Gần đây, trong tháng 12/2012, văn phòng TW Phật giáo Hòa Hảo đã có văn bản gửi v/p2 GHPGVN cũng như Học viện Phật giáo Việt Nam tại TP.HCM, và trên 40 tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo từ miền Tây Nam bộ cũng trực tiếp đến HVPGVN tại TP.HCM để khiếu kiện một luận văn tốt nghiệp khóa IV của Tăng sinh T.Thiện Huệ qua chủ đề: “Thực chất của Đạo Hòa Hảo” do cố GS Minh Chi hướng dẫn, HT T.Giác Toàn TM Hội Đồng Điều Hành phê duyệt –“ đạt yêu cầu”.
Và cá nhân như ông Nguyễn Châu Lang, tín đồ Phật Giáo Hòa Hảo cũng có văn thư gửi đến các cấp chính quyền liên đới cũng như Học viện Phật giáo VN tại TP HCM, phản đối.
Qua chủ đề, cho phép người đọc hiểu được nội dung và khuynh hướng của tác giả muốn nói gì về PGHH. Càng đi sâu vào luận văn, càng thấy tác giả phê phán gắt gao với nhiều ác cảm chủ quan của tác giả đứng trên lập trường kiến giải thiên lệch. Một lý luận được xây dựng trên một học lý cá biệt để phê phán một giáo phái cá biệt, thế mà Hội đồng điều hành chấp nhận là đạt yêu cầu, kể cũng lạ!
Trong phần dẫn nhập, T.Thiện Huệ nêu lên vị trí địa lý thuận lợi về thổ nhưỡng do sông Mekong đem lại; tác giả thông qua lịch sử khai sơn của chúa Nguyễn Phúc Nguyên khi vùng đất nầy còn tùy thuộc Chân Lạp. Từ cuộc sống thuận lợi tạo cho cư dân có tính tình phóng khoáng cởi mở, thật thà; cọng thêm tín ngưỡng thần linh, chính những điều kiện đó, theo tác giả, người dân đã bị một số người làm chính trị lợi dụng, trong phần dẫn nhập, T. Thiện Huệ viết:
"Vì vậy trong các cuộc kháng chiến chống thực dân và đế quốc, một số người đã lợi dụng niềm tin và sự thiếu hiểu biết của người dân bằng loại tín ngưỡng nầy mà lôi kéo họ vào các hoạt động chính trị dưới hình thức của một tôn giáo, đạo Hòa Hảo là một ví dụ điển hình….”
Ta hãy khách quan nhận xét về những luận điểm chủ quan của tác giả để thấy cái đúng cái sai, cái thật cái giả của một luận văn hướng dẫn Hội đồng điều hành, dẫn dắt cả GS hướng dẫn đi lệc quá xa sự thật về lịch sử của Hòa Hảo, mà Học Viện Phật Giáo cho là luận văn “đạt yêu cầu”.
Phần nội dung: “Đạo Hòa Hảo là một tôn giáo pha tạp”
I- Nguyên Nhân lịch sử:
“Trong lĩnh vực nghiên cứu văn chương, khi tìm hiểu thực nghĩa của một tác phẩm văn học nào đó,ngoài việc tìm hiểu nội dung tác phẩm, chúng ta không thể không nắm vững hoàn cảnh ra đời của tác phẩm đó. Vì sao? Bởi vì đó chính là gợi điểm quan trọng giúp chúng ta hiểu chính xác về ý nghĩa của tác phẩm cũng như tâm tư tình cảm mà tác giả đã gửi trọn trong đó.
Cũng vậy,với tôn giáo, khi nghiên cứu về giá trị tư tưởng của một tôn giáo nào đó với sự hiện sinh của nó, chúng ta không thể chỉ chú trọng vào vấn đề nghiên cứu nội dung giáo lý mà không tìm hiểu hoàn cảnh lịch sử của tôn giáo đó. Biết được hoàn cảnh lịch sử cũng có nghĩa là biết được vì sao tôn giáo ấy xuất hiện, và xuất hiện với mục đích gì. Bằng không, chúng ta sẽ dễ bị ngộ nhận và sẽ đưa đến những kết luận sai lầm trong nghiên cứu. Trường hợp nầy đã từng xẩy ra đối với một số người khi nghiên cứu về đạo giáo Hòa Hảo.”…
Thế thì những tác giả, học giả uyên thâm về tôn giáo, nhất là những tác giả trong viện nghiên cứu tôn giáo của nhà nước và giáo sư hướng dẫn Thiện Huệ - Minh Chi, triết gia Kim Định, Phạm Công Thiện…cũng chưa đúng khi viết về Phật giáo Hòa Hảo – như Thiện Huệ vừa nói.
Tác già viết: “còn với những kẻ quyền uy thế lực, trong tay có đủ binh quyền, đang muốn thực hiện mộng đế vương thì có bao giờ họ nghĩ đến vì sự an sinh cho dân chúng hơn là mộng vàng của họ? Cũng vì tính vị kỷ của những nhà cầm quyền nầy mà các đảng phái thời bấy giờ gần như có sự hoạt động độc lập với nhau; có những đảng phái còn đối lập với nhau về đường hướng chính trị. Sự đối lập nầy cũng có nghĩa là sự tranh giành quyền thống trị quốc gia giữa các nhà cầm quyền của các đảng phái, thực chất chẳng phải họ hoạt động vì nước vì dân.. Do vậy, cuộc đấu tranh lúc nầy không còn nằm trong phạm vi đánh đuổi thực dân xâm lược, mà còn là sự tranh giành quyền trị quốc giữa các ông vua tương lai của đất nước….”
“Đạo Hòa Hảo xuất hiện trong hoàn cảnh nầy lại thêm có sự thành lập quân đội, chúng ta không thể không nói rằng nó không liên quan đến chính trị và sự tranh giành quyền thống trị quốc gia….”
Đây là lối suy diễn hồ đồ của tác giả khi nhìn qua hiện tượng. Thế thì bao nhiêu lực lượng chống ngoại xấm trong lịch sử dân tộc đều là có mưu đồ tranh giành quyền lực, nuôi mộng đế vương???
Trong phần III ĐẠO HÒA HẢO LÀ GÌ? Tác giả phủ nhận những luận cứ của Bạch Diệp và Nguyễn Trung Nghĩa về sự tha hóa của Tăng sĩ thời bấy giờ. Tác giả viết: … “Căn cứ vào lịch sử PGVN, chưa bao giờ chúng ta thấy có một PG bị “lu mờ mất gốc” để bị thay thế bởi một tôn giáo khác, Phật giáo Hòa Hảo. Rất tiếc, thời kỳ mà Bạch Diệp và Nguyễn Trung Nghĩa cho là PG bị lu mờ thì lịch sử lại cho biết Phật giáo đang trong thời kỳ phục hưng, tức từ khoản năm 1930 đến năm 1945.”…
Sao tác giả mâu thuẩn vậy? nếu không có suy thoái thì sao gọi là phục hưng? Ai cũng biết suốt thời Pháp thuộc, đa phần chư Tăng đều lập gia thất để duy trì Tam bảo giữa lòng xã hội có khuynh hướng ngã theo Âu học. Tuổi trẻ thích ăn vận theo mode mới và học chữ quốc ngữ, một thời gian dài thiếu tuổi trẻ kế thừa chốn Thiền môn. Lúc bấy giờ Phật giáo sống với xã hội dân dã bằng ma chay đám tiệc cổ truyển khi mà đa số có khuynh hướng chuộng mới nới cũ. Phần lớn các sư bấy giờ thất học, thiếu kiến thức cập nhật thời đại, chữ nho chữ nôm không còn phổ biến trong xã hội, vì thế, Phật giáo không được coi là một tôn giáo mà là một trong những hội đoàn bằng dụ số 10 lúc mãi đến sau 1966 mới được thoát khỏi. Kể từ năm 1930, mới theo khuynh hướng canh tân Phật giáo của Ấn do ông Rảyendachilala, ông Sarat Chandrodas, Ðại đức Anagarica Dharmapala; các cao Tăng Trung Quốc như Ngài Thái Hư Đại sư, và cư sĩ Dương Nhân Sơn; VN mới có các thiện tri thức như bác sĩ Tâm Minh Lê đình Thám, Thiền sư Khánh Hòa, thiền sư Phước Huệ, thiền sư Thanh Hanh đứng ra hợp tác với một ít bậc chân tu để đào tạo Tăng tài chấn hưng Phật giáo. Từ đó mới có các trường Phật học. Vậy T. Thiện Huệ dẫn chứng cho thấy thời Pháp thuộc, trước 1930, Phật giáo rạng rỡ ở đâu? Có bao nhiều chùa được xây cất và bao nhiêu tu sĩ được xuất gia như ngày nay mà bảo không lu mờ?
