Hiện nay trên nhiều diễn đàn có bài viết được tóm gọn hai ý
sau: (1) Không thể và không nên kiện Trung Quốc ra Tòa Quốc tế, và (2) Những
thông tin về hành vi ngang ngược của Trung Quốc đối với ngư dân cũng như chủ
quyền Việt Nam do các nhà báo đưa ra trong nhiều trường hợp đã có sự nhầm lẫn.
Về luận điểm thứ nhất: “không thể và không nên kiện Trung Quốc
ra Tòa quốc tế”, được tác giả biện minh bằng các lý do sau:
Lý do thứ nhất là, “Chúng ta đang bị lệ thuộc quá nhiều
vào Trung Quốc. Nếu chúng ta chỉ cần “lên gân” với Trung Quốc thì có thể hàng
chục triệu gia đình sẽ lâm vào cảnh lầm than bằng những đòn đánh vào kinh tế”.
Chưa nói đến ảnh hưởng từ những đòn trừng phạt kinh tế của
Trung Quốc liệu có lớn đến mức mà tác giả lượng định (hàng chục triệu gia đình
sẽ lầm than?); và trách nhiệm chủ yếu của chính quyền Việt Nam trong việc “lệ
thuộc quá nhiều” vào Trung Quốc như hiện nay, lập luận này tiềm ẩn những nguy
hiểm trong vấn đề đối ngoại: nó tạo ra khuôn khổ cho một thái độ nhân nhượng vô
hạn định đối với nước lớn và xác lập thứ tự ưu tiên cho lợi ích kinh tế đối với
chủ quyền quốc gia.
Lý do thứ hai của tác
giả là, “Ngay cả nếu
chúng ta “kiện thắng” thì tòa án Quốc tế cũng không có chức năng hành pháp”.
Bỏ qua nhầm lẫn về khái niệm (thuật ngữ “hành pháp”/executive
thông thường được dùng để chỉ chức năng và thẩm quyền của chính phủ; còn trên
website của mình, Tòa án Quốc tế về Luật biển ITLOS nói rằng “Tòa không có
phương tiện/cách thức để thi hành các phán quyết của nó”/ the Tribunal has no means
of enforcing its decisions).
Vấn đề đặt ra là, nếu như phán quyết của ITLOS
hoàn toàn không có ảnh hưởng gì thì cớ sao nó lại tồn tại đến bây giờ và mỗi
năm còn tiêu tốn đến hàng chục triệu euro? Sao không giải tán nó đi?
Cần đặt câu hỏi này trong bối cảnh nền chính trị toàn cầu hiện
đại, nơi mà quyền lực mềm đang nổi lên như một nhân tố quan trọng trong quan hệ
quốc tế . Ngay cả những quốc gia nổi tiếng độc đoán như Trung Quốc và Nga thời
gian gần đây cũng phải chú ý đến sức ảnh hưởng của thứ quyền lực này. Mà quyền
lực mềm thì luôn gắn liền với các giá trị phổ quát, nhân bản, bao gồm cả công
lý, được thể hiện phần nào qua các phán quyết của các Tòa án Quốc tế.
Đúng là, thắng lợi của Việt Nam trong một phiên tòa của ITLOS
chưa chắc có thể đem về chủ quyền thực tế ngay cho Việt Nam, nhưng ít nhất sẽ tạo
ra một hậu thuẫn quốc tế hết sức rộng lớn và vững chắc cho tuyên bố chủ quyền của
Việt Nam, đồng thời khiến yêu sách của Trung Quốc trở nên lố bịch trong mắt
công luận thế giới.
Lý do thứ ba là, “Cùng với đó, họ sẽ dùng ảnh hưởng của mình
để gây sức ép lên cộng đồng Quốc tế và cô lập Việt Nam, bao vây kinh tế… Trong
khi đó, cái mà chúng ta cần nhất bây giờ là tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng
Quốc tế”.
Không rõ vì sao tác giả cho rằng, một khi Việt Nam kiện Trung
Quốc ra ITLOS thì Trung Quốc sẽ “gây sức ép lên cộng đồng Quốc tế và cô lập Việt
Nam, bao vây kinh tế…”.
Cũng không rõ bằng cách nào mà Trung Quốc có thể làm được điều
này, và “cộng đồng quốc tế” nào sẽ cô lập Việt Nam, chỉ vì Việt Nam lựa chọn
con đường tài phán – một giải pháp văn minh trong quan hệ quốc tế - để giải quyết
tranh chấp chủ quyền với Trung Quốc?.
Đúng ra, một khi đã thừa nhận rằng “cái chúng ta cần nhất bây
giờ là tranh thủ sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế”, tác giả phải ủng hộ giải
pháp nhà nước Việt Nam kiện Trung Quốc ra ITLOS và tìm kiếm chiến thắng ở phiên
tòa này như là cách thức tốt nhất để thu được sự chú ý và ủng hộ của dư luận quốc
tế trong một thế giới văn minh, trọng pháp.
Về luận điểm thứ hai, tác giả đề cập hai chuyện:
Một là, các tàu đó bị bắn phá do xâm phạm vào “lãnh hải có được
vì chiếm đóng trái phép” của Trung Quốc, nhưng lại là “lãnh hải dựa trên cơ sở
pháp lý quốc tế và căn cứ lịch sử không thể tranh cãi” của Việt Nam. Cho nên
báo chí sẽ phải đưa tin là tàu cá ngư dân bị bắn trong vùng lãnh hải “của Việt
Nam”. Thậm chí Bộ Ngoại giao cũng phải tuyên bố như vậy. Và chính sự nhập nhằng
này cũng khiến nhiều người cho rằng chúng ta quá hèn kém khi để cho ngư dân bị
vạ lây như vậy.
