Thursday, December 27, 2012

ĐÀI LOAN VÀ CỘI NGUỒN BÁCH VIỆT


Năm 2000, một sự kiện lịch sử xảy ra ở ven bờ Thái Bình Dương. Sự kiện đó không phải là Thế vận hội 2000 ở Sydney mà thế giới chú ý đến trong vài tuần, mà là một diễn biến ít người để ý đến. Một sự kiện sẽ có ảnh hưởng lâu dài đến chính trị và có thể làm thay đổi cách nhìn với thế giới bên ngoài của nhiều nước trong vùng. Sự kiện đó là kết quả bầu cử ở hòn đảo Đài Loan nhỏ bé.  ứng cử viên Trần Thuỷ Biển (Chen Shui-bian) của đảng Dân chủ Tiến bộ (Democratic Progressive Party) đã thắng Quốc dân đảng và trở thành tổng thống Đài Loan, một sự thay đổi chính quyền không đổ máu, không bạo động lần đầu tiên trong lịch sử mấy ngàn năm của Trung Quốc. Lịch sử của Trung Quốc ?. Thực ra trong tâm của vị tân tổng thống thì hướng đi của chính sách mà ông đã theo đuổi từ nhiều năm trước, mà đại đa số dân đã đồng ý, thì hòn đảo này với dân số hơn 20 triệu sẽ không còn là bộ phận của Trung Quốc nữa. Nó sẽ là một quốc gia khác đứng ngoài quỹ đạo của dân tộc Trung Hoa, nó không còn dính gì trực tiếp đến Trung Quốc hay lịch sử Trung Quốc nữa, cũng như Hoa Kỳ hơn 200 trăm năm trước đây đã cắt rìa khỏi nước Anh để tạo riêng vận mệnh lịch sử của mình.

Phản ứng của Trung Quốc thật dữ dội và giận dữ, báo chí Trung Quốc dùng những lời lẽ nặng nề chưa từng thấy với một cá nhân, không kém những từ ngữ dùng trong cách mạng văn hoá với các kẻ thù giai cấp và đế quốc xưa kia trong thập niên 1960. Mấy tuần trước ngày bầu cư, hải quân Trung Quốc đã tập trận bắn tên lữa ở eo biển Đài Loan. Trên đất liền, Trung quốc dàn tên lữa hướng về Đài Loan đe dọa tinh thần dân chúng, đặt áp lực với chủ ý sẽ làm cử tri run sợ chiến tranh mà phảI bầu cho ứng cử viên Quốc dân đảng !. Oái ăm thay, Quốc dân đảng là kẻ thù trước đây của đảng cộng sản Trung Quốc. Lúc này thì cả hai lại cùng chính sách, cùng quan điểm rút từ một nền tảng tư tưởng trung ương tập quyền Đại Hán truyền thống lâu đời.

Điều gì đã gây ra sự cố động đất như vậy ?. Ngoài sự kiện ông Trần Thuỷ Biển (Chen Shui-bian) là một người Đài Loan bản sứ chính cống, không phải từ lục địa đi đến khi Quốc dân đảng thua bỏ chạy sang, thì tư tưởng và hoài bảo của ông, đại diện cho hoài bảo của đa số người Đài Loan bản sứ, chính là điều mà Trung Quốc sợ hải hơn hết. Thật sự thì không phải mà đột nhiên có sự tự phát, xuất hiện một tư tưởng tự chủ như vậy, mà nó đã có một lịch sử khá lâu dài. Tư tưởng ấy đã bị đè nén, thay thế bởi một tư tưởng khác từ bên ngoài ép đặt trên văn hoá, tư tưởng của dân tộc Đài Loan trong nhiều năm qua.

Tôi đặc biệt chú ý đến lịch sử Đài Loan và hoài bảo của người dân khi tôi viếng Đài Loan trong một dịp dự hội nghị Khoa học về môi trường khí quyển ở thành phố Đaì Trung (Taitung), do hai Viện Hàn lâm khoa học Đài Loan và Hàn lâm Khoa học Úc tổ chức vào tháng 6/2000. Trước đây tôi chỉ có để ý và nghiên cứu chút ít về người bản sứ thổ dân sống ở Đaì Loan trước khi người Hoa từ lục địa di dân sang.

Bài này có mục đích tìm hiểu những diễn biến về sự thay đổi trong xã hội, văn hoá và tư tưởng của người dân Đài Loan trong vòng 20 năm nay. Nó gợi lại trong lịch sử và trong tiềm thức của người Việt những gì tương tự mà dân tộc Việt Nam đã trãi qua cách đây hơn 1,000 năm.

(1) Cách mạng văn hoá hay tuyên ngôn độc lập?

Buổi lễ nhậm chức tổng thống ngày 20/5/200 ở Đài Bắc được tổ chức trong vườn sân trước các bậc thềm của dinh Tổng thống, một kiến trúc thời Minh Trị xây trước đây làm dinh cho viên toàn quyền của Nhật khi họ còn cai  trị Đài Loan. Dinh này cũng biểu trưng quyền lực của  Quốc dân đảng trong bao năm trước đây  khi họ nắm quyền hơn nữa thế kỷ. Những sự kiện xảy ra ở buổi lễ mang đầy những biểu tượng đáng kể, mà một nhà nghiên cứu ở Viện Xã hội học, thuộc Hàn lâm Trung hoa (Academia Sinica) ở Đài bắc đã viết lại như sau trên diễn đàn điện tử thảo luận về Đông Nam Á (Southeast Asia Discussion List, SEASIA-L) (1).

Buổi lễ bắt đầu 9:50 sáng, mọi người quan khách trong và ngoài nước tưởng sẽ nghe bài quốc ca Cộng hoà Trung quốc (Republic of China) đầu tiên, nhưng tất cả đều ngạc nhiên khi một nhóm nhạc sĩ thổ dân của bộ lạc Bunum bản sứ (thuộc tộc Austronesian) đứng lên hát bài ca dân tộc truyền thống “Báo tin vui”. Sau đó là các phần trình diễn của các bộ lạc bản sứ Austronesian khác ,tiếp theo là bài hát dân ca của người Hakka (Hẹ hay Khách trú) và dân ca người Holo. Chỉ khi tổng thống Trần Thuỷ Biển và phó tổng thống bà Annette Lu bước ra từ dinh Tổng thống thì bài quốc ca mới được hát sau cùng. Người hát quốc ca không khác hơn là cô ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan (và Trung quốc) Chang Hui-mei, gốc người thổ dân bộ lạc Puyma. Cô có nhiều thính giả không những ở Đài Loan mà còn rất được ái mộ ở Trung quốc lục địa. Trước kia không bao giờ có sự có mặt của văn hoá địa phương trong những nghi lễ trịnh trọng. Nay thì ngay cả bài quốc ca cũng xuống hàng thứ yếu. Sự phá vỡ nghi thức này rất có ý nghĩa. Nó có chủ đích cho thấy là chính phủ mới từ đây về sau sẽ theo đuổi chính sách đứng trên quan điểm của người địa phương (Hoklo, Hakka, Austronesian) chứ không như chính phủ Quốc dân đảng trước kia đứng trên quan điểm trọng Hán.

Hiểu được hậu ý của chính phủ Trần Thuỷ Biển, Trung quốc đã giận dữ, ngay cả Amei cũng không thoát khỏi sự tức giận ấy. Sau khi cô tham dự và hát bài quốc ca Đài Loan (Cộng hòa Trung quốc) ở lễ nhậm chức của tổng thống Trần Thuỷ Biển , chính phủ Trung quốc ra lệnh tẩy chay Amei, đài truyền hình, truyền thanh từ ngày đó không được trình chiếu, phát hành các bài hát của ca sĩ Amei. Báo chí cấm đề cập đến cô, ngay cả các biểu ngữ quảng cáo không được đăng các hình ảnh ca sĩ Amei. Ở Bắc Kinh và Thượng Hải, hình Amei trên các bảng quảng cáo nước ngọt Sprite của công ty Coca-Cola đã bị bôi xoá đi. Tuy vậy các đĩa CD của cô, người ta vẫn còn có thể tìm thấy được ở một số các cửa hàng nếu chịu khó truy lùng. Wu Bai, một ca sĩ nam nổi tiếng ở Đài Loan và Trung quốc, cũng chịu chung một số phận, khi ông hát và ủng hộ Trần Thuỷ Biển.

Bài diễn văn của Trần Thuỷ Biển rất ít đề cập đến sự quan hệ với Trung quốc (một vấn đề thời sự nóng bỏng lúc đó), mà hầu hết là về lịch sử và văn hoá Đài Loan, về cải tổ chính trị và chính sách đối nội. Trần Thuỷ Biển nói đến Đài Loan 40 lần, Cộng hoà Trung quốc (ROC) 9 lần, Trung quốc chỉ 1 lần nhưng Formosa (tên cũ của đảo Đài Loan) 2 lần và 4 lần nhấn mạnh nói lớn “Đài Loan đứng lên !”.