Đoạn cuối III, Thiện Huệ viết: “Tuy nhiên, theo chúng tôi, chúng ta không nên dùng danh từ Phật giáo trong Phật giáo Hòa Hảo. Bởi vì, tôn giáo nầy: thứ nhất, nó không phải là một tông phái Phật giáo; thứ hai tư tưởng của nó không mang tính Phật giáo, tức không phù hợp với những lời Phật dạy. Do đó, nếu chúng ta dùng đạo nầy với danh từ Phật giáo ắt hẳn sẽ gây sự ngộ nhận cho nhiều người rằng đây là một tông phái Phật giáo.
“Tuy nhiên, theo chúng tôi”, ngoài Thiện Huệ còn ai nữa mà theo chúng tôi? Cá nhân Thiện Huệ làm luận văn nầy hay cả một tập thể ẩn danh mà xưng là chúng tôi??? Thiện Huệ định nghĩa thế nào là một tông phái Phật giáo? Điều kiện nào để trở thành một tông phái Phật giáo? Một người tin Phật, niệm Phật, hành thiện không đủ để trở thành một tín đồ Phật giáo? Một tập thể có giáo chủ (tông trưởng) có đường hướng sinh hoạt hành thiện, lấy câu niệm Phật làm chủ đích, có nghi lễ, có tổ chức, nguyện vãng Tây Phương…không thể gọi là một hệ phái mang tính Phật giáo, không phù hợp với lời Phật dạy? thế thì có một số tu sĩ xem quẻ, bói toán, phong thủy, bùa thuật…được gọi là Phật giáo? Có những người xem Thiền là cội nguồn của đạo Phật, chê bai Tịnh độ là ngoại giáo, Mật tông bị xem là lệch hướng của đạo Phật, nhưng quá trình tồn tại của các tông phái, chứng minh họ có đủ khả năng giúp hành giả giải thoát phiền trược, sinh thân an lạc và lòng từ vô biên. Từng một thời Bồ Đề Đạt Ma bị Lương Võ Đế xem là tà giáo. Thời gian minh chứng pháp hành chánh hay tà là do đường hướng tu tập của cộng đồng đó có lợi cho xã hội, có ích cho tự thân và có mang màu sắc mê tín hay không, có đem lại an lạc cho hành giả hay không. Không thể lấy vị trí của mình đang đứng mà đánh giá đúng sai với vị trí của người khác. Đó là biên kiến ấu trĩ.
Tịnh Độ cư sĩ lấy tôn chỉ Phước Huệ song tu; Tịnh Độ cư sĩ chuyên về phòng thuốc từ thiện, Phật giáo Hòa Hảo lấy Tứ ân làm cốt, học Phật tu nhân làm chuẩn, mọi mặt từ thiện xã hội song song với việc tu tập, là một trong những Giáo hội được nhà nước chấp nhận cho sinh hoạt hợp pháp, Thiện Huệ bảo Hòa Hảo không phải là tôn giáo, thì nhà nước hợp pháp hóa sinh hoạt là sai lầm sao?
Thiện Huệ bảo tư tưởng của nó không mang tính Phật giáo, tức không phù hợp với lời Phật dạy. Vậy tính Phật giáo là tính gì? Thiện Huệ quên rằng tùy duyên bất biến của Phật giáo? Chính vì tùy duyên mà Phật giáo Đại Thừa tuy đi xa Phật giáo nguyên thủy đến độ bị xem là tà giáo ngoại đạo nhưng đã chuyển tải được tinh thần Phật giáo vào mọi tầng lớp và phát triển quảng bá rộng rãi trên thế giới so với Phật giáo nguyên thủy. Chính tùy duyên mà nhà Trần đã chống ngoại xâm phương Bắc, vì thích ứng với tinh thần Tứ ân mà bao Tăng sĩ cởi ca sa khoác chiến bào để bảo vệ đất nước; suốt 2000 năm, Phật giáo đã cùng dân tộc vinh nhục dưới mọi hình thức, và để bảo tồn mạng mạch Phật pháp, đôi khi Phật giáo phải lấm bùn cùng dân tộc. Chẳng lẽ Phật giáo phải đầu tròn áo vuông, chỉ biết gõ mõ mà bỏ mặc thế sự nhiễu nhương cho dân chúng cam chịu trong thời ngoại thuộc???
Trong phần IV, Thiện Huệ xét về nội dung giáo lý, nói: “Một tôn giáo khi ra đời muốn tồn tại và phát triển được thì tôn giáo đó phải có gía trị của riêng nó”…
Giá trị của riêng nó là giá trị gì? Có tiêu chuẩn nào ấn định về một giá trị cho một tôn giáo hay chỉ là quy ước trong mọi hành xử? Những tôn giáo có mặt tại Việt Nam, có tôn giáo nào hướng dẫn cho quần chúng về nông nghiệp, giáo chủ và chức sắc nào sâu sát quần chúng, đồng cam cộng khổ cùng tín đồ và xã hội hóa về tính tương quan trong mọi sinh hoạt đời thường hầu nâng đỡ nhau. Hiện nay, có tôn giáo nào hàng ngày cung ứng trên 10 ngàn xuất cơm miễn phí cho các bệnh viện khắp các tỉnh thành phía Nam. Đào giếng, xây nhà, bắt cầu cấp phát học bổng, trợ cấp áo quan cho người nghèo, chuyển viện miễn phí bất kể giớ giấc khi có yêu cầu, mở các quán chay từ thiện giúp dân nghèo mà bản thân họ sống đạm bạc, chay lạt nghiêm túc; Tính tương trợ rất cao; chúng ta đã làm được chưa hay chỉ ngồi trong tháp nhà được trang bị một ít kiến thức, nhìn đời qua lăng kính “khiếm thị” rồi cao ngạo phê phán???
… “Xét trên bình diện nầy, Hòa Hảo là một tôn giáo được thành lập cách đây không lâu, lẽ ra trong kế thừa, nó phải có tính sáng tạo, khi có sự ảnh hưởng hay tiếp nối tư tưởng, mà hầu như toàn bộ giáo lý đạo nầy, nói chung, đều là sự vay mượn lẫn lộn,thiếu trung thực, thiếu sáng tạo từ những tư tưởng của các tôn giáo có trước như Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, Bửu Sơn Kỳ Hương, Cao Đài Giáo…Trong đó chỉ có ba hệ thống tư tưởng của Phật, Khổng, Lão là có ảnh hưởng sâu đậm đến sự hình thành giáo lý đạo Hòa Hảo. Cho nên, trên lập trường tư tưởng, tôn giáo nầy hoàn toàn không có chỗ đứng.”…
Thiện Huệ nói như con vẹt, không chịu tìm hiểu mục đích khai đạo của Đức Huỳnh mà cứ phát ngôn bừa bãi. Ngài có bao giờ tuyên bố thành lập tôn giáo mới? Mục đích Ngài chấn hưng lại nền đạo đức cổ truyển, một nền đạo đức đã tha hóa trước sự xâm lăng của văn hóa ngoại lai, lấy đạo Phật làm nền tảng để học Phật từ đó tu sữa nhân cách chứ không phải lấy đạo Phật để sáng tạo ra tôn giáo mới hay lấy Phật giáo để lừa bịp nuôi sống bản thân. Đã không có mục đích sáng lập tôn giáo mới thì sáng tạo làm gì thuộc về lý thuyết trừu tượng viễn vông, trong khi đó Ngài dành thời gian để khuyến nông, giáo dục quần chúng, chữa bệnh giúp đời và chống ngoại xâm một cách thiết thực, chứ không ngồi đó mà phê phán ấu trĩ như Thiện Huệ.
… “Đọc Sấm giảng và thi văn chúng ta thấy hình ảnh đức Di Đà và pháp môn niệm Phật luôn được Huỳnh Phú Sổ đề cập và tán dương, điều đó cho thấy ông rất coi trọng pháp môn nầy, và tín đồ của ông chắc chắn sẽ y đó mà tu”…
Viết như thế mà Thiện Huệ vẫn không thấy mục đích của Đức Huỳnh; Ngài đã chọn pháp môn niệm Phật để tu và dạy bá tánh tu thì Ngài đâu phải lập ra tôn giáo mới. Tịnh độ là bổn môn, làm điểm tựa cho tín đồ tu tập song song việc hành thiện tu nhân thì có gì mà sai phạm?
