Friday, January 17, 2014

Sài Gòn quay cuồng không ngừng nghỉ

Gerhard Waldherr
Phan Ba dịch từ chuyên san du lịch “Việt Nam” của nhà xuất bản Merian
Hơn 30 năm sau khi chiến tranh chấm dứt ở Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh lại là Sài Gòn lung linh trong ánh sáng, quay cuồng không ngừng nghỉ.
Thỉnh thoảng, hắn nghĩ rằng lúc nào cũng là bảy giờ chiều và đã đến lúc uống một ly cocktail trên sân thượng của “Majestic”. Một làn gió nhẹ thổi lên từ sông Sài Gòn…
Đấy là giấc mơ của Thomas Fowler, người hùng trong quyển tiểu thuyết “Người Mỹ trầm lặng” của Graham Greene. Fowler, một phóng viên người Anh đã về già, yêu nét duyên dáng của một Sài Gòn thuộc địa và của một người con gái Việt Nam mang tên Phuong mà làn da của cô ấy thơm như mùi thuốc phiện và là người mà ông ấy cảm nhận như “tiếng reo của hơi nước trong ấm nấu trà, tiếng lách cách của một cái tách, một giờ nhất định của đêm khuya và lời hứa hẹn sự yên tịnh”.
Bây giờ là 19 giờ và đã đến lúc uống một ly cocktail. Những chiếc thuyền ngủ ở cạnh cảng, và hoàng hôn vẫn còn mang vẻ đẹp huyền ảo như Greene đã mô tả. Ngay cả khi tôi không ngắm nó từ “Majestic”, mà là từ quầy rượu “Saigon Saigon” trong tầng thứ chín của khách sạn Caravelle. Và mặc dù Sài Gòn từ lâu đã có tên là thành phố Hồ Chí Minh, Place Garnier ở phía dưới trước nhà hát được đổi tên thành Lam Sơn và Rue Catinat ở ngay đấy thành Đồng Khởi. Đèn quảng cáo đập vào mắt từ những tòa nhà cao tầng – Sanyo, Citibank, Vietnam Tourist. Cô ấy đến quầy rượu trong lúc ban nhạc Philippines chơi “Black Magic Woman” của Santana.
“Em có được phép ngồi xuống đây không?”
“Xin mời.”
“Làm gì đó?”
“Ghi lại cuộc sống về đêm.”
“Cuộc sống về đêm tốt, con gái đẹp.”
Nó bao giờ cũng có một cuộc sống về đêm tốt và những người con gái đẹp, thành phố này, cái thích được gọi là gái hạng sang của Việt Nam, người tình mà tất cả đều đã yêu – người Pháp, người Mỹ. Và mới đây là khách đến thăm từ khắp nơi trên thế giới. Ngày xưa, ngồi trên sân thượng của Caravelle là thông tín viên từ khắp nơi trên thế giới, nhìn vào những nòng súng lóe sáng lên trên đồng bằng sông Cửu Long và khoe khoang rằng đấy là cuộc chiến tranh duy nhất mà người ta có thể tường thuật nó từ chiếc ghế cạnh quầy rượu. Bây giờ ngồi ở cạnh quầy rượu là những doanh nhân giàu có, trước họ là những thức uống có tên “B 52″ hay “Good Morning Vietnam”.
Người phụ nữ trẻ gọi một “Miss Saigon” – brandy, curacao, nước thơm và cam. Một hoàng hôn trong một cái ly. Cô ấy tên là Hoa, không có mùi hương của thuốc phiện và tự ý đưa cho tôi một mảnh giấy chép tay ghi lại số điện thoại di động của cô ấy. Greene viết về những hình dáng gầy và đẹp, và về Phuong của ông ấy: “Mon enfant, ma soeur – làn da màu hổ phách. Sa douce langue natale.” Hoa tựa người ra phía trước, khoảng hở ngực màu hổ phách, cô ấy nhìn tôi từ đôi mắt đen láy. Ban nhạc chơi bài “With or Without You” của U2. Hoa nói: “Gọi em, em có thể làm cho anh hạnh phúc.”