Đài Loan thực sự đã đứng dậy về văn hoá và chính trị. Trần Thủy Biển nêu lên những sự áp bức, xâm lược bởi đế quốc mà cả hai dân chúng ở Trung quốc và Đài Loan đã là nạn nhân chịu dựng trong thế kỷ 20. Thật sự Đài Loan còn khổ sở nặng hơn dưới chế độ thực dân Nhật. Những kinh nghiệm lịch sử tương tự như thế đáng ra đã mang lại sự thông cảm và hiểu nhau giữa hai dân tộc ở hai bên của eo biển Đài Loan, và từ đó đặt nền tảng cho sự theo đuổi thiết lập tự do, dân chủ và nhân quyền cùng với nhau. Tuy nhiên, do sự phân ly lâu dài trong lịch sử, hai vùng đã phát triển theo hai hướng khác nhau đi đến sự khác biệt tột độ về nhiều phương diện từ hệ thống chính trị đến văn hoá và phong cách sống. Điều này đã cản trở sự thông cảm và thiết lập tình hữu nghị giữa hai nước.

Bài diễn văn này là một tuyên bố chính trị quan trọng. Ông phân biệt rõ sự khác biệt giữa lịch sử Trung quốc và lịch sử Đài Loan. Đài Loan đã trãi qua thời kỳ bị Nhật đô hộ lâu dài và đã có lịch sử riêng chứ không phải chỉ có lịch sử mới đây tách ra khỏi Trung quốc bắt đầu từ 1949, với nhãn quan của người Hán đặt trọng tâm vào cuộc nội chiến quốc-cộng. Ông nói là cách đây 400 năm, Đài Loan được gọi là Formosa, hòn đảo xinh đẹp, nay Đài Loan còn là một hòn đảo có một nền dân chủ trưởng thành và thanh tao. Ông cho rằng lịch sử Đài Loan tiếp diễn cách đây 400 năm từ di sản của thổ dân Austronesian, cư dân đầu tiên, chứ không phải xuất phát từ 5,000 năm của lịch sử Trung quốc. Ông là vị Tổng thống Đài Loan đầu tiên đã đặt trọng tâm của vũ trụ quan vào lịch sử đảo và vào di sản Austronesian.

Ông đặc biệt nói về văn hoá địa phương, các tổ chức của cộng đồng, phi chính phủ đã được thành lập để phát triển, bảo tồn lịch sử, văn hoá ở mọi địa phương, làng xã. Tất cả đó là một phần của văn hoá Đài Loan. Đài Loan là một xã hội đa văn hoá, trong đó mọi người dân mở rộng chấp nhận sự đa dạng và giao lưu với nhau giữa các người Austronesian, Hoklo, Hakka và người Hoa ở lục địa sang. Ông nói về văn hoá Hoa kiều và đặt cộng đồng người Hoa ở Đài Loan giống như cộng đồng người Hoa trên thế giới như ở Singapore, Sydney hay San Francisco trong môi trường đa văn hoá, chứ không phải người Hoa giữa dân số của một nước Trung quốc thống nhất.

Ông nhấn mạnh đến cuộc sống “văn hoá” thường ngày của người dân bình thường và nóI về bản thân ông xuất thân là con của một tá điền trong một gia đình nghèo và đã vươn lên để trở thành tổng thống của một nước được tín nhiệm của dân Formosa, những người con của Đài Loan như ông.

Tinh thần từ bài diễn văn giống như tinh thần của một bản tuyên bố độc lập hơn là của một bài diễn văn nhậm chức bình thường.

(2) Các dân tộc ở Đài Loan

Vì đâu mà ông Trần Thuỷ Biển đã “tuyên bố độc lập” như vậy?. Bài ông nói đã phản ảnh được những gì sâu sa xảy ra trong tư tưởng ở xã hội Đài Loan trong nhiều năm vừa qua ở nhiều lãnh vực.
 
Một hiện tượng xã hội đáng chú ý gần đây là một số vấn đề nghiên cứu trong phạm vi khoa học có liên hệ đến các dân tộc ở Đài Loan đã lan ra khỏi phạm vi hạn hẹp và trở thành một đề tài nóng bỏng trong xã hội mà trước đây ít có thể xảy ra.

Giáo sư Lâm Mã Lý, nhà di truyền học ở bệnh viện Mckay Memorial ở Đài Bắc, đã bỏ ra nhiều năm nghiên cứu về nguồn gốc di truyền của các bộ tộc thổ dân sống lâu đời từ thời tiền sử ở Đài Loan. Một đề tài hầu như lúc đó không ai ở Đài Loan để ý Sau khi công bố kết quả nghiên cứu trên tạp chí khoa học vào năm 2000 (2), bà đã nhận được rất nhiều thư, điện thư từ các người “Đài Loan” không phải thổ dân (Mân Nam và Hakka) muốn tìm hiểu thêm về nguồn gốc của họ, họ không cho rằng họ có nguồn gốc từ người Hán. Giáo sư Lâm Mã Lý từ đó chuyển trọng tâm nghiên cứu của bà sang người Minnam (Mân Nam) và Hakka.

Sau hơn một năm nghiên cứu di truyền trên hệ thống miễn nhiễm (Human Leucocyte Antigen, HLA) ở nhiễm sắc thể 6 (chromosome 6) qua máu của các dân Mân Nam (Hoklo), Hakka và các mẫu máu từ nhiều nước kết hợp được trong tổ hoạt động quốc tế về HLA (International Histocompatibility Workshop) ở Nhật năm 1998, giáo sư Lâm Mã Lý đã công bố kết quả (3) về sự liên hệ và khoảng cách của các nhóm dân trên sơ đồ cây di truyền. Kết quả cho thấy người Mân Nam và Hakka rất gần với người Việt, Thái và các dân thuộc chủng mongoloid Nam Á, khác sa với người Hán thuộc chủng mongoloid Bắc Á. Giáo sư Lâm Mã Lý cho rằng người “Đài Loan” thuộc dân tộc Mân Việt (Min Yueh) chứ không phải dân tộc Hán, mặc dù đã có sự pha trộn trong lịch sử với người Hán di cư từ phương Bắc.

Trong cuộc phỏng vấn trên báo Taipei Times (Đài Bắc thời báo) (4), có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà đã gây chú ý và bàn luận rất nhiều là vì nó đã thách thức chủ nghĩa Hán trung tâm cho rằng người Hán và văn minh Hán Hoa là cội nguồn của tất cả mà ra, và do đó đã rơi vào cuộc tranh luận chính trị về sự thống nhất với Trung quốc. Bà trả lời là bà cũng biết trước là kết quả nghiên cứu di truyền sẽ khơi động sự bàn luận tranh cãi, nhưng bà cũng nói rằng kết luận của nghiên cứu cũng không phải là gì mới lạ vì trước đây hai nhà nhân chủng học nổi tiếng đã công bố lâu rồi về dân tộc và văn minh của người Mân Việt, Hakka và Bách Việt. Kết quả của bà chỉ chứng minh một cách khoa học thêm mà thôi. Cả hai công trình nghiên cứu này đã được biết từ lâu trước khi có chủ đề bàn luận về thống nhất hay độc lập ở Đài Loan. Đó là công trình nghiên cứu của Lin Hui Shaing, “The Ethnology of China”, xuất bản năm 1937 và W. Meacham, “Origins and development of the Yueh coastal neolithic: A microcosm of cultural change on the mainland of East Asia”, công bố vào năm 1981. Cả hai đã đi đến cùng kết luận về nguồn gốc của dân Bách Việt.

Cũng trong cuộc phỏng vấn này, có câu hỏi là có phải nghiên cứu của bà có mục đích chính trị không, vì hiện nay có rất nhiều người đã dùng nghiên cứu của bà trong chính trường. Bà nói rằng mọi người nên hiểu biết về nguồn gốc của mình. Và bà chỉ muốn tìm ra nguồn gốc của người địa phương sống lâu đời ở Đài Loan. Bà không hiểu tại sao người Mỹ gốc Phi lại có thể đi tìm được nguồn gốc của họ, mà người Đài Loan lại không có thể nói được “Chúng ta là người Mân Việt cổ xưa”. Bà muốn rằng người Đài Loan nên xem mình là người địa phương Mân Việt chứ không phải Hán từ bắc Trung quốc. Bà nói : “Bài nghiên cứu của tôi đơn giản là chỉ để hiểu biết về nguồn gốc. Tôi không biết gì về chính  trị và không thuộc tổ chức chính trị nào”.

Để có một cái nhìn tổng quát về tình hình Đài Loan và hiểu thêm về các dân tộc và văn hóa ở hòn đảo này, chúng ta phải bắt đầu từ các dữ kiện lịch sử và dân tộc học mà tôi cố gắng tóm lược như sau.

Bộ tộc Austronesian

Những người bản sứ thuộc dòng ngôn ngữ Austronesian là những dân đã sống lâu đời ở Đài Loan từ trước thế kỷ 17 khi các người ngoại quốc,  như Hoà Lan, Tây Ban Nha và sau này từ Trung quốc bắt đầu đến chiếm đóng và định cư. Ngôn ngữ của các bộ tộc bản sứ cũng rất đa dạng và khác nhau, nhưng tất cả đều thuộc họ ngôn ngữ Austronesian, cùng họ với ngôn ngữ Phi Luật Tân, Indonesia, Mã Lai và ở nhiều đảo khác trong Thái Bình Dương. Hiện nay người thổ dân Austronesian chỉ còn có khoảng dưới 2% dân số Đài Loan và gồm các bộ tộc sau (theo thứ tự dân số) : Amis (130,000),  Paiwan (60,000), Tayal (50,000), Bunun (38,000), Taroko (30,000), Puyuma (8,000), Rukai (8,000), Tsu (6,000), Yami (4,000), Saisiat (4,000), Thao (250). Một số bộ tộc khác ở đồng bằng và bờ biển trước đây đã biến mất, qua sự đồng hoá trong cộng đồng các người Hoklo, Hakka di dân từ Trung quốc trong các thế kỷ trước. Ngôn ngữ của các bộ tộc này chỉ còn giữ lại trong các tự điển và bài viết về họ của người Hoà Lan, Nhật và Đài Loan sau này, và một số từ còn sót lại trong tiếng Hoklo.