Thiện Huệ trích một đoạn trong sấm giảng: “Đức Di Đà truyền mở đạo lành/ Bởi vì ngài thương xót chúng sanh/ Ra sắc lệnh bảo ta truyền dạy/ Nên khổ lao khùng không có ngại/ Miễn cho đời hiểu đặng đạo mầu,/ Ai muốn tìm đạo cả cao sâu,/ Thì hãy dẹp tánh tình ích kỷ,/ Mau trở lại đừng theo tà quỷ./ Tham, sân, si chớ để trong lòng/ Phải giữ lòng cho được sạch trong,/ Mới thoát khỏi trong vòng bệnh khổ”.
Rồi phê phán: …”Thế nhưng, khi nhìn thấy hình ảnh đức Phật Di Đà mà Huỳnh Phú Sổ đã diễn tả ở trên,lòng tôi cảm thấy phát sanh sợ hãi, và chắc chắn tôi sẽ không bao giờ dám phát nguyện tu hành để được sanh về thế giới của ngài.
Đức Phật sao lại quá cao xa đầy quyền uy thế lực như một đấng quân vương có thể sai khiến bất kỳ thần dân nào làm gì cũng được? Và hình như Ngài không có sự gần gũi chúng sanh như các vị Phật, Bồ Tát khác? Nên dù có thương xót chúng sanh ngài cũng chỉ “ra sắc lệnh” cho Huỳnh Phú Sổ xuống trần giáo hóa, đặc biệt chỉ là giáo hóa những chúng sanh sống ở miền Nam nước Việt:
“Khùng vâng lệnh Tây phương Phật tổ/ Nên giáo truyền khắp cả Nam kỳ”
Thiện Huệ nói: "Thế nhưng, khi nhìn thấy hình ảnh đức Phật Di Đà mà Huỳnh Phú Sổ đã diễn tả ở trên, lòng tôi cảm thấy phát sanh sợ hãi, và chắc chắn tôi sẽ không bao giờ dám phát nguyện tu hành để được sanh về thế giới của ngài."
Thiện Huệ sợ là phải vì Tham, sân, si còn ở trong lòng, tánh ích kỷ còn chưa dẹp hết, thì làm sao phát nguyện về cỏi Tịnh của Ngài được. Khi Thiện Huệ đọc đoạn thi trên, đầu óc Thiện Huệ đặc cứng sự cố chấp mà quên rằng hình ảnh ẩn dụ của đức Huỳnh khác nào trong kinh Pháp Hoa đầy dẫy sự ẩn dụ để thích ứng với trình độ đương cơ! Và Ngài đã nhân cách hóa hình ảnh đức Di Đà cho phù hợp với tâm lý quần chúng. Rất tiếc những năm học Phật của Thiện Huệ chỉ là con gà mổ cát sỏi, không được tiêu hóa, uổng cơm bá tánh. Thiện Huệ lại nói:
Đức Phật sao lại quá cao xa đầy quyền uy thế lực như một đấng quân vương có thể sai khiến bất kỳ thần dân nào làm gì cũng được? Và hình như Ngài không có sự gần gũi chúng sanh như các vị Phật, Bồ Tát khác? Nên dù có thương xót chúng sanh ngài cũng chỉ “ra sắc lệnh” cho Huỳnh Phú Sổ xuống trần giáo hóa, đặc biệt chỉ là giáo hóa những chúng sanh sống ở miền Nam nước Việt:
Thiện Huệ quên rằng chư Phật quá khứ, Đức Thế tôn hiện tại và Phật Di Lạc vị lai cũng đều là những Bồ Tát bổ xứ. Trong kinh đại thừa, thấp thoáng hình ảnh của chư Phật đều chọn Thiên Trúc làm nơi giáo hóa, thì đức Huỳnh chọn giáo hóa chúng sanh phương Nam nước Việt có gì là lạ theo hạnh nguyện của các Ngài? Phương tiện quyền xảo của chư Phật, chư đại Bồ Tát, chư hiền thánh Tăng, chư Đại minh sư không nhất thiết rập khuôn giống nhau trong lúc giáo hóa. Nhà Phật có ông Thiện, ông ác thì Thiện Huệ thắc mắc như vậy cũng hơi bất bình thường.
Thiện Huệ lại tiếp tục xuyên tạc mạt sát đức Huỳnh:… “Huỳnh Phú Sổ tự cho mình là Thánh nhân từ cỏi nước Lạc Bang xuống đây dạy đạo cũng đồng nghĩa với quỷ ma tự xưng Phật.Do đó, những lời nói của ông không đáng tin cậy.”…thế thì đức Thế tôn cũng từ cung Đâu Suất hạ sanh theo vị thế Bồ tát bổ xứ cũng là quỷ ma tự xưng sao? Thiện Huệ không phân biệt thế nào là tự tánh lưu xuất và vọng tánh tự xưng. Chẳng lẽ sau 49 năm giáo hóa, đức Phật bảo ta không nói lời nào là vọng ngữ hay sao? Đã là Thánh nhân thì bất cứ lời nào cũng đều đúng. Đã là phàm Tăng dù áo mão chỉnh chu, bằng cấp đầy người, tướng mạo đoan trang, cắn hạt cơm không bể, nói lời trí thức chưa hẳn đã là đạo đức.
Trong một đoạn Thiện Huệ trích: … “Dù Tiên, Phàm, ma, quỷ, súc sanh – cứ nhất tâm, tín, nguyện, phụng hành – được cứu cánh về nơi an dưỡng. – chỉ một kiếp Tây phương hồi hướng. – thoát mê đồ dứt cuộc luân hồi. Thiện Huệ lại phê phán: “Huỳnh Phú Sổ đã quên hết tất cả, quên hết những nhân duyên quả báo của từng loại hình chúng sanh đang sống nơi đây. Ông cho rằng”dù Tiên,phàm,Ma, quỷ, súc sanh” đều có thể tu hành sanh về Lạc quốc….”Điều đó chứng tỏ Huỳnh Phú Sổ là người thích nói: nói như vẹt, nói không suy nghĩ, không căn cứ không cơ sở đã tạo nên những lầm lỗi không thể dung thứ mà ông không hề hay biết".
Nói như Thiện Huệ thì nhân duyên quả báo của chúng sanh chưa trả dứt sao vãng sanh Tây Phương cực Lạc theo tông môn Tịnh độ? Thiện Huệ vẫn còn nhớ kinh Pháp Hoa phẩm “Hóa Thành dụ” phẩm “phương tiện” phẩm “Thí dụ”…làm gì có thành thật, làm gì có ba thừa, làm gì có xe hưu, xe dê…chẳng lẽ những ẩn dụ phương tiện đều là sai? Cái sai của Thiện Huệ dùng trí phân biệt của phàm tục phê phán vô phân biệt trí của Thánh nhân rồi phán một cách ngạo mạn là không thể dung thứ.
Trong phần b. Tư tưởng Thiền Tông của số IV nói về Nội dung giáo lý, Thiện Huệ viết: “Với Huỳnh Phú Sổ, người tu sĩ phải là người không cần đến hình thức, không chú trọng đến đầu tóc, không cạo đầu cũng vẫn là người tu”tu đầu tóc không cần phải cạo”.Câu nói nầy thoạt đầu mới nghe, chúng ta cứ ngỡ ông là một Thiền sư uyên thâm đạo hạnh, đã vượt thoát được mọi lãnh vực thuộc phạm trù hình thức. Nhưng xét cho cùng, đó lại là một câu nói công kích phỉ báng táo tợn. Nếu bảo người tu không cần phải cạo bỏ râu tóc cũng có nghĩa là bảo họ để tóc.”