Khi đêm về, đầu tiên có một nét óng ánh màu tím nằm trên sông nước và nhà cửa, rồi màn đêm ập lên thành phố. Không còn cảm thấy gì nữa từ cái nóng nực ẩm ướt của ban ngày mà tất cả đã chảy tan ra ở trong cái màn sương từ bụi và khói xe ấy. Rồi người dân bản xứ ngồi trước những quán ăn nhỏ trên lề đường. Rồi những người bán hàng nặng nề bước đi với những cái thúng trên cây đòn gánh của mình qua giao thông tan tầm.
Tuy vậy, sự yên tịnh còn lâu mới trở lại trong thành phố này, thành phố lúc nào cũng đã bận bịu hơn tất cả các thành phố khác của Việt Nam, cởi mở hơn với tất cả những người xa lạ, thích thử nghiệm hơn. Và thế là người ta đi đến quán karaoke sau buổi ăn tối, nơi họ hát những bài như “Vì yêu” hay “Không cần phải hứa đâu em”. Tình yêu. Ngoài ra thì người ta còn hát về cái gì nữa? Băng ghế công viên đầy những đôi; chuyển động và người tụ họp ở mỗi một góc đường, ánh đèn neon sáng rực trên các club và discotheque.
“Chúng tôi rất tự hào”, Pham Quang Minh nói, “tất cả đều tăng trưởng.” Người là sales manager của Sheraton thuật lại rằng Pepsico sắp sửa xây dựng mạng lưới của họ trong thành phố, Intel đã nâng đầu tư lên. Thị trường chứng khoán bùng nổ. Ngành xây dựng đang phát đạt. Đã có kế hoạch cho cây cầu qua sông Sài Gòn và cho một đường tàu điện ngầm. Việt Nam là con hổ tăng trưởng của châu Á. Tính toán của Pham: “Nhiều tiền hơn, nhiều cửa hàng hơn, nhiều nhà hàng hơn, nhiều quán rượu hơn, điều đấy có nghĩa là nhiều cuộc sống về đêm hơn.” Jermaine St. Omer, người trình diễn với ban nhạc Canada Saint’O trong club của Sheraton, nói rằng: “Họ thèm khát, họ muốn tiến lên phía trước. Họ muốn cuối cùng rồi cũng quên đi những khoảng thời gian không tốt, nhất là giới trẻ.”
Cũng như Pham, một người đàn ông nhỏ con, nhanh nhẹn trong bộ comlê kẻ sọc, người là hiện thân cho phân nửa dân số sinh ra sau 1975. Sau khi chiến tranh chấm dứt. “Chúng tôi bây giờ có nhiều khả năng hơn”, Pham nói, “có nhiều việc làm mới.” Thuộc trong đó là những người đi xe gắn máy, vẫy tay khắp nơi. Họ gọi dịch vụ của họ là Xe Ôm, và nếu ai đó tin tưởng họ, thì thỉnh thoảng sẽ lạc vào trong những quán rượu ồn ào đầy người Việt, được mời ăn sò ốc hay tôm cua nước ngọt và biết rằng cũng có Bia Ôm nữa. Tiếng Việt thích những diễn đạt hình tượng. Xe Ôm? Vì người ta ôm chặt nhau trên chiếc xe gắn máy. Bia Ôm? Ai uống với nhau sẽ kết bạn. Một, hai ba – zô!
Đi chơi bằng xe gắn máy với William
Lại là bảy giờ tối, trong “Qing Bar”. Bầu không khí thanh lịch. Rượu vang Ý, New Zealand, Chile. Tôi đọc trên thực đơn, rằng qing là một từ tiếng Hán và là một hình thức lịch sự để mời uống. Một người đàn ông nhợt nhạt, không còn trẻ nữa, bắt chuyện với tôi: “Anh đang làm gì đó?” William, doanh nhân từ Los Angeles, sống ở Sài Gòn sáu tháng trong một năm. “Sang đây với chúng tôi nào.” Ngồi ở bên đấy là một người Tây Ban Nha, một người Pháp, hai người phụ nữ làm việc cho một nhóm khách sạn Việt Nam. Khách quen. Họ không còn hoàn toàn tỉnh táo nữa, to tiếng, vui vẻ. Các cô bồi bàn người Việt ngao ngán cuối đầu và trợn tròn mắt lên.