Trong suốt lịch sử từ 1624, khi người Hoà Lan đến chiếm, cho đến thời kỳ thuộc nhà Thanh, rồi thuộc Nhật Bản và gần đây dưới chế độ Quốc dân đảng, người thổ dân thường bị phân biệt, chèn ép trong xã hội. Có lúc họ đã nổi dậy, như năm 1930, một bộ lạc đã nổi lên chống Nhật nhưng họ đã bị đàn áp đẫm máu. Đất đai của họ đã bị lấn chiếm và mất dần (cách đây không lâu, có nơi đất của họ đã được dùng để chôn các chất thải nguyên tử nguy hiểm). Năm 1984, Liên minh thổ dân Đài Loan đã được thành lập bởi một số trí thức và các lãnh đạo các bộ tộc để bảo vệ quyền lợi và văn hoá thổ dân. Họ đã tranh đấu trong nhiều năm cùng với đảng Dân chủ tiến bộ đối lập chống lại các chính sách văn hóa và bất công của chính quyền. Ngày nay, quyền lợi và văn hoá thổ dân đã được khuyến khích phát triển nhất là từ khi chính phủ Trần Thuỷ Biển nắm quyền từ năm 2000.

Như các người Austronesian khác ở Đông Nam Á (Mã Lai, Phi Luật Tân, Nam Dương), các bộ tộc thổ dân đều có tục ăn trầu và xâm mình. Đặc biệt người Atayal còn xâm hình rất nhiều lên mặt. Theo truyền thuyết của họ, lúc khởi thủy chỉ có hai anh em. Vì muốn sinh sản con người, người em gái đã xâm hình lên mặt để che dấu gạt anh và sinh sản con cháu.  Người Rukai, trong lễ hội xuân, còn có phong tục chơi đu xích đu. Người con gái đu xích đu, trong khi người con trai đẩy và bắt lấy. Trò chơi ở lệ hội xuân này tương tự như trò chơi của lễ hội người Việt và chúng có nguồn gốc phồn thực.

Vì là thiểu số, hiện nay văn hoá người thổ dân có nguy cơ biến mất khi đa số thanh niên cố gắng hoà nhập vào xã hội Đài Loan. Trước đây vì bị phân biệt, nên đa số đã cố gắng dấu đi đặc tính thổ dân để hoà nhập. Ngày nay với chính sách bảo vệ và phát triển văn hoá bản sứ trong giáo dục, chính trị và kinh tế, họ đã có mặt ở mọi thành phần, tầng lớp trong xã hội Đài Loan và hảnh diện là người có gốc tích thổ dân, dân cư đầu tiên của nước Đài Loan. Cuối năm 2001, ở Đài Trung, nơi có nhiều thổ dân thuộc các bộ tộc khác nhau, đã có tổ chức lễ hội về văn hóa Austronesian, với sự hiện diện của nhiều học giả thế giới đến dự hội nghị nghiên cứu Austronesian tổ chức cùng thời gian. Chang Hui-mei (Amei), ca sĩ nổi tiếng ở Đài Loan, là một người gốc thổ dân bộ lạc Puyuma bản sứ đã trình diễn nhiều bài dân ca Austronesian khai mạc liên hoan văn hoá này. Viện hàn lâm Academia Sinica cũng đã xuất bản nhiều công trình nghiên cứu về văn hóa và con người Austronesian. Cùng với “Hiệp hội nghiên cứu tiền sử ấn và Thái Bình dương”, Academia Sinica đã tổ chức nhiều hội nghị quốc tế về người Austronesian, như ở Đài Trung và Đài bắc vừa rồi.

Nguồn gốc người Austronesian ở Đài Loan

Có nhiều giả thuyết (9) về nguồn gốc của người Austronesian trên đảo Đài Loan: (a) họ là hậu duệ của người từ đảo Ryukyu ở nam Nhật Bản đến cách đây hơn 2,000 năm (b) họ là những người Mã Lai đi từ các đảo phương Nam lên (c) họ là hậu duệ của các dân tộc từ đất liền vùng Quế châu (Miao, Thai,..) gần biên giới  hiện nay giữa Trung quốc và Việt Nam. Những người này cũng là tổ tiên của người  “Việt” (yueh) ở Quảng Đông hiện nay.

Các địa điểm khảo cổ thời kỳ đá mới ở Tapenkeng (gần Đài Bắc) và Fengpitou (gần Cao Hùng) cho thấy các vật tìm thấy (rìu, tên đá, đồ gốm với trang trí hình thừng..) thuộc vào một nền văn hoá thời đại đá mới cách đây khoảng hơn 5,000 năm. Các nền văn hoá này có liên hệ với các di chỉ văn hoá ở đất liền phía nam Trung quốc và bắc Việt Nam. Các gốm ở các di chỉ văn hoá trên cũng có sự liên hệ với các gốm tìm thấy ở các di chỉ ở Phi Luật Tân và ở Sa Huỳnh. Điều này cho thấy giả thuyết thứ hai và ba ở trên về nguồn gốc của dân Austronesian có thể là có cơ sở. Tuy khảo cổ học cho ta thấy sự liên hệ ở thời kỳđá mới giữa cư dân đảo Đài Loan và đất liền, nhưng về phương diện ngôn ngữ hiện nay ta không còn tìm được cư dân nào còn lại trên đất liền ở nam Trung quốc và bắc Việt Nam dùng tiếng nói thuộc họ ngôn ngữ Austronesian.

Nhà khảo cổ P. Bellwood cho rằng xưa kia ngôn ngữ Austronesian có thể đã được dùng bởi các bộ tộc ở nam Trung quốc nhưng đã bị biến mất khi  người Hán tràn xuống phía nam. Vết  tích của ngôn ngữ Austronesian có thể tìm được ở tiếng Mân Nam (Hoklo). Nhà ngôn ngữ học Benedict cho rằng họ ngôn ngữ Austronesian và ngôn ngữ Thai-Kadai (hiện vẫn còn ở nam Trung quốc và bắc Việt nam) có liên hệ và cùng chung một gốc. Gần đây một số các nhà ngôn ngữ học cũng cho thấy có sự liên hệ giữa ngôn ngữ Austronesian và Austroasiatics (như Mon-Khmer, Việt-Mường). Họ gọi gốc chung của hai họ ngôn ngữ này là Austric và dùng phương pháp ngôn ngữ học để cấu tạo lại các từ gốc tiền-Austric. Ngoài phương diện ngôn ngữ, ta cũng thấy có sự liên hệ trong lịch sử của các dân tộc nói các thứ tiếng trên ở nam Trung quốc và Việt Nam.

Từ các dữ kiện ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ, nhà ngôn ngữ học R. Blust và khảo cổ học P. Bellwood đã cho rằng, bắt nguồn từ Vân Nam, nơi xuất phát nhiều sắc tộc nói nhiều loại ngôn ngữ khác nhau, và nhiều di chỉ văn hóa, người Austronesian xuống đến bờ biển rồi từ đó qua Đài Loan. Họ sau này, cũng như nhiều sắc tộ khác, bị Hán hóa, chỉ để lại vàI dấu vết ngôn ngữ trong các dân ở nam Trung quốc hiện nay.

Tuy vậy, qua sự nghiên cứu về các từ cổ Trung hoa về các sản phẩm canh nông như kê, lúa gạo, nhà ngôn ngữ L. Sagart (10) cho rằng nguồn gốc của người Austronesian là ở phía bắc sông Dương Tử. Những từ này có liên hệ đến các từ gốc Austronesian. Thuyết của ông đặt cơ sở là các di chỉ trồng lúa cổ nhất tìm được hiện nay là dọc phía nam sông Dương Tử như Hemudu, Caoxieshan (tỉnh Triết Giang) cách đây khoảng 6,500 năm và Pentoushan (Hồ Nam) cách đây khoảng 8,000 năm.

Trái với hai thuyết trên là thuyết của Meacham, Terrel và Soldheim (11) cho rằng người Austronesian chính là bắt nguồn từ các đảo trong khu vực tam giác bắc Phi Luật Tân, Indonesia đến tây New Guinea (vùng Wallacea). Họ tỏa ra các hướng khác nhau: bắc đến Đài Loan và các đảo nam Nhật bản (Ryukyu), tây đến bờ biển Việt nam, đông về Melanesia và các đảo ở Thái bình dương (Polynesia). Meacham cho rằng hiện nay khó có thể xác định là nguồn gốc người Austronesian ở nam Trung quốc qua ngôn ngữ học và khảo cổ học. Sự định tuổi về sự phát xuất các họ ngôn ngữ qua ngôn ngữ học như Blust đã làm là không chính xác và di chỉ khảo cổ ở Đài Loan chưa đủ để kết luận là người Austronesian từ nam Trung quốc đến Đài Loan. Soldheim cho rằng thật sự người Austronesian đi đến bờ biển Trung quốc, Đài Loan từ phương nam (Phi Luật Tân) và họ cũng đến bờ biển Việt Nam như ở Sa Huỳnh.

