về là con trừu non trước những câu hỏi cáo già của Hồ Nam. Tôi nói. Hồ Nam hỏi và tôi trả lời. Tôi nói về luật bằng trắc, về vai trò của âm thanh trong thi ca. Tôi không biết dừng lại ở những vấn đề tổng quát, không biết phân biệt việc và người. Tôi không biết tả ngạn sông Seine và Sài Gòn trong văn chương còn phủ những nho phong. Hồ Nam thọc sâu những mũi kích. Tôi nói về thơ Thanh Tâm Tuyền. Tôi nói về những người chỉ trích thơ tự do. Những lời nói trong bối cảnh của một Paris hiện ra bằng hữu, hiện ra trong lương tâm trí thức, trong khuôn khổ văn học miền Nam thời đó được ngắm nhìn như những lời công kích không thân hữu. Tôi không nhận ra ngay những sự nhìn ngắm nghiêm khắc này. Dần dần tôi mới nhận ra. Mai Thảo những lần khác biệt bất ngờ nói với tôi Thanh Tâm Tuyền quý anh lắm. Thanh Tâm Tuyền viết những lời chào mừng Nguyên Sa tuyệt đẹp trên trên tờ tuần báo văn nghệ (Người Việt). Tôi cũng không hiểu rõ vì sao giữa những câu chuyện có những xen kẽ bất ngờ. Không giống như trách cứ. Có một chút vẻ đáng tiếc nuối điều gì. Nguyên Sa đã đi quá xa trong ngôn ngữ? Phải chi không có chuyện đó. Dần dần khuôn mặt vui tươi của Hồ Nam hiện ra rõ nét. Hồ Nam hỏi lại tôi về những câu trả lời. Tôi giữ lấy niềm tin được phát biểu...” (Hồi ký Nguyên Sa, sđd. Tr. 188, 189.)
Thời gian đó, những người tình cờ nghe được cuộc nói chuyện về thơ tự do giữa Hồ Nam và Nguyên Sa trên đài phát thanh cho biết, đại ý, Nguyên Sa cho rằng Thanh Tâm Tuyền không biết làm thơ tự do. “Thơ tự do không phải thế.” Ðã vậy, khi bị Hồ Nam “thọc sâu những mũi kích,” nhà thơ Nguyên Sa thay vì sớm nhận ra cái bẫy sập đã giương ra thì, ông lại xác nhận nhiều lần phát biểu của mình. Như khẳng định trách nhiệm của ông về những gì đã nói. Phần nhà báo Hồ Nam, không ai nghĩ ông có ác ý hay thiên kiến gì. Chẳng qua, do nhậy bén nghề nghiệp, khi gặp được “khối thuốc nổ,” nhà báo lập tức tìm cách nâng sức “tàn phá” lên tới mức cao nhất, có thể có được!
Sự đối chọi hay ngộ nhận giữa hai nhà thơ trên, lẽ ra, rồi cũng sẽ nhạt phai với thời gian. Nhưng tiếc thay, sau đó, trên mặt báo Sáng Tạo, nhà thơ Thanh Tâm Tuyền cho phổ biến một bản lên tiếng, giống như tuyên ngôn của những người làm thơ tự do thuở đó. Rất nhiều nhà thơ, kể cả những tác giả không có mặt trên diễn đàn Sáng Tạo tự những số đầu, họ là những tên tuổi thuộc vòng ngoài, chỉ cộng tác với Sáng Tạo sau này, cũng được nêu tên. Trong khi Nguyên Sa, hiện diện từ thời kỳ chuẩn bị, theo ghi nhận của Mai Thảo, còn là thành phần chủ lực, thì lại không có tên. Sinh thời, nhà thơ Nguyên Sa cho biết:
“Tôi hiểu rằng tôi đã bị anh em gạt ra khỏi Sáng Tạo. Nên, tôi đã lặng lẽ rút lui. Không một lời, ngay cả với Mai Thảo!”
“Ðối chọi” hay “ngộ nhận” giữa hai tác giả này, lên tới “đỉnh điểm” vào năm 1971, xuyên qua sự kiện nhà thơ Trần Dạ Từ được trao tặng giải thưởng Văn Chương Toàn Quốc, bộ môn Thơ, với thi phẩm “Thuở làm thơ yêu em.” Mà cả Nguyên Sa lẫn Thanh Tâm Tuyền cùng trong ban giám khảo.
“Ðối chọi” hay “ngộ nhận” đáng tiếc ấy, trở thành công khai sau đó. Khi nhà báo Lê Phương Chi (2) với một bài viết dài 2 kỳ trên tuần Báo Ðời (của nhà văn Chu Tử,) các số 127 và 128, đề ngày 13 và 20 tháng 4 năm 1972, (và trên Nguyệt san Bách Khoa số 369, đề ngày 15 tháng 5, 1972). Họ Lê tìm hiểu, phỏng vấn cả 5 giám khảo... (3). Qua những phát biểu của các nhân vật trong cuộc, người ta thấy sự đối chọi giữa Thanh Tâm Tuyền và Nguyên Sa, đã trở thành quyết liệt!
Ðể tạm kết, theo ghi nhận riêng của tôi, trong sinh hoạt 20 năm văn học, nghệ thuật miền Nam, còn khá nhiều những “ngộ nhận” đáng tiếc khác. Tuy nhiên, đó không phải là mục tiêu của loạt bài này.
Du Tử Lê
Chú thích:
(1) Nhà báo Hồ Nam hiện cư ngụ tại Sài Gòn.
(2) Nhà báo Lê Phương hiện ở Sài Gòn.
(3) Có thể tìm đọc thêm Nguyễn Ðức (Lập,) tác giả bài “Năm mới chuyện cũ: Giải thưởng văn hóa nghệ thuật toàn quốc năm 1971.” Tạp chí Văn Học (Cali.) Xuân Nhâm Thân, số 70 &71. (Tư liệu của nhà thơ Thành Tôn, Orange County.)
No comments:
Post a Comment