Đức Huỳnh đang dạy đạo lý tu nhân làm người cho tín đồ tại gia lúc bấy giờ chứ không phải Ngài đang giảng đạo cho tu sĩ Thiện Huệ; chẳng lẽ Ngài bảo mọi người đều cạo đầu làm Tăng thì ai sản xuất, để cúng dường người xuất gia? Khuyên người tu tại gia không cần phải cạo tóc chẳng lẽ là sái quấy, sao bảo là công kích phỉ báng táo tợn? Thiện Huệ ưa suy bụng ta ra bụng Thánh nên chột dạ khi bị chạm nọc thế thôi. Thiện Huệ kết án đức Huỳnh giống “sứ Giả sự thực” kết án cô Hương Nhũ cũng vấn đề “tu đầu tóc không cần phải cạo” hôm giảng cho giới trẻ ở ngoài Bắc vào tháng 11/2012 vừa rồi, tác giả bị thiên hạ tát nước bẩn vào mặt mà không có lời tự biện. Thiện Huệ nầy trình độ cũng chỉ đến thế thôi. Trong Thiền môn chúng ta không thiếu các Thiền sư để tóc, Bồ Đề Đạt Ma, Lai Quả Thiền sư, Tuệ Trung thượng sĩ, thậm chí Ngài Duy Ma Cật….Mục đích Thiện Huệ nêu ra để nhục mạ chứ không phải không hiều vấn đề nầy. Thiện Huệ lý luận ấu trĩ: “Nếu bảo người tu không cần phải cạo bỏ râu tóc cũng có nghĩa là bảo họ để tóc.”…nói như Thiện Huệ thì: - “không nên xem cải lương có nghĩa buộc họ phải xem phim hề”? bảo Thiện Huệ không nên nói bừa có nghĩa bảo Thiện Huệ câm? thế thì Thiện Huệ lại vướng vào lý luận nhị nguyên, chưa thoát ra vòng đối đãi mà lại công kích phê phán lời dạy phương tiện cho quần chúng còn mê đắm trong vòng đối đãi.
Cũng trong mục phê phán tư tưởng Thiền tông, khi Thiện Huệ so sánh tinh thần trách nhiệm với giang san xã tắc của các thiền sư đời Lý Trần, Đinh Lê và Đức Huỳnh: … “Các Thiền sư chủ trương, trong lúc phụng sự dân tộc, thực hành nghĩa vụ và trách nhiệm của mình đối với đất nước, người tu sĩ vẫn giữ vững đạo tâm, không để “một lần phôi pha”. Nhưng với Huỳnh Phú Sổ thì lại khác, ông cho rằng, khi có giặc, người tu sĩ liền”rứt áo cà sa khoác chiến bào”, cho đến khi nào “ngọn cờ độc lập phất phơ cao” thì coi như đã làm tròn trách nhiệm của người trai. Lúc đó, người tu sĩ mới có thể an tâm trở lại đời sống tu hành như trước: “Thiền môn trở gót Phật Đà Nam Mô”.
Trình độ Thiện Huệ thế nào mà không hiểu nỗi chữ “đạo tâm” và “hành trạng tu tập” khác nhau? Đạo tâm thì lúc nào không có, nhưng ngồi một chỗ công phu bái sám sao được khi đất nước còn loạn lạc? Chẳng qua vạch lá tìm sâu do tâm địa nhỏ nhen đố kỵ của Thiệh Huệ mà có thôi.
Luận về giáo lý, Thiện Huệ dùng luận lý sơ đẳng để đối lập với bình đẳng tánh khi đức Huỳnh hướng dẫn quần chúng về thập thiện. Đồng ý trong cặp đối đãi nhị nguyên, không làm ác chưa hẳn đã làm thiện, nhưng ác là mặt trái của thiện, ánh sáng là mặt trái của bóng đêm, khi ánh sáng đến thì bóng đêm tự diệt. bóng tối lui thì ánh sáng tự hiển lộ. Khi không còn niệm ác thì tâm thiện tự hiển lộ, sẽ tự hướng dẫn mọi hành động đều làm thiện; Trình độ sơ cơ khuyến thiện tránh ác, nhưng vượt khỏi đối đãi thì thiện ác cũng chỉ là một. Ông Thiện ông ác trong chùa cũng chỉ là một vị Bồ Tát thị hiện cho thích ứng với từng căn cơ chúng sanh. Thiện Huệ dùng cái vòng lẫn quẩn của trẻ con:’cắc ké là mẹ kỳ nhông, kỳ nhông là ông kỳ đà, kỳ đà là cha cắc ké”…để phản bác hết sức vô duyên.
Thiện Huệ phê phán Đức Huỳnh ảnh hưởng tinh thần Nho gia và Đạo giáo, không riêng đức Huỳnh mà giòng máu tộc Việt ít nhiều ảnh hưởng nguồn gốc đó, vì thế cổ nhân mới bảo:”Tam giáo quy nguyên”. Ngay cả một số chùa, kiến trúc không tránh khỏi ảnh hưởng văn hóa Tàu, trên nóc chùa, cột chùa, cổng tam quan thường có cặp rồng hoặc Long Lân quy phụng, lưỡng long tranh châu, thậm chí trong chùa còn thờ Thần tài thổ địa, Quan Công; Tụng niệm khấn nguyện vẫn xài theo văn Tàu…Thế thì Đức Huỳnh dạy dân pha màu Nho gia, Đạo học song hành với Phật lý có gì là sai? Người dân cũng ảnh hưởng sấm trạng trình nên đức Huỳnh dạy dân cũng phải thích nghi tập tục đó. Ngày nay, khoa học phổ biến, người dân tại các quốc gia phát triển còn tin vào ngày Tận thế thì thử hỏi dân ta vào thế kỷ 19 trở về trước sao tránh khỏi ảnh hưởng nền văn hóa nô dịch ngàn năm của Tàu? Trong những ngày của tháng 12 năm 2012, một vài giảng sư của Phật giáo ở miền Tây Nam bộ, cũng vin vào tin Tận thế mà suy diễn lung tung trong ba ngày đen tối, ác thú trùng độc giết hại con người gây hoang mang sợ sệt cho người nhẹ dạ, như thế đâu thể kết án những gì đức Huỳnh dạy cách đây gần 80 năm! Các minh sư, Thánh nhân không thể phủ nhận tập tục văn hóa đương thời mà luôn nương vào đó để dạy dỗ dân chúng. Đức Phật cũng không thể phủ nhận lễ tục của các ngoại đạo đương thời, Ngài vận dụng trí huệ để hướng dẫn lễ “lục phương” có ý nghĩa đạo đức hơn là mê tín. Đức Huỳnh Phú Sổ cũng không vượt ngoài quy luật đó khi nói đến tiền định, thiên mệnh và vẽ ra viễn cảnh bồng lai như một “hóa thành dụ” trong kinh Pháp Hoa vậy..
Đức Huỳnh nói theo tinh thần nhà Phật, cuộc đời là bể khổ, là bức bách nên cần phải tu tinh tấn, như thế có gì gọi là đe dọa???
c- Về giáo lý. Thiện Huệ chỉ trích trong Bát Chánh Đạo, chỉ có chánh Tinh tấn là đúng. Nhưng trong cuốn “Tiểu sử và giáo lý của Đức Huỳnh Phú Sổ” thì đức thầy viết là “ chánh tin-tấn” vì thế Ngài giải thích: -“Tín ngưỡng chơn chánh và lướt tới”. Nếu viết là chánh tinh tấn thì ngài giải thích như thế không ổn. Suốt tập luận văn, Thiện Huệ phê bình hai chữ nầy là đúng. Nếu là "Tin-Tấn” thì Thiện Huệ đả kích sai.
Trong mục V Nghi Thức, 1- cách thờ phượng, Đức huỳnh y theo tinh thần Phật giáo, không nặng về hình tướng quá nhiều, nên không chủ trương thờ tượng cốt, chỉ biểu tượng màu dà là màu tổng hợp các màu. “Màu của y hoại sắc, biểu trưng cho sự thoát tục, và sự hòa hợp của nhân loại” thì Thiện Huệ bảo là không đúng, vì chỉ cho sự hòa hợp của chư Tăng, còn hai ngôi nữa thế nào; Thiện Huệ chỉ hiểu chư Tăng là sự hòa hợp, vì thế màu dà biểu tượng cho sự hòa hợp thì Thiện Huệ chỉ có khả năng hiểu đến Tăng bảo mà thôi. Chúng ta thông cảm cho trình độ của Thiện Huệ chỉ có đến thế.
Trong phần phê phán chỉ trích – bài nguyện trước bàn thờ Thông Thiên. Thiện Huệ viết: “Một điều đáng lưu ý nữa là trên bàn thờ Tam bảo, Huỳnh Phú Sổ không cho phép người tín đồ thờ thêm bất cứ vị thần nào ngoài tấm “trần dà”tượng trưng cho Tam bảo. Thế nhưng, khi cầu nguyện, các vị thần ở “năm non Bảy núi” lần lượt xuất hiện tại đây.Vì thế, trong vấn đề thờ phượng và cầu nguyện. chúng ta thấy, lời dạy của Huỳnh Phú Sổ không mang tính đồng nhất với nhau.” Vậy thì các chùa cũng không đồng nhất với việc chỉ thờ Tam Tôn hoặc Tam thế trong khi lạy ngũ bách danh, Tam thiên thì sao??? Có lẽ Thiện Huệ đang cơn mê sản, thấy lọ mặt người mà không thấy mặt lọ chính mình.