Khi kỷ thuật di truyền được bắt đầu sử dụng vào địa hạt nhân chủng học, một số các nghiên cứu về di truyền dùng các mẫu DNA và mitochondria DNA từ các bộ tộc Austronesian và các dân cư ở bắc, nam Trung quốc, các đảo ở Đông Nam Á và Thái Bình dương cho thấy có sự liên hệ rất nhiều giữa người Austronesian ở Đài Loan và các dân ở Phi Luật Tân và các cư dân tộc phía nam Trung quốc nhiều hơn ở bắc Trung quốc (9). Tuy vậy điều này chưa cho phép ta khẳng định hướng di dân đi từ hướng nào.

Nguồn gốc của người Austronesian vẫn còn là đề tài tranh luận của các nhà nghiên cứu.

Thuyết  “Từ  Đài Loan”  về nguồn gốc Austronesian ở Thái Bình Dương

Năm 1984, nhà khảo cổ học Peter Bellwood, trong chương trình nghiên cứu phối hợp với ngôn ngữ học đã cho rằng các người Polynesian ở các đảo Thái Bình Dương như Tonga, Fiji, Tahiti, Tân Tây Lan, đảo Easter... có nguồn gốc từ Đài Loan. Họ di cư từ Đài Loan chỉ cách đây hơn 3,000 năm và nhanh chóng toả ra khắp những nơi trên. Thuyết này được phổ thông hoá nôm na là thuyết “tàu tốc hành từ Đài Loan” (“express train from Taiwan”).

Ông Bellwood (13) cho rằng người Austronesian là những người trồng lúa, với kỷ thuật canh nông, từ nam Trung quốc đã qua Đài Loan và xuống các đảo phía nam. Từ đó họ đi về phương đông đến hầu như hết tất cả các đảo ở Thái bình dương. Họ đã thay thế các dân hái lượm địa phương cư ngụ trước đó ở các đảo Đông Nam Á. Bellwood cũng dựa vào nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học R. Blust để đưa ra thuyết của ông. Blust đã xếp loại tất cả các ngôn ngữ Austronesian, khoảng 1,200 loại, thành 10 nhóm chính. Các ngôn ngữ của các bộ tộc Austronesian ở Đài Loan rất khác nhau và chia ra thành chín nhóm khác nhau. Trong khi các ngôn ngữ Austronesian khác ở Đông nam Á và Thái Bình dương nằm vào chung một nhóm. Vì thế Blust cho rằng các ngôn ngữ ở Đài Loan là thuộc loại xưa nhất, và các ngôn ngữ Austronesian khác bắt nguồn từ Đài Loan.

Bằng chứng khảo cổ học là các loại gốm gọi là gốm Lapita được tìm thấy khắp các đảo ở Thái Bình dương, từ quần đảo Bismark, đảo Vanuatu, Caledonia đến Fiji, Tonga, Samoa. Những người Lapita này chính là tổ tiên của những người Polynesia nói tiếng Austronesian ở Thái Bình dương hiện nay. Bellwood cho rằng người Lapita phát xuất từ Đài Loan.

Vấn đề người Lapita từ đâu đến không đơn giản và đã có nhiều nhà nghiên cứu tranh luận. Nhà nhân chủng học Terrel cho rằng thật sự tổ tiên người Lapita là từ Melanesia hơn là từ người Austronesian từ Đài Loan hay Phi Luật Tân đến. Đồ gốm Lapita cổ nhất là được tìm thấy ở quần đảo Bismark, xứ sở của người Melanesia, hơn gốm tìm được ở Phi Luật Tân, mặc dầu chúng có liên hệ đến gốm Lapita. Theo ông Terrel, văn hóa người Lapita là sự tổng hợp văn hóa của người Austronesian đến trong nhiều đợt và của người Melanesia bản sứ. Thuyết của ông Terrel còn được gọi nôm na là “thuyết bờ rối” (“entagled bank hypothesis”)

Thuyết “tàu tốc hành” của Bellwood, Blust và thuyết “bờ rối” của Terrel là hai mô hình nổi bật khác nhau nhất. Các nhà nghiên cứu đã chia ra hai trường phái dựa vào hai mô hình khác nhau trên.

Thuyết “tàu tốc hành” của Bellwood và Blust được nhiều người chấp nhận trong một thời gian lâu trong các năm 1980 và đầu thập niên 1990. Khi các nhà di truyền học nhảy vào cuộc tranh luận, lúc đầu đã có các nghiên cứu di truyền mtDNA với các kết quả đầu tiên có vẻ là thuyết Bellwood và Blust đúng. Nhưng sau này, các kết quả di truyền ở nhiểm sắc thể Y và mitochondria mtDNA cho thấy giả thuyết trên của Bellwood là không hoàn toàn đúng.

Di truyền ở nhiểm sắc thể Y cho thấy người Polynesia có rất ít sư đa dạng, chứng tỏ họ xuất thân từ một số ít người đàn ông. Mặc dầu ở mtDNA và nhiểm sắc thể Y, có các vết tích và sự liên hệ một ít qua các điểm (marker) với những người Austronesian và người ở nam Trung quốc và Đông Nam Á. Nhưng  sự liên hệ di truyền nhiều nhất là với các người Melanesian ở New Guinea và Austronesian ở Wallacia gần New Guinea (11)(12). Thuyết Bellwood đúng một phần nhưng mô hình Terrel có cơ sở hơn. Vì thế ông Oppenheimer (11) đã gọi nguồn gốc và di dân của người Polynesia đến Thái Bình dương là “con tàu chậm” (“slow boat”)

(b) Người Hoklo (福佬)

“Hoklo”, từ cổ xưa gốc địa phương nay được dùng để chỉ chung giống người dân tộc và ngôn ngữ vùng Phúc Kiến thay vì dùng từ Phúc Kiến như trước đây thường xử dụng để chỉ người từ tỉnh địa phương Phúc Kiến trong một nước Trung quốc rộng lớn. Các từ thường dùng khác như Hokkien, Minnan (Mân Nam), Min (Mân), hay Đài Loan cũng đã được dùng để chỉ dân tộc này. Nay thì từ “Hoklo” bản địa có khuynh hướng được dùng nhiều (nhất là trong giới hàn lâm nghiên cứu) vì nó thống nhất cho một giống dân trong dân tộc học, không mang màu sắc chính trị, thích hợp hơn là dùng danh từ về vị trí địa lý của một tỉnh. Người Hoklo không những cư trú ở Phúc Kiến mà còn có mặt ở nhiều nơi như Hải Nam, Đài Loan và ở nhiều nước khác trong khu vực Đông Nam Á do truyền thống đi biển của họ. Ở Đài Loan, hiện nay 70% dân số là người Hoklo.
Ngôn ngữ người Hoklo có nguồn gốc cổ xưa ở Nam Trung quốc.  Theo nhà ngôn ngữ học Norman và  Mei Tsu Lin (5)(6) thì tiếng Hoklo (Mân), Hakka và Quảng Đông có cùng nguồn gốc. Chúng xuất phát  từ các bộ tộc bách Việt phi Hán sống ở phía Nam sông Dương Tử. Những ngôn ngữ này có các thành phần gốc Thái cổ, Austronesian và Austroasiatic ở tầng ngôn ngữ dưới tầng pha trộn với tiếng Hán ở trên. Thành phần Austronesian và Thai (Austro-Thai) có trội hơn thành phần Austroasiatics, nhưng cả ba đều có hiện diện trong các ngôn ngữ này. Họ ngôn ngữ Austroasiatics, như ta biết, gồm có các ngôn ngữ Mon-Khmer, Việt, Munda. Điều này cho thấy là các tộc người nói tiếng Austroasiatics đã có mặt ở nam Trung quốc từ lâu đời, trước thời kỳ nhà Tần\- Hán (6). Hiện nay trong ngôn ngữ Mân Nam Hoklo, ta vẫn còn tìm thấy có các sự liên hệ với ngôn ngữ Việt thuộc họ Austroasiatics qua các từ gốc (6). Một vài thí dụ về các từ Hoklo với các từ trong tiếng Việt như

vat[bat4] - Việt : biết, Bahnar : băt.
gnial[kian2] - Việt : con, Khmer : koun.
daam[tam5] - Việt : đẫm (ướt).
daanggi[tang5ki1] - Việt : đồng (lên), Proto-Mân : dung, , Mon : dong.
doh[toh4] - Việt : đâu (ở).

và một số từ có nguồn gốc austroasiatics-austronesian (theo thuyết Austric) như

dehh[teh4]\- Việt : đè, Proto-Malay : tedes.
qiul [giu2] - Việt : giật (kéo), Quảng Đông : jau1, proto-Malay : guyud
lut[lut4] - Việt : lột,  Hakka : lôụt,  Quảng Đông : led1, Indonesian : lucut, Malay : luchut, Hawai Polysnesian : lu.
lerng[leng7] - Việt : lõng, proto-Malay : luan.