Tất cả những cái đó làm sao mà hợp với đất nước này được, đất nước mà ngôn ngữ của nó là một tiếng hát mềm mại, một bản giao hưởng của những giọng nói nhỏ nhẹ và sắc thái mà trong đó cũng cùng những từ ấy có thể có một ý nghĩa hoàn toàn khác qua nhấn giọng? Nơi nhìn thẳng vào mắt và bắt tay thật chặt được cảm nhận như là sỗ sàng? Và, theo Greene: “Người ta có ấn tượng, rằng họ không bao giờ ăn mặc lôi thôi, không bao giờ nói một từ không ngay thẳng, không bao giờ là nạn nhân của một niềm say mê không chính đáng.” William không đọc Greene, anh ấy nói: “Ngày mai, chín giờ, tôi đến đón anh.”
Trời dễ chịu. William chờ trước khách sạn. Anh ấy mang xe gắn máy của anh ấy đến và đã ghi chú mười một trạm cho chuyến đi chơi cho đến tận cùng của đêm khuya. “Let’s go.” Vào trong cái lộn xộn đang bấm còi, kêu ầm ỉ đấy, cái mà trong đó tất cả mọi người đều lái xe theo ý họ muốn và người từ xa đến không nhận ra một hệ thống nào cả. William: “Họ gọi cách giết thời gian bằng cách lượn xe đây đó là ‘Đi vòng vòng’.” Các thắng cảnh của quận Nhất, vẫn còn là trái tim của Sài Gòn, lướt ngang qua: Nhà thờ. Bưu điện. Dinh Thống Nhất.
Mười lăm phút sau đó, chúng tôi ở trong quán “MTV”, nơi hàng trăm thiếu niên uống “smoothies” và xem bóng đá. Họ ăn mặc chải chuốt. Lacoste là thương hiệu đang thời thượng. Các cô gái lướt qua lại trong những chiếc áo váy chật cứng của họ. Máy truyền hình khắp nơi. Premier League, Boston Wanderers thi đấu với ai đấy. Chúng tôi bước lên cầu thang. “Napoli”, tối đẹp, thơ mộng. Trạm kế tiếp ở trong cùng tòa nhà, cùng tầng lầu: “Aqua”, trang trí trắng như tuyết, bể nuôi cá trong tường, nhiều người Việt trẻ. Họ trông giống như trẻ con và đứng loạng choạng trước những cái bàn với Hennessy-Cognac.
William không phải tên là William. Anh ấy nói, tôi phải hiểu điều đó. Anh có một người vợ Hàn Quốc và đứa con ba tuổi ở West Hollywood, sắp tới đây, anh ấy muốn mở một quán ăn Mexico tại Sài Gòn. “Đất nước này chín muồi cho taco với tequila rồi”, anh ấy nói, trong khi chúng tôi đi tiếp vào trong một club có tên là MGM. William nói: “Chúng tôi phải nhập quả tomatillo cho salsa bằng đường hàng không, họ không có chúng ở đây.” Cái mà họ có ở đây là tiền. Cả trên những cái bàn ở đây cũng đều có Hennessy ở khắp nơi; chai rẻ nhất có giá tính ra là 60 euro, chai đắt nhất 1200 euro. Xì gà nằm trong các hộp kính. Một bác sĩ ở đây thu nhập tròn 54 euro.