Phần VI. Những lời khuyên của Huỳnh Phú Sổ đối với các tín đồ Hòa Hảo.
Qua 8 điều khuyến của đức Huỳnh Phú Sổ đối với tín đồ:
(1) Ta không nên uống rượu, cờ bạc, á phiện, chơi bời theo đàn điếm, phải giữ cho tròn luân lý tam cang ngũ thường.
(2) Ta không nên lười biếng, phải cần kiệm, sốt sắng, lo làm ăn và lo tu hiền chơn chất, chẳng nên gây gổ lẫn nhau, hãy tha thứ tội lỗi cho nhau trong khi nóng giận.
(3) Ta không nên ăn xài chưng dọn cho thái quá và lợi dụng tiền tài mà đánh quên nhân nghĩa và đạo lý, đừng ích kỷ và xu nịnh kẻ giàu sang, phụ người nghèo khó.
(4) Ta chẳng nên kêu Trời, Phật, Thần Thánh mà sai hay nguyền rủa vì thần thánh không can phạm đến ta.
(5) Ta không nên ăn thịt trâu, chó ,bò, vì không nên sát sanh hại vật mà cúng Thần Thánh nào, vì Thần Thánh không bao giờ dùng hối lộ mà tha tội cho ta, vì nếu ta ;làm tội sẽ hưởng tội, còn những hạng ăn đồ cúng kiến mà làm hết bệnh là tà Thần; nếu ta cúng kie61nma4i thì chúng ăn quen sẽ nhiễu hại ta.
(6) Ta không nên đốt giấy tiền vàng bạc, giấy quần áo mà tốn tiền vô lý, vì cỏi Diêm Vương không bao giờ ăn hối lộ của ta, mà cũng không xài được nữa, phải để tiền lãng phí ấy mà trợ cứu cho người lỡ đường, đói rách, tàn tật.
(7) Đứng trước mọi việc chi về sự đời hay đạo đức, ta phải suy xét cho minh lý, rồi sẽ phá đoán việc ấy.
(8) Tóm tắt, ta phải thương yêu lẫn nhau như con một cha, dìu dắt nhau vào con đường đạo đức, nếu ai giữ đặng trọn lành trọn sáng về nơi cõi Tây Phu7ngh an dưỡng mà học Đạo cho hoàn toàn đặng trở lại cứu vớt chúng sanh.
Thiện Huệ viết: “không giống như các tôn giáo khác, đạo Hòa Hảo không có các điều luật hay giới điều nhằm răn cấm những việc là sai trái của người tín đồ đối với đạo mà chỉ có những lời khuyên mang giá trị đạo đức học thức dụng mà thôi.”
Như đã nói, nếu Hòa Hảo chỉ là một hệ phái như bao hệ phái của Phật giáo thì cần gì sáng chế thêm những giới cấm mà nhà Phật đã có. Những lời khuyên đủ nói lên tính tôn trọng và nhắc nhở mà không thể hiện tính chuyên quyền độc đoán bắt buộc tín đồ phải theo. Nhà Phật cũng thế, không bắt buộc ai phải chấp hành, giới luật tự mình nguyện giữ mà không hề có sự tra vấn, trừng phạt.Tại sao Thiện Huệ lại kết án: …”Chúng ta nên biết, trên đây chỉ là những lời khuyên chứ không phải là những lời răn cấm, do đó, nó không có giá trị bắt buộc đối với người tín đồ”…
Vậy theo Thiện Huệ những lởi đe dọa cấm đoán mới có giá trị, còn lời khuyên là vô nghĩa? Trẻ con hoặc kẻ vô ý thức mới dùng sự cấm đoán đe dọa, người có ý thức chỉ cần khuyên nhủ cũng đủ nói lên giá trị giữa người khuyên và người tiếp nhận lời khuyên. Một tín đồ mà xem lời khuyên của giáo chủ không có giá trị thì Thiện Huệ cũng xem giới luật tự nguyện của nhà Phật không có giá trị, thảo nào không thiếu những vị xé rào phạm giới! Trong 250 giới Tỳ kheo cũng như 5 giới tại gia của nhà Phật là điều bắt buộc hay tự nguyện của một giới tử? Phật giáo chưa bắt buộc ai một vấn đề nào, tại sao Thiện Huệ lại bắt buộc Phật giáo Hòa Hảo phải có cấm giới mà không nên khuyên bảo??? Tôn giáo nào, tổ chức nào cũng có kẻ phạm luật, không vì những hiện tượng tiêu cực đó mà kết tội cho chủ trương của một tổ chức, một tôn giáo. Thế mà Thiện Huệ viêt: … “Chẳng hạn,trong điều thứ 5, Huỷnh Phú Sổ dạy: “không nên sát sanh hại vật…” thế mà người tín đồ Hòa Hảo khi sát nhân lại không hề bị kết án…”Vậy có những tín đồ Phật giáo cũng như một vài Tu sĩ phạm giới, trong Phật giáo có ai kết án họ ngoài họ tự sám hối? Đọc những đoạn của Thiện Huệ, có cảm giác Thiện Huệ đang ở cảnh giới nào đó.
VII Các hình thức tu tập; Thiện Huệ viết: “Theo tôi,”học Phật” là phải tu theo Phật, còn muốn “tu nhân” thì phải học nhân cách làm người. Nếu học Phật mà không hành theo Phật thì chúng ta “học Phật” để làm gì? Chẳng lẽ để tìm những sơ hở của các ông thầy tu Phật giáo mà soi mói, bắt bẻ họ? Sự thật “học Phật” và “tu nhân” là 2 vấn đề khác biệt, chúng ta không thể gán ghép chúng lại thành một. “học Phật” là chúng ta học những gì Đức Phật Thích Ca đã dạy, tức học đạo giải thoát; còn “tu nhân” là làm theo những lời dạy của Khổng tử, tức thiên về những gì thuộc lĩnh vực đạo đức học thế nhân”.
Có lẽ Thiện Huệ nên học lại giáo lý cơ bản của các trường Phật học cấp quận huyện trước khi nói chuyện với Phật giáo Hòa Hảo. Trình độ học Phật của Thiện Huệ còn thua quá xa một người thanh niên mới 20 tuổi đã đủ khả năng quy tập hàng triệu tín đồ với những đạo lý uyên thâm mà chưa hề qua tường lớp như Thiện Huệ. Trước khi dẫn chứng tính uyên thâm của đức Huỳnh, xin tiếp tục nói với Thiện Huệ về “học Phật” và “tu nhân”. Trong giáo điển nhà Phật có ngũ thừa, một cư sĩ tại gia ai cũng phải biết, thế mà Thiện Huệ cố tình không biết;
Ngũ thừa gồm có: Tam quy ngũ giới là căn bản của nhân thừa, Thập thiện là căn bản Thiên thừa, Tứ đế là căn bản của Thanh văn thừa, 12 nhân duyên là pháp tu của Duyên giác thừa, và lục độ vạn hạnh là quy trình của Bồ Tát đạo..
Như vậy tu nhân đâu chỉ có ở Khổng giáo? Theo như Thiện Huệ thì Phật giáo chỉ có tu thành Phật, còn những căn cơ không tương thích thì bị Phật giáo loại bỏ??? Giáo lý đạo Phật nghèo nàn nông cạn đến thế sao Thiện Huệ? Phải chăng Thiện Huệ đã bôi bác giáo lý đạo Phật lẫn giáo lý Phật giáo Hòa Hảo trước những tôn giáo khác? Thiện Huệ bảo học Phật là phải tu theo Phật? đúng là gà què ăn quẩn cối xay,Thiện Huệ chỉ biết giáo lý Phật giáo trong những trang sách sơ đẳng. Có lẽ Thiện Huệ khi vào Học Viện Vạn Hạnh chưa qua các lớp cơ bản Phật học. Ai bảo học Phật là phải tu theo Phật? Các học giả, các nhà nghiên cứu tôn giáo kể cả các tôn giáo bạn khi học hỏi giáo lý nhà Phật bắt buộc họ phải tu theo Phật? Bằng không thì chụp mũ họ là học để biết mà tìm những sơ hở của các ông thầy tu Phật giáo mà soi mói bắt bẻ họ? Vàng thật đâu sợ lửa, mình tu đúng đắn, đừng lừa dối tín đồ để hưởng thụ sa đọa thì sợ ai soi mói bắt bẻ phải không Thiện Huệ? Khi kết luận “tu nhân”, Thiện Huệ phán một câu nghe rợn tóc gáy: … “Còn ”tu nhân” cũng chỉ là tư tưởng của sự tranh giành quyền trị quốc được che đậy bởi hình thức “học Phật”. Vậy “nhân thừa” của việc “học Phật” cũng là hình thức “tu nhân” để tranh giành quyền trị quốc ? nói đến đây, có lẽ Thiện Huệ sẽ chứng minh cho lời nói của mình là đúng khi dẫn chứng các triều đại Đinh Lê Lý Trần, nhất là Lý Công Uẩn được sư Vạn Hạnh bố trí vào cương vị trị quốc an dân?