Ngoài ra, theo tôi một số các từ Hoklo sau đây cũng có gốc chung (cognates) với các từ Việt.

bou[po*1] - Việt : bố (cha)
voul[bo*2] - Việt : bu (vợ)
za[cha1] - Việt : ta (người), Proto-Malay : tau, cau.
dẫn tới từ Hoklo, zabou nghĩa là người đàn ông và zavoul nghĩa là người đàn bà.

Ngoài sự liên hệ về ngôn ngữ giữa người Hoklo (Mân Việt) và người Việt, trong lịch sử, ta cũng được biết là tổ tiên của nhà Trần, một triều đại rực rỡ đượm văn hoá Việt ở Việt Nam, đã đi từ Phúc Kiến (Mân) theo đường biển đến định cư ở Việt Nam vào thế kỷ 13. Họ sống về nghề đánh cá dọc theo bờ biển nam Trung quốc.

Người Hoklo ở Đài Loan sau bao thế kỷ chung sống và hợp chủng với nhiều bộ tộc bản sứ ở vùng thấp và đồng bằng đã dẫn đến sự biến mất của một số các bộ tộc. Qua quá trình giao lưu này, một số ngôn từ Austronesian đã được thu nhận và ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan có nét địa phương khác với ngon ngữ Hoklo ở tỉnh Phúc Kiến trong lục địa. Ngôn ngữ Hoklo ở Đài Loan nay được gọi là Đài ngữ.

(c) Người Hẹ hay Khách trú (Hakka) (客家).

Từ “Hakka” chữ Hán có nghĩa là “khách trú”, do người Quảng Đông dùng để chỉ các người di dân xuống địa phận vùng bắc Quảng Đông và nam Phúc Kiến hiện nay. Thật sự người Hakka đã có mặt từ ngàn năm trước ở vùng phía nam sông Dương Tử, chủ yếu ở khu vực nam tỉnh Giang Tây, giáp giới với Phúc Kiến. Vì hoàn cảnh địa lý và lịch sử họ đã di dân xuống Quảng Đông. Hiện nay chúng ta không rõ lịch sử và khi nào từ này đã được dùng, chỉ biết là người Quảng Đông đã đối xử phân biệt với họ, cho họ là dân phi Hán thuộc một loại dân tộc mọi man di, như các tộc Thái, Choang (Zhuang) hay Mèo (Miao)\, ở miền núi hoang dã di dân vào ở các khu vực Hán. Thật sự thì cả người Quảng Đông cũng không phải nòi Hán, nhưng vì bị Hán hoá quá lâu, nên trong cộng đồng của họ đã không còn gìn giữ lại được trong trí nhớ di sản chung là trước kia họ thuộc chủng phi Hán.

Vì bị coi như người ngoài đến lấn chiếm, và bị đối xử phân biệt nên một số người Hakka đã cũng tự cho họ là người Hán từ bắc Trung quốc đi xuống. Quyển sách cổ điển nói về nguồn gốc của người Hakka là của giáo sư Lo Hiong Lim, xuất bản năm 1933 (“An introduction to the study of the Hakkas: its ethnic, historical and cultural aspects”). Ông chủ yếu dựa vào gia phả cho rằng người Hakka là từ bắc Trung Quốc đã di dân xuống phương nam qua nhiều đợt vì quê hương của họ đã bị các rợ phương bắc xâm lăng.

Ngày nay thì nhiều công trình nghiên cứu khảo cổ, ngôn ngữ học và di truyền học đã cho thấy là thuyết của ông Lo không đúng. Ngay cả tư liệu gia phả cũng không chính xác và có nhiều sai lầm. Nhà ngôn ngữ học J. Norman cho rằng tiếng Hakka, Mân (Min) và Quảng Đông “Việt” (Yue) có cùng một nguồn  trong lịch sử,  đã hiện diện ở Nam Trung quốc từ trước thời Hán, mà ông gọi chung là tiếng cổ nam Trung quốc (Old southern Chinese) (5).

Nhà ngôn ngữ học Laurent Sagart trong một nghiên cứu mới đây (2002) về nguồn gốc tiếng Hakka, đã cho thấy là ngôn ngữ này có nguồn gốc ở phía nam Trung quốc, với lớp tầng cổ nhất thuộc họ ngôn ngữ Mèo - Dao (Miao-Yao), hay còn gọi là Hmong-Mien (4). Ngôn ngữ Hakka cũng rất gần với ngôn ngữ của người Gan (Cám) cư ngụ dọc lưu vực sông Cám giang. Hiện nay ở vài khu vực các tỉnh Giang Tây (Jianxi), Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, người She, thuộc họ ngôn ngữ Hmong-Mien vẫn còn hiện diện. Ông Sagart cho rằng chính  họ là tổ tiên của người Hakka và Gan, sau này đã bị Hán hoá dần từ thời Tống. Trước đây, nhà ngôn ngữ học Haudricourt cũng đã cho rằng tiếng Quảng Đông và Hakka có nguồn gốc từ tiếng Thái và Mèo-Dao, sau khi trãi qua các quá trình Hán hoá lâu dài trong lịch sử (7).

Giáo sư Fong Hok Ka, trong sách nghiên cứu về người Hakka xuất bản ở Trung quốc năm 1994 (“Investigating in depth about the origin of Hakka”), đã dùng các tư liệu lịch sử và khảo cổ tìm được ở các vùng  của người Hakka trước đây cư ngụ. Ông cho thấy đã có một nền văn minh rất cao hiện diện trước lâu khi thời kỳ nhà Tần đánh chiếm các dân tộc phương Nam. Từ đó  (221BC) bắt đầu có quá trình Hán hoá cho đến các giai đoạn sau  thời Bắc triều - Nam triều (589AD), khi nhóm tiền\-Hakka (proto-Hakka) bắt đầu được thành lập và phát triển.

Nói chung các công trình nghiên cứu của ông Norman, Sagart và Fong là có cơ sở hơn hết về nguồn gốc con người và ngôn ngữ Hakka.

Sau người Hoklo, người Hakka bắt đầu di dân vào đảo Đài Loan vào khoảng thế kỷ 18, chủ yếu là dưới triều Thanh. Hiện nay, dân số người Hakka có khoảng 3 triệu, tức khoảng 15% dân số Đài Loan, đứng hàng thứ 2 sau dân Hoklo.

(3) Vài nét về lịch sử hiện đại Đài Loan

(a) Đài Loan đã có người thổ dân Austronesian sinh sống từ lâu đời. Tài liệu xưa nhất ở Trung quốc đề cập đến Đài Loan là vào năm 230 AD, nói về một số người chạy loạn từ bờ biển Phúc Kiến, Quảng Đông đến trú ngụ tại đảo. Một tài liệu địa lý khác ở thế kỷ thứ 3 có nói về các bộ tộc sống trên đảo (9). Họ có phong tục và cách sống rất khác nhau, chứ không phải thuần nhất.

Từ cuối thế kỷ 16 đến năm 1624, chỉ có một số rất ít người từ lục địa sang sinh sống dọc theo bờ biển phía bắc. Chủ yếu họ sống ngoài vòng kiểm soát của triều đình Trung quốc. Trong đó không ít là sống theo nghề cướp biển. Thỉnh thoảng chỉ có một số người bị đắm tàu trôi dạt vào đảo. Họa hoằn lắm là có các thương thuyền của người Bồ Đào Nha, Hòa Lan và các nước tạt qua trên đường hàng hải buôn bán với Nhật và Trung quốc. Người Bồ Đào Nha gọi đảo này là Formosa (“hòn đảo đẹp”). Thổ dân Austronesian trên đảo cũng có tiếng là hung dữ, nhất là ở phía sâu trong đảo. Thêm nữa vì không có cảng hay thành phố mà chỉ có các làng mạc thưa thớt dọc biển, nên không ai để ý đến.

Với sự cạnh tranh càng ngày càng gia tăng của các nước Tây phương trong thị trường thương mại hàng hải với Nhật và Trung quốc. Người Hoà Lan đầu tiên chiếm các đảo nhỏ ở eo biển Đài Loan như quần đảo Pescadores và bắt đầu từ năm 1624 đến lập các cơ sở ở bờ biển phía Tây Đài Loan. Người Tây ban Nha cũng đến phía bắc đảo để chiếm đóng và lập các căn cứ làm thuộc địa từ năm 1626. Người thổ dân bị lấn chiếm và không chống trả nổi. Chiến tranh giữa Hoà Lan và Tây Ban Nha diễn ra liên tục trên đảo. Trong thời gian này, người Hoa từ lục địa cũng bắt đầu di dân sang ở một vài nơi phía Tây và Nam trên đảo.