Đối với William, điều đấy nói chung là cũng hòa hợp được với nhau. Anh ấy nói giữa nhiều ly Whisky-Cola, rằng kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO, đã có một kỷ nguyên mới bắt đầu trong quốc gia xã hội chủ nghĩa này. Cuộc sống về đêm của Sài Gòn cũng phản ánh điều đấy. “Đầu tư quốc tế đang chảy vào, nhiều phần trong đó thẩm thấu qua những kênh đen tối và rồi lại lộ diện về đêm.” Xã hội này, anh ấy nói, rên xiết dưới những quy định và thủ tục hình thức. “Nó cần một cái van xả.” Chúng tôi đứng trong một club có tên là “Gossip”. Ánh sáng laser bắn qua gian phòng. Ánh sáng nhấp nháy. Tiếng bass bị ngắt âm từ những cái loa. William vẫy tay gọi hai cô gái lại. Một cô tên là Trinh, cô kia cho xem ảnh mà cô ấy đã lưu lại trên chiếc điện thoại di động của mình. Chụp cô ấy. Lúc đang múa thoát y.
Chúng tôi muốn đi tiếp. William nở nụ cười California của anh ấy, nhận số điện thoại của cô gái với những tấm ảnh trần truồng, nhét tiền cho cô ấy. Anh ấy có sự tự tin của một người đàn ông phù hợp với mô tả của Greene về một tùy viên thương mại Hoa Kỳ: “… người có bạn bè vì sử dụng đúng loại khử mùi hôi nách”. Chúng tôi đếm thăm thêm ba quán nữa mà trong đó chật đến mức người ta dẫm lên chân của nhau. Ở đây cũng có các cô gái mà người ta học được từ họ những câu như Anh yêu em trước khi có thể nói “Xin chào”. Trạm cuối cùng là “Apocalypse Now”, huyền thoại. Đèn đỏ đã chiếu sáng ở đấy khi chính phủ vẫn còn suy nghĩ về việc mở cửa cho nền kinh tế, khi vẫn còn lâu mới có đổi mới. Đạo diễn của phim cùng tên, Francis Ford Coppola, nói rằng ông ấy đã quay lại việc Hoa Kỳ chiến đấu ở Việt Nam như thế nào: “Chúng tôi có nhiều tiền, nhiều vật liệu và  mặc dù vậy vẫn không kiểm soát được những gì xảy ra trong rừng rậm.”
Cái lộn xộn bây giờ trong “Apocalypse Now” chắc cũng trông giống như thế. Tất cả khách du lịch đến Sài Gòn chắc phải đang có mặt ở đây. Sàn nhảy đầy người. Người ta có cảm giác như đang ở trong đường hầm Củ Chi, nơi Việt Cộng đào lối dưới mặt đất, chỉ là trần nhà ở đây thì cao hơn thôi. Ồn ào như một trận bom. Người quản lý đến, nhưng không muốn nói chuyện. Lúc đó là 2 giờ 30, “We Will Rock You” vang ầm ỉ từ những cái loa. Hai cô gái từ “Gossip” cũng có ở đây. Đã đến lúc phải đi.
Con đường trước “Apocalypse” không một bóng người. Chỉ có một người phụ nữ già đạp xe ngang qua, khối hàng trên yên nhô lên khỏi chiếc nón lá của bà ấy. Cái xích xe đạp kêu lạch cạch. Một phóng viên đã về già muốn đi về nhà. Một giờ nhất định của đêm khuya và cuối cùng là hứa hẹn của sự yên tịnh.
Vào chiều tối ngày hôm sau tôi ngồi trên sân thượng của Majestic. Ở dưới là con sông, đen như hắc ín, ánh sáng đèn neon của các tấm bảng quảng cáo phản chiếu trên mặt nước. Những người bồi bàn nói thì thầm khi họ phục vụ các thức uống. Một đôi đã có tuổi đang khiêu vũ. Họ quay trong làn gió mềm mại, ấm áp. Và tôi lại nghĩ về Thomas Fowler. Greene để cho ông ấy nói: “Tôi không bao giờ muốn đi về nhà nữa.”
Gerhard Waldherr

No comments:

Post a Comment