Phải chăng Thiện Huệ nhục mạ tu nhân của Phật giáo nói chung và kết tội hàng cư sĩ của Phật giáo Hòa Hảo nói riêng?
Chương II
Đạo Hòa Hảo có phải là một tôn giáo không?
Thiện Huệ đồng ý về cách định nghĩa và giá trị về người xuất gia lẫn tại gia của đức Huỳnh, thế nhưng, Thiện Huệ cố tình không hiểu khi kết án đức Huỳnh qua đoạn “Sấm giảng khuyên người đời tu niệm”, mà Thiện Huệ bảo rằng: “Ông cho rằng, các nhà sư chỉ có được lớp vỏ hình thức trang nghiêm bên ngoài nhưng thực chất toàn là lũ “ác Tăng”, chẳng tốt đẹp chi cả: “Thầy chùa như thể cây sơn,/ Ngoài da coi chắc trong thời mối ăn./ Buồn thay cho lũ ác Tăng./ Làm điều dối thế cho hư đạo mầu./ Di Đà Phật tổ thêm rầu,Giận trong Tăng chúng sao lừa dối dân.”
Có lẽ Thiện Huệ tự kỷ ám thị về những hành vi bất tịnh của chính mình nên khi đọc đoạn trên như đĩa gặp phải vôi, la toán lên: “Nói một câu ngắn gọn, Huỳnh Phú Sổ đã coi toàn thể các nhà sư là những người xấu ác, những người chỉ tốt được lớp vỏ bên ngoài mà bên trong đã bị thối nát, bị “mối ăn”.
Xin thưa với Thiện Huệ, nên hiểu là “thầy Tu” và “thầy chùa” là hai thực chất khác nhau. Thầy tu là bậc chuyên tu chân chánh, còn thầy chùa vào thời điểm đó là những thầy tụng ma chay đám tiệc, có vợ con, ăn thịt uống rượu để giữ chùa khi chưa có kế thế xuất gia…Đức Huỳnh có gọi là “thầy tu” đâu nào? Vả lại chắc gì cộng đồng tu sĩ hiện nay đều là thánh thiện huống nữa vào thời loạn ly sao tránh khỏi ô tạp? Nếu mình chân chánh thì sợ gì bị biếm nhẽ. Hãy tự xét mình hơn là kết tội kẻ khác. Thiện Huệ cũng đã đọc những đoạn đức Huỳnh ca ngợi các bậc xuất gia cơ mà. Đức Huỳnh tự thân đã tôn kính Tam Bảo, khuyên tín đồ kính lễ Tam bảo trong đó có các bậc chân tu: “Gồm tất cả đại chúng, tất cả thiện nam tín nữ chưa đủ những điều kiện xuất gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non sông tổ quốc, với gia đình, với đồng bào xã hội, nên chưa thể làm như các nhà Sư, Ni Cô đặng.Tuy vậy,họ cũng sẵn sàng hoan nghinh ca tụng lý tưởng từ bi bác ái đại đồng của nhà Phật và luật nhân quả do Phật thuyết ra. Thế nên, ở tại nhà họ phượng thờ Đức Phật phát nguyện quy y, giữ gìn ít nhiều giới luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh răn lòng, ủng hộ các Sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải thoát.”
Như vậy đức Huỳnh ám chỉ những kẻ mang hình thức tu sĩ mà không giữ đúng Tăng phong đạo cách làm hoen ố Tam bảo, “lũ ác Tăng” ám chỉ những thành phần dối đời gạt đạo mà thôi. Và thử đặt vấn đề, tại sao họ bảo mình là ác Tăng? Không lửa làm sao có khói. Cộng đồng chân tu thì ai dám mạt sát, kể cả ngoại đạo? Thiện Huệ hãy bình tĩnh xem lại chính mình.
Trong đoạn 5 của luận văn phê phán Tu theo tinh thần Bát Nhã, Thiện Huệ viết: “Nếu Huỳnh Phú Sổ không có được chút hiều biết gì về ý nghĩa của từ “vô vi” thì làm sao ông ta có thể với tới được những thâm ý ẩn tàng trong tư tưởng Bát Nhã. Có lẽ ông ta đã học lóm đâu đó được một vài chữ “có-không” trong tư tưởng Bát Nhã rồi ngốc nghếch nói theo, còn tự cho mình là một nhà thông thái, có hiểu biết sâu rộng về tư tưởng nầy: “Đạo Thích Ca nhiều nẻo cao sâu,/ Hãy tìm kiếm cái không mới có”
Vâng, thưa ông Thiện Huệ, Đức Huỳnh không được cái may mắn ăn học như ông nên không hiều hết ý nghĩa chữ “vô vi” và “có –không”; ông cho rằng Đức Huỳnh là nhà thông thái của một đám người dốt nát, nhưng Ngài đã là giáo chủ của hàng triệu người dốt nát đó, còn ông, tự nhận lả thông thái, có ăn học qua trường lớp, ông đã nói được mấy người nghe hay chỉ là kẻ viết vu vơ để bao nhiêu giới trí thức phỉ nhổ? Không những ông mạt sát Đức Huỳnh là dốt nát mà mạt sát hàng triệu tín đồ Hòa Hảo, người dân Nam bộ đều dốt nát, vậy ông có khôn ngoan của người có ăn học chăng? Thiện Huệ kết luận về nhà thông thái của đám dốt nát đó: “Xét cho cùng, Huỳnh Phú Sổ vẫn là một nhà thông thái của một đám người dốt nát đang tôn xưng ông là giáo chủ, một giáo chủ kiêu căng, khoác lác, hay lòe đời bằng một mớ kiến thức rơm rac do học lóm mà được, một giáo chủ luôn tạo những mâu thuẩn trong lời dạy của mình, vậy mà có ai hay biết gì đâu, vẫn cho đó là những khuôn vàng thước ngọc cần phải noi theo.”
Hình như trên thế giới, chưa ai dám công khai mạt sát phỉ nhổ giáo chủ của bất cứ tôn giáo nào bằng những lời lẽ hạ cấp, kiến thức nông cạn như Thiện Huệ. Thiện Huệ xứng đáng lãnh một quả báo theo luật nhân-quả.
Phần II của chương II trong luận văn Thiện Huệ: Đạo Hòa Hảo không phải là một Tông Phái Phật giáo. Thiện Huệ khẳng định như đinh đóng cột khi dẫn chứng mẫu đối thoại sau đây, trong bài viết "Đức giáo chủ và công đức truyền giáo” do Hoài Dân thuật lại:
“Một hôm có hai người khách đến hỏi Huỳnh Phú Sổ rằng “Kính xin thầy cho chúng tôi biết Thầy tu theo đạo nào?”
Huỳnh Phú Sổ đáp: “ Tôi tu theo đạo Phật”
Hai người khách hỏi tiếp:” Thầy thọ giáo với ai và học những kinh nào trong Tam Tạng kinh điển?”
Huỳnh Phú Sổ đáp: “Tôi không thọ giáo với ai cũng không học kinh luật nào hết”
Thiện Huệ luận bàn: "Theo truyền thống Phật giáo, Nam truyền cũng như Bắc truyền, mọi người Phật tử dù xuất gia hay cư sĩ tại gia, tất cả đều có ít nhất một người thầy dẫn dắt tiến tu trên con đường đạo Pháp….”
Thiện Huệ nói đúng với cái đúng của kẻ phàm phu, nhưng trong Phật giáo cũng từng đề cập đến “vô sư trí”, Thiện Huệ quên rồi sao? Những Thần đồng của thế tục có học ai đâu mà vẫn thông tuệ? Hình như Thiện Huệ học nhiều quá hóa lú lẫn! Trong cuộc sống luôn có những cái vượt ngoài khuôn thước bình thường, trường hợp nầy, nếu ở lãnh vực trí tuệ gọi là “vô sư trí”, ở lãnh vực chuyên môn gọi là Thần đồng. Thiện Huệ tiếp: “Học giáo lý, chúng ta đã biết, theo sự quyền ký của Phật Thích Ca thì sau thời kỳ giáo pháp của Ngài duy chỉ có một vị Phật ra đời, đó là Phật Di Lạc. Hơn nữa, thời kỳ nầy vẫn chưa phải là thời kỳ mà giáo pháp của đức Phật Thích Ca đã tận diệt, và cũng chẳng phải lúc Phật Di Lặc ra đời thì không thể nào lại có thêm một ông Phật khác xuất hiện. Cho nên ta biết chắc, Huỳnh Phú Sổ không phải là một vị Phật, và cũng chẳng phải là một Phật tử chân chính quyết tâm đi trên con đường giải thoát giác ngộ.