Năm 1642, cuối cùng người Tây Ban Nha đã bị người Hoà Lan đánh bại, các cơ sở, đồn thiết bị ở phía bắc đảo đã rơi vào tay người Hoà Lan. Formosa trở thành thuộc địa và là cơ sở thương mại có lợi nhuận lớn thứ nhì sau Nhật bản của công ty Đông ấn Hoà Lan.  Trong lúc đó người Hoa từ lục địa tiếp tục di dân qua đảo Formosa lập nghiệp ở dọc bờ biển hẻo lánh phía Tây. Người thổ dân nay chịu 2 sức ép của làn sóng xâm nhập. Từ Đài Loan, Công ty Đông ấn xuất khẩu đường, các sản phẩm từ nai thú rừng, và là trạm chuyển tiếp cho đồ sứ Trung quốc. Các bộ lạc ở vùng thấp và đồng bằng bị cạnh tranh sinh sống và bị đẩy lùi từ sự phát triển nông nghiệp lớn dần của các người di dân từ lục địa sang. Dĩ nhiên lâu dần  sự việc cũng đã dẫn đến sự đụng độ không tránh khỏi giữa người di dân Hoa lục với người Hoà Lan. Nhà Minh bắt đầu gởi người và chiến thuyền đến để can thiệp. Chiến tranh xảy ra khốc liệt trong nhiều năm. Sau cùng vào năm 1662, người Hoà Lan vì giới hạn nhân lực và thực lực đã bị tướng nhà Minh Koxinga (Jeng Cheng Gung) đánh bại. Đây là lần đầu tiên Trung quốc thiết lập sự cai trị ở đảo Đài Loan.

Khi nhà Minh bị mất nước vào năm 1683, người Mãn Châu thiết lập triều nhà Thanh ở Trung quốc. Tàn quân của nhà Minh đã phải lánh nạn ở bờ biển phía Nam gần Đài Loan. Một số cũng đi xa hơn nữa về phương Nam đến Việt Nam và được chúa Nguyễn cho phép định cư ở các vùng đất mới, như miền Nam phía vùng đồng bằng sông cửu Long và Hà Tiên. Ở Trung quốc, một số  hội kín “phản Thanh phục Minh” như Thiên Địa hội được thành lập. Vùng bờ biển Trung quốc và Đài Loan trở thành nơi cứ địa của Thiên địa hội. Lâu ngày tàn quân và Thiên địa hội đã dần dần trở thành cướp biển quấy phá hàng hải thương mại nhà Thanh ở eo biển Đài Loan. Sau một thời gian, nhà Thanh tuy dẹp được cướp biển, nhưng ở Đài Loan họ chỉ kiểm soát được một vài nơi có người Hoa định cư dọc bờ biển. Còn lại đa số là ngoài vòng kiểm soát. Nhà Thanh vì thế chỉ xem Đài Loan là một vùng biên giới để giử an ninh, không coi đó là nơi quan trọng và cần thiết. Nhà Thanh dùng chính sách “chia rẽ và cai trị” rất hiệu nghiệm. Họ dùng người bản sứ Austronesian để đàn áp các cuộc nổi loạn thường xảy ra của người Hoa di dân vẫn còn thần phục nhà Minh.

Năm 1895, nhà Thanh thua trận trong chiến tranh với Nhật. Một trong những điều kiện thương thuyết là Nhật đòi nhà Thanh phải nhường lại Đài Loan. Vì không coi là nơi quan trọng thuộc lãnh thổ Trung quốc, nhà Thanh đã đồng ý với Hoà ước Shimonoseki kết thúc cuộc chiến tranh Trung-Nhật. Đài Loan trở thành thuộc địa, trực thuộc Nhật từ năm 1895 đến 1945. Trong 50 năm dưới chế độ thực dân Nhật, Đài Loan đã trãi qua một sự thay đổi khá sâu rộng trong các địa hạt văn hoá, xã hội, kinh tế và chính trị. Tiếng Nhật và văn hoá Nhật được áp dụng trong toàn xã hội. Văn hoá bản sứ Hoa, Hoklo và Austronesian không đươc phát triển. Họ cai trị Đài Loan rất chặt chẻ. Ngay cả vào sâu trong nội địa, vùng núi rừng để chế ngự các bộ tộc Austronesian miền núi, để đặt họ vào vòng kiểm soát của người Nhật. Kỷ nghệ được phát triển khai thác tận lực tài nguyên thiên nhiên như thuỷ điện, nhôm, hoá học.... Đài Loan sau này đóng góp nhiều vào bộ máy chiến tranh của Nhật trong thế chiến thứ hai. Dưới sự cai trị của Nhật, một cuộc nổi dậy lớn nhất chống Nhật, do một bộ tộc người Austronesian lảnh đạo, đã xảy ra vào năm 1930. Để trả thù, chính quyền Nhật đã đàn áp, giết và bắt đi hầu hết các người của bộ tộc Austronesian này trong cuộc nổi loạn trên. Trong lịch sử Đài Loan, ngay cả Quốc dân đảng đã đề cao biến cố nổi dậy quan trọng này của các “đồng bào dân tộc”.

Trong thế chiến thứ hai, Trung quốc đánh nhau với Nhật ở mặt trận châu Á, Thái bình dương và vì thế đứng về phía Đồng minh chống lại trục phát xít Đức-Nhật-Ý. Trong hội nghị của ba cường quốc đồng minh  (Mỹ, Anh, và Trung quốc) về mặt trận Thái Bình dương ở Cairo vào năm 1943, Đồng minh đã đồng ý là sẽ giao Đài Loan cho Trung quốc (Quốc dân đảng) khi Nhật bị bại trận sau chiến tranh.

(b) Biến cố 28/2 - Thảm sát ở Đài Bắc và khắp Đài Loan

Cuối năm 1945, sau khi Nhật đã đầu hàng đồng minh, chính phủ Trung quốc của Quốc dân đảng gởi người và quân đội đến Đài Loan để giải giới và thiết lập chính quyền mới trên đảo. Họ đến từ lục địa nhưng nắm hết quyền trong chính phủ, quân đội. Từ sự cách biệt gần 100 năm trong lịch sữ trong thời kỳ lệ thuộc Nhật và trước đó trong thời nhà Thanh, lối sống xã hội của người Đài Loan bản sứ đã khác nhiều với tập tục suy nghĩ nếp sống của những người tràn qua từ đất liền.

Điều này bắt đầu dẫn tới những bất đồng và căng thẳng, nhất là sự hối lộ, tham nhũng, vơ vét, áp bức dân địa phương của chính quyền Quốc dân đảng trong các năm đầu khi họ vừa đến Đài Loan. Người dân bản sứ không quen về tệ nạn tham nhũng, vơ vét khi còn dưới thời Nhật cai trị, nên rất ta oán. Họ đã biểu tình phản đối bắt đầu từ Đài Bắc rồi lan ra khắp Đài Loan. Quốc dân đảng đã phản ứng lại bằng cách dạy dân địa phương một bài học, như một số tướng và nhân vật quốc dân đảng đã tuyên bố . Trong ngày 28/2/1947, quân đội đã nổ súng vào đoàn biểu tình và mở chiến dịch càn quét tấn công vào các dân bản sứ, hậu quả thật khốc liệt, hơn 20,000 người đã bị thảm sát. Thiết quân luật đã được ban hành và áp dụng trên toàn lãnh thổ. Biến cố này là một bản lề quan trọng nhất trong lịch sử cận đại Đài Loan.

Năm 1949, chính phủ Quốc dân đảng ở Trung quốc sau khi bị thua trận trong cuộc nội chiến đã phải chạy ra đảo Đài Loan củng cố. Thiết quân luật được áp dụng chặc chẽ hơn, viện cớ tình trạng chiến tranh với đảng cộng sản ở Trung quốc lục địa. Thiết quân luật chỉ chấm dứt sau này vào năm 1987.  Biến cố ngày 22/8/1947 có ảnh hưởng sâu rộng và đã nằm sâu trong tiềm thức của dân Đài Loan. Mặc dù nó đã bị các chính phủ Quốc dân đảng che đậy và cấm được bàn hay đề cập đến từ lúc đó cho đến cuối thập niên 1980s, nhiều trí thức bản sứ và ngay cả một số trong Quốc dân đảng ly khai đã đặt lại vấn đề và từ đó thành lập đảng Dân chủ Tiến bộ đối lập với chính quyền.

Năm 1972, Đài Loan đã lỡ một cơ hội trở thành một nước độc lập gia nhập vào Liên Hiệp quốc. Trong thời điểm này Mỹ đang hoà hoãn với Trung hoa lục địa (Cộng hoà nhân dân Trung quốc). Liên hiệp quốc cũng vừa công nhận chính phủ Cộng hoà nhân dân Trung quốc (PRC) đại diện cho Trung quốc ở Liên hiệp quốc, thay thế chính phủ Cộng hoà Trung quốc (ROC) của Quốc dân đảng ở Đài Loan. Đài Loan lúc đó có thể từ bỏ chính sách là mình có chủ quyền  ở Trung hoa lục địa và là thực thể đại diện cho tất cả mọi người dân Trung hoa. Thay vào đó, Đài Loan nên tuyên bố độc lập xin vào Liên Hiệp quốc với tư cách một nước mới. Đây cũng là hành động mà Mỹ khuyên Đài Loan nên theo trong cơ hội này lúc Mỹ thương lượng với Trung quốc, nhưng chính phủ Đài Loan đã từ chối và tiếp tục theo đuổi đòi chủ quyền cho cả Trung hoa lục địa. Đây là một sai lầm chiến lược lớn mà sau này Đài Loan hối hận. Nhiều người đã đặt lại vấn đề là tại sao lại không có hai hoặc ba nước nói tiếng Hoa trong Liên Hiệp Quốc, cũng như Liên Sô trước đây đã có Ukraine và Bylorussia hiện diện trong tổ chức này. Chính sách sau này của chính phủ Quốc dân đảng Đài Loan là cố gắng thiết lập được quan hệ ngoại giao với mọi nước (đa số là các nước nhỏ ở Trung Mỹ và Thái Bình dương) và xin được vào các tổ chức quốc tế như Y tế thế giới (WHO), văn hoá (UNESCO), thương mại (WTO)..