Chính phủ tuyên bố một khu vực thuộc chủ quyền Việt Nam. Ngư
dân tiến vào khu vực ấy đánh bắt cá thì bị phía Trung Quốc bắn mà hoàn toàn
không nhận được sự bảo vệ nào từ phía Chính phủ. Một chính phủ như thế, nếu
không hèn, không kém, còn biết gọi là gì?
Trong khi đó tác giả lại nhận định rằng, chúng ta cũng chấp
nhận việc “gây hiểu lầm” về năng lực bảo vệ ngư dân.
Không rõ sự “hiểu lầm” mà tác giả muốn nói đến là gì.
Song, mấy năm qua, có không ngớt những thông tin đau lòng về ngư dân Việt trên
biển Đông, bị Trung Quốc đuổi bắn, bắt giam, đòi tiền chuộc. Ngư dân có lẽ
không cần chính phủ phải “gây hiểu lầm” về năng lực bảo vệ họ, mà họ cần được bảo
vệ một cách thực chất.
Hai là, “Tương tự với việc Trung Quốc xua đội tàu cá hàng chục
chiếc “tràn vào khu vực Trường Sa và Hoàng Sa” của Việt Nam để đánh bắt trái
phép. Trong thực tế, quanh năm suốt tháng đều có tàu cá của Trung Quốc “mon
men”đến gần các đảo của Việt Nam. Điều tương tự xảy ra nếu các tàu này đi vào
lãnh hải của các đảo thuộc chủ quyền Việt Nam nhưng bị đánh cướp bằng vũ lực và
chiếm đóng trái phép trong quá khứ”.
Những lập luận này của tác giả chỉ có thể nói lên một điều rằng,
các nhà báo Việt Nam vừa qua chẳng những đã không cường điệu mối đe dọa từ chiến
lược “coi biển Đông là ao nhà” được thực hiện bằng các tàu cá của Trung Quốc,
mà còn chưa thể hiện đầy đủ mức độ nghiêm trọng của chiến lược này. Nó cũng chứng
tỏ năng lực của chính phủ Việt Nam trong việc đối phó với chiến lược thâm hiểm
của Trung Quốc, thể hiện qua tình trạng xâm phạm “quanh năm suốt tháng” của tàu
cá Trung Quốc như chính tác giả đã đề cập.
ĐÔI DÒNG
Muốn chia sẻ thêm với tác giả bài viết trên một vài điểm
như sau:
Thứ nhất, về lý do phê phán chính quyền.
Thực ra, lý do mà nhiều người phê phán sự nhu nhược của chính
quyền trong vấn đề biển Đông không đến từ việc phát ngôn viên Lương Thanh Nghi “nhai
đi nhai lại” thông điệp phản đối – điều cần thiết theo thông lệ quốc tế để có
thể thực hiện các giải pháp tài phán về sau – mà chủ yếu đến từ việc chính quyền
đã không hành động đủ mạnh mẽ theo sau những tuyên bố này, đặc biệt là khi so
sánh với những động thái quyết liệt từ một quốc gia khác trong khu vực là
Philippines.
Bên cạnh đó, liệu chính quyền có nhu nhược hay không khi năm
2005, chín ngư dân Việt Nam bị Cảnh sát biển Trung Quốc bắn chết, và rồi tám
năm sau đó, với biết bao tiền của được đổ vào để hiện đại hóa hải quân, ngư dân
Việt Nam vẫn phải đơn độc trước làn đạn của tàu chiến Trung Quốc trong vụ việc
xảy ra với tàu cá QNg 96382 TS của ngư dân Lý Sơn tháng 3 năm nay.
Ngoài ra, liệu chính quyền có nhu nhược hay không khi người
dân đi biểu tình chống Trung Quốc bành trướng biển Đông thì bị chính quyền bắt
giữ, đánh đập và chụp mũ “phản động”?
Tôi nghĩ, đây mới chính là những nguyên nhân cho thái độ phê
phán trên.
Thứ hai, về thái độ ứng xử với Trung Quốc.
Không thể phủ nhận sức mạnh kinh tế là một con bài quan trọng
trong tranh chấp chủ quyền, và không dễ chút nào cho một chính quyền khi phải
cân đo giữa lợi ích kinh tế và chủ quyền quốc gia trong tranh chấp với với một
nước lớn hơn. Song, việc tỏ thái độ mạnh mẽ hơn đối với Trung Quốc trong vấn đề
chủ quyền lại có thể đem đến những cơ hội mới.
Đầu tiên là tạo ra được một đồng thuận xã hội mạnh mẽ của người
Việt trong và ngoài nước, trước mối đe dọa ngày càng lớn từ phía Trung Quốc. Đồng
thuận xã hội là điều cốt yếu cho bất kỳ quốc gia nào muốn ổn định và phát triển.
Sau nữa là mở ra những cơ hội mới để nâng tầm quan hệ với các
đối tác khác trong khu vực và trên thế giới. Hơn lúc nào hết, Việt Nam cần xóa
bỏ hình ảnh “đồng chí tốt – anh em tốt” với Trung Quốc vốn tiềm ẩn khả năng cô
lập Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc giải quyết các tranh chấp với nước
này.
Chính sách đối ngoại quả thực không dễ để bàn luận qua đôi ba
dòng. Ở đây, tôi chỉ đưa ra một khả năng khác cho thái độ của chính quyền Việt
Nam đối với Trung Quốc, để có thể tìm kiếm được sự ủng hộ rộng rãi hơn từ nhiều
phía, so với thái độ “đồng chí tốt-anh em tốt” đặt căn bản trên ý thức hệ hiện
nay.
Nguyễn Anh Tuấn
Khoa Luật Học viện Hành chính Quốc gia, Hà Nội
No comments:
Post a Comment