Trong đoạn vấn đáp, Ngài tự nhận là tu theo Phật chứ Ngài có bảo mình là Phật đâu mà Thiện Huệ dông dài đính chính giữa Phật Thích Ca và Phật Di Lặc là không có Phật nào xuất hiện nữa? Bảo đức Huỳnh không phải là một Phật tử chân chính? Xin Thiện Huệ định nghĩa rõ thế nào là Phật tử chân chính? Tối ngày đi chùa lễ bái, tụng niệm là chân chính? Dạy dỗ quần sanh, hướng dẫn nếp sống đạo đức, tu niệm trai lạt, tưởng kính Tam Bảo, tri ân tiền bối, báo đáp “tứ ân”, chữa bệnh giúp đời, xả thân bảo vệ tổ quốc…là không chân chính??? Nếu đức Huỳnh không phải Phật tử chân chính thì chắc hẳn Thiện Huệ phải chân chính? Một người tu chuyên vạch lá tìm sâu, công kích mạt sát giáo chủ khác là chân chính? Mạt sát toàn bộ Phật giáo Hòa Hảo dốt nát là chân chính???
Ngay cả “trị bệnh độ đời “ của đức Huỳnh cũng bị Thiện Huệ phủ nhận giá trị tâm linh: “Do đó, xét ở góc độ của người thầy thuốc thì Huỳnh Phú Sổ cũng không phải là một người lương y đúng nghĩa theo tinh thần Phật giáo” mặc dù đó cũng chỉ là phương tiện để dẫn dắt họ đến với đạo (thuyết pháp độ đời): “Ngài nói về sắc diện, tính tình và tương lai của người đối thoại để gần cuối câu chuyện Ngài khuyên làm lành lánh dữ và nên tin Phật, xem kinh” Thiện Huệ bảo: “Thật ra, đây không phải là nghệ thuật thuyết pháp đúng đắn của một nhà truyền giáo, nói đúng hơn Huỳnh Phú Sổ đã lợi dụng phương pháp toán số đánh thẳng vào tâm lý của những người nhẹ dạ yếu lòng bằng những lời nói phù phiếm để tìm cách lôi kéo họ vào tôn giáo của ông”. Thiện Huệ có lẽ quên lịch sử truyền giáo của chư Tổ trong những hoàn cảnh khó khăn cũng phải linh động uyển chuyển, Tất cả những phương tiện không hại ai mà dẫn dắt họ đến với đạo đều là chính đáng. Trong số tu sĩ Phật giáo hiện nay, không thiếu nhũng vị xem quẻ bói toán giúp cho thân chủ an tâm hướng vào đạo. Cúng sao giải hạn cũng không phải của Phật giáo, tại sao vẫn tồn tại mà Thiện Huệ không lên án??? Vậy theo Thiện Huệ, phương tiện nào là chánh đáng để truyền pháp? Hình như Thiện Huê được sinh ra trong ống nghiệm nên hiểu mọi vấn đề thế gian theo một mô hình cố định, trong khi nhà Phật bảo “Thế gian pháp tức Phật Pháp”, và “Phật Pháp là bất định Pháp”, tức là tùy đối cơ và khế lý khế thời mà dụng pháp.
IV Những thực tính phi tôn giáo luôn tồn tại và được phát huy mạnh mẽ trong đạo Hòa Hảo. (đây là để mục trong luận văn của Thiện Huệ):
“Chúng ta đã biết, tôn giáo là chỗ dựa tinh thần cho tất cả mọi người, do đó nó phải thể hiện được thực tính của nó. Nghĩa là nó phải có được tính đạo đức, tính tích cực,, tính thiêng liêng, tính vị nhân sinh…điều quan trọng hơn hết là trong tôn giáo không thể có tính chiến đấu, tính chính trị,…và mục tiêu hướng tới của tôn giáo ắt phải vì hòa bình và hạnh phúc của muôn dân.
Xét lại thực tính của đạo Hòa Hảo, ta thấy,đạo giáo nầy tự cho mình là một tôn giáo, có khi còn xưng là một tông phái của Phật giáo, thế nhưng, những hoạt động của nó lại không mang tính tôn giáo, mà thiên về tính chiến đấu, tính chính trị nhiều hơn; suy cho cùng, tất cả những hoạt động nầy đều là chủ trương là đường hướng, là tôn chỉ do Huỳnh Phú Sổ đề ra ngay từ lúc đạo giáo nầy mới được thành lập”.
Thiện Huệ nói để mà nói với những học sinh, những tín đồ ngây thơ; những ai có trí thức hiểu biết thì những lời nầy nghịch nhĩ khó nghe. Vậy Thiện Huệ hiểu thế nào câu: “đi với Phật mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy”? Giữa lúc nước nhà nghiêng ngữa vì ngoại xâm mà ngồi đó chỉ để giảng đạo, nhắm mắt mơ vể cực lạc??? Nếu trong Phật giáo không có tính chiến đấu làm sao bảo vệ dân tộc hòa bình suốt mấy thế kỷ khi đẩy được ngoại xâm ra khỏi biên cương? Nếu không có tính chính trị thì các đời vua Đinh Lê Lý Trần xây dựng đất nước thế nào??? Và không có yếu tố chiến đấu lẫn chính trị thì lấy gì đạt mục tiêu vì hòa bình và hạnh phúc của muôn dân.?
“Tất cả những hoạt động nầy đều là chủ trương là đường hướng, là tôn chỉ do Huỳnh Phú Sổ đề ra ngay từ lúc đạo giáo nầy mới được thành lập”… Không thấy Thiện Huệ dẫn chứng chương nào, sách nào về chủ trương nầy từ lúc đầu, nhưng Thiện Huệ đã dẫn chứng trong sách “Sấm giảng Thi văn Giáo Lý toàn bộ” thì mãi 6 năm sau khai đạo, năm 1944 mới ra đời Việt Nam Nghĩa Sĩ đảng chứ không phải chủ trương nầy có từ lúc đạo giáo nầy mới thành lập.
Chính vì những yếu tố trên với tinh thần nhập thế đầy trách nhiệm để tương thích với tình thế đương thời mà Phật Giáo Hoà Hảo cần có những lực lượng đối kháng bảo vể chủ quyền dân tộc. Một số nhà sư không đủ năng lực tập hợp quần chúng thì tự mình tham gia các tổ chức lúc bấy giờ. Như thế có gì là sai với tinh thần và trách nhiệm của Đạo Phật???
Thiện Huệ viết: “Sự thành lập của đảng phái chính trị”: khi số tín đồ Hòa Hảo ngày một đông, Huỳnh Phú Sổ bắt đầu nghĩ đến ý đồ xưng vương, xứng bá bằng cách thành lập các đảng phái Hòa Hảo, tham gia vào các hoạt động chính trị".
Ta nghe đức Huỳnh tuyên bố, trang 515 “Sấm giảng thi văn giáo lý –toàn bộ” với báo “Quần chúng” vào năm 1946 : … “Tôi, một đệ tử trung thành của đạo Phật, một chiến sĩ trì chí của phong trào giải phóng dân tộc Việt Nam, sẵn sàng cùng đoàn thể mình cương quyết đứng dậy đáp lại tiếng gọi của non sống, cương quyết tranh đấu bảo vệ quyền lợi chung cho nòi giống”…
Thế mà Thiện Huệ quy kết: “Các tổ chức nầy, ngay buổi đầu thành lập, chỉ có ý nghĩa duy nhất là đánh đuổi kẻ thù xâm lược, tuy nhiên, bên trong, Huỳnh Phú Sổ vẫn âm thầm nuôi mộng đế vương. Do đó, càng về sau, khi lực lượng quân đội Hòa Hảo càng đủ mạnh thì Huỳnh Phú Sổ cũng không còn ngần ngại tiết lộ mộng vàng bằng việc lập nên kế hoạch kiến quốc nhằm xây dựng một nền quốc gia độc lập cho tương lai”.