Từ lúc đảng Dân chủ tiến bộ đối lập được thành lập, đấu tranh về đường lối giữa Quốc Dân Đảng và đảng Dân chủ diễn ra rất gay gắt trong suốt thập niên 1980s. Đến cuối thập niên 1990s thì người địa phương Đài Loan đã thực sự thắng lợi, với bản sắc Đài Loan được đặt là nền tảng cho mọi chính sách đối ngoại và đối nội. Ngay cả Quốc Dân đảng đã chọn người địa phương Đài Loan, ông Lý Đăng Huy, là vị tổng thống với chính sách mới ở giai đoạn cuối cùng trước khi đảng Dân chủ lên nắm quyền năm 2000, mở đầu cho một kỷ nguyên và một thế kỷ mới.  

(3) Sự hình thành và phát huy văn hoá truyền thống bản địa của các dân tộc ở Đài Loan

Tôi đến Đài Trung (dọc bờ biển hướng Tây, cách Đài Bắc 150km phía Nam) vào tháng 6 năm 2000, một tháng sau khi ông Trần Thuỷ Biển nhậm chức tổng thống. Trung quốc vẫn còn dàn hoả tiển hướng về Đài Loan ngăn cách qua một eo biển nhỏ hẹp. Dân chúng tuy vậy rất bình tỉnh, tự tin và không còn sợ hải như trước đây. Mặc dầu thị trường chứng khoáng chưa hồi phục đến mức bình thường như hồi trước lúc khủng hoảng, hoạt động kinh tế đã trở lại như trước, các trung tâm thương mại rất náo nhiệt trừ các trung tâm của các công ty Nhật có rất nhiều ở Đài Loan, như Daimaru,.. thì vẫn vắng khách như xưa vì giá rất cao. Thành phố Đài Trung là thành phố lớn mà dân Hoklo hầu như chiếm gần hết, với một số ít còn lại là người các dân tộc thổ dân Austronesian.

Thành phần dân ở Đài Loan gồm khoảng 15% là người Hakka (khách trú), 70% là người Phúc Kiến, 2% là người bản sứ thổ dân và 13% là người từ các vùng ở Trung Hoa lục điạ đến gần đây. Mặc dầu không phải là đa số, nhưng người từ Trung Hoa lục địa đã chiếm lĩnh các vị trí quan trọng trong chính phủ, quân đội. Các hoạt động kinh tế phần lớn nằm trong tay họ, trong số đó có một số công ty có sự liên hệ rất mật thiết với Quốc dân đảng. Ngay Quốc dân đảng cũng có những công ty riêng rất lớn với nguồn tài chánh và lợi nhuận khổng lồ. Tình trạng trên kéo dài trong hơn 40 năm, cho đến khi bắc đầu từ năm 1988, đảng Dân chủ Tiến bộ (DPP) đối lập được thành lập. Đảng Dân chủ tiến bộ đòi hỏi có sự công bằng và đấu tranh dành lại quyền chính trị với khuynh hướng độc lập, từ bỏ là đại diện Trung quốc để lấy lại Hoa lục của chính thể Đài Loan từ khi Quốc dân đảng thua chạy qua tá túc ở Đài Loan. Mặc dầu có nhiều khó khăn và trở ngại do chính phủ Quốc dân đảng lập ra, dần dần tiếng nói của các dân bản sứ đã được thể hiện.  Trong những năm cuối của thập niên 1980 và đầu 1990, sự đối lập của đảng Dân chủ Tiến bộ và Quốc dân đảng về khuynh hướng và chính sách không những gay gắt trên chính trường (nhiều khi đưa đến xô xát bạo động trong quốc hội, các nơi diễn thuyết công cộng giữa hai phe mà chúng ta thường thấy trên truyền hình) mà còn được thể hiện ở dân chúng tuỳ theo dân thuộc thành phần nào, bản sứ hay không bản sứ.

Năm 1996, ông Trần Thuỷ Biển được bầu làm thị trưởng thành phố Đài Bắc. Trong thời gian làm thị trưởng, ông đã đổi tên đại lộ trước dinh tổng thống từ “Đại lộ Tưởng Giới Thạch muôn năm” thành “Đường Ketagalan”. Ketagalan là tên một bộ lạc thổ dân Austronesian cư ngụ vùng xung quanh Đài Bắc đã bị tuyệt chủng từ lâu sau khi họ đã bị đồng hoá vào xã hội Đài Loan. Mặc dù không phải là người thổ dân, nhưng ông Trần Thuỷ Biển đã tích cực ủng hộ và phát triển quyền lợi và văn hoá thổ dân khắp Đài Bắc.

Quan trọng hơn, ông đã lập ra một viện bảo tàng giữa một công viên lớn trong trung tâm thành phố tưởng niệm biến cố ngày 28/2/1947. Công viên được đổi tên là công viên hoà bình 282. Tôi có ghé thăm công viên và viện bảo tàng trong dịp viếng Đài Bắc năm 2000. Thật là cảm động khi thấy những hình ảnh, thơ từ, áo của các nạn nhân mang những lổ đạn, sách, báo chí, chứng từ, nói lên sự bất nhẫn qua hình ảnh của quân đội Tưởng Giới Thạch bắn giết hơn 20,000 người... Viện bảo tàng mang một biểu tượng với dòng chữ to “confused identity leads to tragedy - Taiwan has to know its past tragic event in 22/8/1947” (không rõ cá tính chúng ta là ai sẽ dẫn đến thảm kịch - Đài Loan phải biết quá khứ lịch sử của biến cố ngày 22/8/1997”. Dĩ nhiên viện bảo tàng đã bị chính phủ Quốc dân đảng lúc bấy giờ rất chống đối và lên án. Nhưng cũng từ lúc ấy, đa số người Đài Loan bản sứ (Hakka và Hoklo) đã bắt đầu nhận ra, ý thức được quyền độc lập và tự hào về sự khác biệt của văn hoá, lịch sử, ngôn ngữ của họ với văn hoá quan thoại của Quốc dân đảng và của Trung Hoa lục địa.

Ngay cả trong Quốc dân đảng, nhiều người (nhất là các đảng viên gốc người bản sứ), đã đòi hỏi phải có cải tổ, thay đổi chính sách để thể hiện được nguyện vọng của dân một cách thực tế và áp dụng được trong tình hình mới. Nó phải thích với khuynh hướng và trào lưu dân chủ mà quần chúng đòi hỏi. Lý Đăng Huy, vị tổng thống Quốc dân đảng cuối cùng trước khi Trần Thuỷ Biện lên thay, là người gốc bản sứ, đã có những chính sách cởi mở. Chính ông cũng có những hoài bảo độc lập giống như đảng Dân chủ Tiến bộ. Điều này đã làm cho chính quyền Trung quốc rất tức giận và hằng học, làm nhiều khó khăn cho ông Lý Đăng Huy, ngay cả khi ông không còn trong chính trường và là một công dân bình thường như hiện nay. Thí dụ như khi ông dự định đi đến viếng các nước như Anh, Mỹ, và gần đây Nhật với tư cách cá nhân riêng tư, chính quyền Trung quốc cũng đã gây sức ép đến các nước sở tại để không cho ông thi thực nhập cảnh (visa). Ai nói là thù sẽ phai đi theo thời gian ?.

Để có thể phân biệt và tạo ra được sự khác nhau về xã hội, văn hoá giữa Đài Loan và Trung quốc, Đài Loan từ Lý Đăng Huy đến Trần Thuỷ Biển đã khuyến khích phát triển và quảng bá rộng rãi văn hoá của những dân tộc thổ dân trong văn hoá Đài Loan. Ý thức về sự quan trọng của nền văn hoá thổ dân có nguồn gốc Mã Lai (Malayo-Indonesian) vào sự đóng góp chung với các văn hoá Hakka và Phúc Kiến để tạo dựng lên một nền văn hoá khác biệt với văn hoá Hán Trung Hoa. Điều này đã được nhận diện và chấp nhận là một yếu tố quan trọng bật nhất đặt nền tảng cho sự thành hình một đặc tính (identity) mới ở Đài Loan.  Thêm nữa mặc dầu Đài Loan đã có thời gian ngắn chỉ khoảng hơn 80 năm là một phần của Nhật Bản, trong thời kỳ Nhật cai  trị.  Nhưng ảnh hưởng văn hoá Nhật đã có thể hiện một phần trong văn hoá và con người Đài Loan. Đài Loan và Nhật hiện nay có quan hệ kinh tế và văn hóa khá sâu rộng.

Đặc tính riêng biệt là điều kiện tiên quyết cho sự khởi đầu thành lập một quốc gia của một quần thể với một văn hoá riêng. Quá trình văn hoá, tư tưởng như nói trên xảy ra ở Đài Loan trong sự tiến đến tạo thành một nước có bản sắc riêng cũng mang mán tựa như quá trình mà người Việt đã trãi qua trong thời kỳ Bắc thuộc. Trong quá trình này, nguy cơ văn hoá bản sứ có thể bị Hán hoá và tiêu diệt, trước khi có sự độc lập trong thế kỷ thứ 10 là rất cao, nếu không nhờ có văn hóa làng xã thuần Việt ở nông thôn được giữ vững.