Ta nghe đức Huỳnh nói với báo “quần chúng” lúc bấy giờ:
“Hôm nay, nhận rõ cuộc đấu tranh cho Tổ Quốc còn dài và cần nhiều nỗ lực, hưởng ứng với tiếng gọi đại đoàn kết của chính phủ Trung Ương, tôi quyết định tham gia hành chánh với những mục đích nầy:
1.- Để tỏ cho quốc dân và chính phủ thấy rằng chúng tôi chủ trương thống nhất lãnh thổ và độc lập quốc gia.
2.- Để biểu dương tinh thần đoàn kết của dân tộc hầu mau đem thắng lợi cuối cùng.
3.- Để tỏ cho các đảng phái thấy rằng chúng tôi không khi nào có những tham vọng cao sang vương bá hay vì hiềm riêng mà hờ hững với phận sự cứu nước.”…
Chính Thiện Huệ quy kết Hòa Hảo là phi tôn giáo nên Thiện Huệ viết trong phần 2.6 Binh bị rằng: “Cho nên Hòa Hảo lúc nầy đã không còn là một tôn giáo nữa, nói đúng hơn, nó là một đảng phái mang hình thức tôn giáo để hoạt động chính trị. Chính hình thức hoạt động nầy đã tạo nên bản tính hung hăng và tàn bạo của những tín đồ Hòa Hảo. Bản tính nầy, càng về sau, nó càng được phát huy mạnh mẽ, và các tín đồ Hòa Hảo càng trở nên cuồng tín hơn nhất là sau ngày Huỳnh Phú Sổ biệt tích…Cho nên đạo Hòa Hảo dù ở thời điểm nào nó vẫn là một quân đội tôn giáo, tức không phải là một tôn giáo thật sự.”
Bản chất sân si, tự ái, trong tâm ai cũng có hạt giống tiềm ẩn, do công phu tu tập nhiều ít mà phát khởi ít nhiều. Một Hòa Thượng bị gọi nhầm là Thượng Tọa, thế là sân si lộ diện. Một thầy tu bị dân gọi là chú hay anh, trong lòng cảm thấy phiền não. Không thiếu những chú Tiểu bị thầy đánh lúc nổi sân mà phải bỏ chùa ra đi…thế thì, trong một tổ chức mang tính thế tục, không tránh khỏi những phần tử hiếu chiến. Ta nghe Đức Huỳnh trả lời cuộc phỏng vấn của ông Hồn Quyên: trang 517 Sấm Giảng Thi Văn Giáo Lý toàn bộ…
“Vấn: Ông có thể cho chúng tôi biết về tổ chức quân sự và hành chánh trong đoàn thể của ông chăng?
Đáp: …Về hành chánh chúng tôi không có tổ chức nào riêng biệt. Chỉ có những tổ chức để ủng hộ cuộc kháng chiến trong các làng mạc. Hiện thời chúng tôi đã ra chỉ dụ cho các tổ chức ấy phải xem xét chương trình tổ chức chung của chính phủ để sáp nhập vào các cơ quan chánh thức của chánh phủ.
Vấn: Chúng tôi nghe nói hình như ở Hậu Giang còn vài cuộc rắc rối do tín đồ ông gây ra. Có phải vậy không?
Đáp: Từ trước tới nay, tôi đã nghe rất nhiều lời phê bình của một số đồng bào về những hành động vô ý thức của một nhóm tín đồ tôi. Hôm nay, nhân dịp gặp ông, tôi xin thanh minh và đính chánh về những lời đồn đãi đó.Tôi quả quyết với ông rằng: Tất cả tín đồ có học thức và những người hiểu biết được rõ ràng một vài phần trong giáo lý chơn chánh của Đạo Phật thì trong thời đã qua họ đã thiệt hành được lời dạy của Đức Phật là lấy lòng nhơn hậu mà đối đãi với sự thù oán, mặc dù trong đó họ bị đau khổ nhiều.
Còn riêng về những cuộc xô xát vừa qua là do sự phẩn uất của một nhóm võ sĩ mà tôi đã kết nạp vào hàng ngũ Bảo An Đội…
Hiện nay, nếu quả thật như lời ông nói, còn một vài cuộc rắc rối là do những bọn bất lương, mà trong tất cả thời loạn nào cũng có”.
Thiện Huệ cũng phê phán về tinh thần hội “Long Hoa, đời Thượng Nguơn trong giáo lý Hòa Hảo cho là viễn vông, lừa gạt quần chúng ít học và kết luận: … “Theo chúng tôi, sở dĩ Huỳnh Phú Sổ mượn hình thức tôn giáo để hoạt động chính trị là có hai nguyên do: thứ nhất, vì tôn giáo là nơi tín ngưỡng của mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, và cũng là nơi chính quyền thực dân không dám xâm phạm, do đó, hình thức tôn giáo đối với ông ta là nơi hoạt động an toàn nhất; thứ hai, chính vì tôn giáo là nơi tín ngưỡng của mọi người dân nên ông sẽ dễ dàng huy động được hiều người vào những hoạt động chính trị của ông, nhất là với tầng lớp nông dân ít học.Vì vậy, đạo giáo nầy, cũng được gọi là đạo giáo của những người ít học.
Hội Long Hoa là tinh thần Phật giáo, Thượng Nguơn xuất phát từ Trung Hoa. Dân chúng Việt Nam ảnh hưởng sâu đậm Nho-Thích- lão, vì thế, đức Huỳnh cũng phải tùy thuận căn cơ mà dùng phương tiện để dẫn dắt tín đồ. Ngay cả Phật giáo Việt Nam đã trên 2000 năm mà kinh điển, chú nguyện ngày nay vẫn chưa thóat hẳn ảnh hưởng Trung Hoa thì đừng trách các đây gần một thế kỷ.
Kết: Không thể đi sâu từng chi tiết mà Thiện Huệ đã viết, vừa mất thời gian, vừa không cần thiết đối với những lý sự cùn của Thiện Huệ. Vì Thiện Huệ cứ bảo Hòa Hảo không là một Tôn giáo mà thực chất đức Huỳnh chưa hề tuyên bố như thế, Ngài luôn tự nhận là một tín đồ trung thành của Đạo Phật. Bất cứ ai cũng có quyền chọn cho mình một tín ngưỡng song song với những hoạt động xã hội; không thể bắt buộc khi có tín ngưỡng là phải thuần túy tín ngưỡng, không có quyền tham gia hoạt động bất cứ một tổ chức xã hội nào. Vào thời đất nước nhiễu nhương ngoại thuộc, tinh thần đức Huỳnh như thế, vừa khuyến nông, chữa bệnh giúp dân, vừa chấn chỉnh tín ngưỡng đạo đức bị suy thoái, và có tinh thần yêu nước, biết xả thân… của một thanh niên còn trẻ, chấp nhận đưa lực lượng của mình tham gia hòa nhập vào chính phủ Việt Minh, vì quyền lợi dân tộc; Những biến cố xẩy ra ngoài ý muốn là do những thành phần bất hảo, cuồng nhiệt, nông nổi tạo nên, mà bất cứ tổ chức nào cũng có; mấy chục triệu dân thời bấy giờ, ai đã làm được như đức Huỳnh?
Mình chỉ biết phê phán chỉ trích mà chưa làm được gì cho Đạo huống nữa cho đất nước mà còn khuấy đục lòng hận thù trong khi đất nước hòa bình, tất cả các tôn giáo được nhà nước kêu gọi đoàn kết. Hòa Hảo cho dù là một hệ phái của Phật giáo vẫn được nhà nước công nhận. Tuy vẫn sinh hoạt song song với những tôn giáo có mặt hiện nay, nhưng đặc biệt Hòa Hảo là một tín ngưỡng nội sinh. Phát xuất từ tinh thần yêu Đạo, yêu nước từ những nông dân Nam Bộ. Nếu không khích lệ những ưu điểm trong quá khứ, và hiện tại cộng đồng Hòa Hảo đóng góp rất nhiều cho xã hội vế mặt từ thiện, thi hãy tôn trọng sự hiện hữu của một cộng đồng dân tộc; Đừng đòi hỏi họ phải có mầu sắc thuần túy như của mình, nếu vậy thì Hòa Hào không còn là Hòa Hảo mà đôi khi còn tệ hơn Thiện Huệ hiện nay.
Minh Mẫn (24/12/2012)
* Chữ xanh là nguyên văn trong luận văn của tăng sinh Thích Thiện Huệ. Chữ đen là phê bình của tác giả Minh Mẫn.
No comments:
Post a Comment