Sau bao nhiêu năm dưới các chính phủ Quốc dân đảng, ngôn ngữ Hakka, Hoklo và các thổ ngữ bị cấm dùng trong nền giáo dục và các công sở, thay thế bởi ngôn ngữ chính thức Quan thoại (mandarin). Trước đây, một số trí thức Hakka và Hoklo đã cố gắng giữ gìn tiếng nói của họ bằng nhiều phương tiện. Một trong những phương tiện là sáng tạo ra chữ viết mới dùng chữ Hán tạo ra loại chữ gọi là Koa-a-chheh (歌仔冊) vào thế kỷ 17 dưới thời kỳ thuộc nhà Thanh. Cấu tạo loại chữ này cũng tương tự một phần như chữ Nôm (Việt Nam), hoặc dùng chữ âm chữ Hán để chỉ chử địa phương hoặc dùng nghĩa chữ Hán cho âm địa phương. Tuy nhiên nó chưa được thống nhất tiêu chuẩn và có sự tuỳ tiện của người viết. Đến cuối thế kỷ 19, thì loại chữ viết này biến mất dần. Đầu thế kỷ 20, chữ cái Latin cũng đã dùng để thể hiện tiếng nói địa phương (tương tự như chữ quốc ngữ sau này ở Việt nam). Nhưng hệ thống chữ này, gọi là Poe-oe-ji (白話字), đã không thành công , một phần là do chính sách của Quốc dân đảng. Chính sách của Quốc dân đảng là  phát triển chính thức  chữ Hán Quan thoại để nó trở thành phổ thông trong đời sống xã hội, chính trị. Chữ mới này có thể gây nguy cơ phổ biến cho văn hoá địa phương đe doạ sự độc tôn của Hán văn cổ điển mà Quốc dân đảng xây dựng khi đến Đài Loan (8). Vì thế chính quyền Quốc dân đảng đã ngăn cấm loại chữ mới này.

Vì chính sách ngôn ngữ và văn hóa độc tôn trọng Hán của chính phủ Quốc dân đảng trước đây, rất nhiều thanh niên thuộc các thế hệ mới gần đây đã quên đi tiếng cha mẹ của họ. Chính sách này được thể hiện qua sự cấm dùng tiếng địa phương ở các nơi công cộng, công sở, hay giảm thiểu tối đa tiếng địa phương trên truyền thanh và truyền hình. Không những thế, trường học nào để học sinh nói tiếng địa phương, không phải Quan thoại bị phạt tiền.

Ông Trần Thuỷ Biển (và trước đó ông Lý Đăng Huy) hiện nay đã có chính sách cho phép các ngôn ngữ điạ phương được dùng và dạy trong môi trường đa văn hoá ở xã hội Đài Loan. Bảo tồn và phát triển các loại văn hoá bản sứ đều được khuyến khích. Ở Đài Bắc, Cao Hùng và nhiều nơi khác, các trung tâm văn hoá Hakka, Hoklo, thổ dân đã được thành lập. Tháng 4/2001, ông Trần Thuỷ Biển cũng đã chính thức khai mạc mở viện bảo tàng văn hoá và lịch sử Hakka lớn nhất Đài Loan ở thành phố Meinung, thuộc quận Cao Hùng. Trong nội các chính phủ, ông thành lập Uỷ Ban văn hoá Hakka, với hy vọng sẽ biến Đaì Loan thành trung tâm nghiên cứu về văn hóa Hakka cao cấp nhất trên thế giới.

Từ giữa thập niên 1980s cho đến nay, song song với sự thành lập phong trào dân chủ và đảng đối lập Dân chủ tiến bộ, có phong trào Taibun (Đài Văn) phổ biến văn học bản sứ Taigi (Đài ngữ). Mục đích của phong trào Đài Văn là phát triển văn học Đài Loan dùng ngôn ngữ, và chữ viết địa phương trong các địa hạt giáo dục, xã hội, để chống lại quan điểm là chỉ có văn học Hán văn viết về Trung quốc là có văn hoá cao được quý trọng. Còn văn học viết về Đài Loan chỉ là văn hoá “xóm làng “ ở địa hạt nhỏ bé trong văn học rộng lớn Trung quốc. Quan điểm coi nhẹ, đánh giá thấp văn hoá địa phương từ trước đến nay của chính quyền Quốc dân đảng và của đa số các nhà trí thức Hán học quan thoại cổ điển từ lục địa đi qua, đè nặng vào lối suy nghĩ tâm linh của họ, đã bị chỉ trích.

Phong trào Đài Văn ngược lại lấy văn học, những gì liên quan hay viết đến Đài Loan bản sứ làm sự hảnh diện chứ không phải là một sự hổ thẹn “xóm làng”. Phong trào Đài Văn một phần đã thành công trong sự gơi dậy niềm tin và phát triển văn hóa, cũng như ngôn ngữ Đài Loan bản địa (Hoklo). Nhưng sự thống nhất và tiêu chuẩn hóa chữ viết đã chưa thực hiện được. Lý do chính là vì có nhiều hệ thống chữ (dùng từ Hán để phát âm, tương tự như chữ Koa-a-chheh trước đây) được sáng chế khác nhau. Ngay cả khi một trong các loại chữ này, như chữ Ganbun (諺文) chẵng hạn, được nhiều người dùng hơn, thì vấn đề kỷ thuật trên máy  tính và phần mềm xử lý để tạo ra chữ Ganbun đã gặp khó khăn. Vì hiện nay chỉ có chữ Hán là có sẵn và phổ thông trên thị trường máy tính mà thôi. Do đó hiện nay chỉ có chữ Hán Đài ngữ và Latin Đài ngữ (Peh-oe-ji) là được dùng nhiều nhất trong phong trào Đài văn.

Nói tóm lại, có thể cho rằng tình trạng của các dân tộc Hakka, Hoklo (“Mân Việt” ở Đài Loan cũng giống như tình hình ở Giao châu trước khi Ngô Quyền dành độc lập cho Lạc Việt. Dân tộc Lạc Việt đã cố gắng giữ gìn văn hóa trong gần 1,000 năm Hán thuộc mà không bị Hán hóa. Nhưng tình hình ở thế kỷ 21 có khác nhiều về không gian thế giới, do đó tình trạng của họ có khó khăn nhiều hơn và có thể không có nhiều hy vọng trên con đường tiến đến độc lập như chúng ta thuở trước. Tuy vậy không ai có thể đoán trước được những gì sẽ xảy ra trong tương lai. Đối với Việt Nam, những gì sẽ xảy ra ở Đài Loan đều có ảnh hưởng ít nhiều về phương diện kinh tế và chính trị. Quan trọng hơn, nó còn chứa nhiều ý nghĩa đáng cho ta suy nghĩ về chính mình trong lãnh vực tư tưởng.

NGUYỄN ĐỨC HIỆP
_______________________

Tham khảo

Scott, S., “ormosa diary #22, May 20: A great proletarian cultural revolution” Southeast Asia Discussion List, 25 May 2000.
Lin, M., Chu L., Lee H. et al, “eterogeneity of Taiwan’s indegenious population: possible relation to prehistoric Mongoloid dispersals” Tissue Antigens, 2000:55:1-9.
Lin M, Chu CC, Chang SL, Lee HL, Loo JH, Akaza T, Juji T, Ohashi J, Tokunaga K., “he origin of Minnan and Hakka, the so-called "Taiwanese", inferred by HLA study” Tissue Antigens 2001; 57: 192-199.
Tsai Ting-I, “racing Taiwanese bloodlines” The Taipei Times, 6 May 2001.
Norman, J., “hinese” Cambridge language surveys, Cambridge University Press, 1988.
Norman, J. , Mei Tsu-lin. “he Austroasiatics in ancient south China: some lexical evidence” Monumenta Serica, 1976, 32.274-301.
Sagart, L., “an, Hakka and the formation of Chinese dialects” tài liệ qua liên lạ cá nhân (chư đ?ng trên tạ chí).
Wi-vun Taiffalo Ching, “anguage, Literacy and nationalism: A comparative study of Taiwan and Vietnam” Vietnam Journal, Vol. 1, Oct. 2001.
Melton, T., Clifford S., Martinson J., Batzer M., Stoneking M., “enetic evidence for the proto-Austronesian homeland in Asia: mtDNA and nuclear DNA variation in Taiwanese aboriginal tribes” Am. J. Hum. Genetics, 63 : 1807-1832, 1998.
Sagart, L., “he vocabulary of cereal cultivation and the phylogeny of East Asian languages” 17th Indo\-Pacific Prehistory Association Congress (IPPA 17), 9-15 September 2002, Taipei.
Oppenheimer, S., Richards, M., “ast trains, slow boats, and the ancestry of the Polynesian islanders” Science Progrss, 2001, 84(3),157-181.
Gibbons, A., “he peopling of the Pacific” Vol. 291,No. 5509. 2 march 2001,1735-1737.
Bellwood, P., “he Austronesian dispersal and the origin of languages” Scientific American 265, 70(1991).

No comments:

Post a Comment