Monday, September 9, 2013

Nhà văn Nhật Tiến: GIẤC NGỦ CHẬP CHỜN (KỲ 1)


Có thể nói , trong kho tiểu thuyết của Nhật Tiến, “ Giấc ngủ chập chờn “ chỉ đứng sau “Thềm hoang “ – Giải thưởng văn chương toàn quốc VNCH năm 1960-1961 .

Đó là cuộc chiến tranh “giải phóng miền Nam, chống Mỹ cứu nước” ? - đó là cuộc chiến tranh “xâm lược của cộng sản Việt Nam” ? - đó là cuộc chiến tranh giữa hai phe “thế giới tự do” và “ xã hội chủ nghĩa...” ? - hàng trăm cuốn truyện đã viết về cuộc chiến tranh này theo cách nhìn tùy thuộc ở phía “bên này” hay “phía bên kia”.
“Giấc ngủ chập chờn” không phe phái như vậy, cuộc chiến trong đó được diễn tả qua cái nhìn của... lão Đối.
         …
Lão Đối chẳng phải “quốc gia” càng không phải “cộng sản”, lão thuộc về phe “con người” - con người Việt Nam, những con người sống lam lũ, tử tế, yêu thương lẫn nhau, gắn bó với quê hương, là cây cổ thụ tượng trưng dân tộc mà “một khi có tin dữ bay về, lão lại có cảm giác như... chịu đựng thêm một vết chém mới của tiều phu”.
 ...Và sau cùng, Giấc ngủ chập chờn với giá trị tự thân đã bày ra một nghịch lý: vì sao mãi sau 45 năm, kể từ ngày nó ra đời trên quê hương lúc đó còn đắm chìm trong máu lửa, mà mãi tới nay vẫn còn nhiều người chưa biết tới nó?



                                     trích  TRẦN HỒNG DƯƠNG

        


·                                      CHƯƠNG 1


Lão Đối chất thêm một nhánh củi khô nữa vào bếp. Ngọn lửa cháy hồng lên. Tiếng nổ lép bép làm bắn tung tóe những chấm sáng đỏ rực. Nồi thịt bắt đầu reo. Lão mở vung ra lấy đũa khuấy đều. Những miếng thịt kỳ nhông trắng nõn hiện ra thấp thoáng dưới ánh lửa. Mùi nước mắm chín bốc lên ngạt ngào. Lão hít thật mạnh cho cái hương vị mặn mặn ấy thấm vào thớ phổi rồi lão đậy vung lại và đưa đôi đũa lên mồm mút chùn chụt. Xong xuôi lão ngồi thu mình im lặng trong xó tối. Bầu trời bên ngoài đen như mực. Qua khung cửa bếp, thỉnh thoảng lại có một tia chớp lòe lên soi sáng trong nháy mắt dẫy núi mù mịt ở đằng xa. Trên mái lá, trận mưa hồi chiều còn làm sũng nước trong những ống nứa ẩm mục. Từng giọt nước nhỏ xuống mặt thềm tạo thành những tiếng tí tách đều đặn. Ngoài bãi cỏ, tiếng ếch gọi mưa ì-ộp suốt từ buổi chiều không dứt. Trên từng cao mù mịt, thỉnh thoảng lại có tiếng động cơ máy bay ở độ rất cao nặng nề đi qua. Rồi chỉ một lát sau, từng loạt bom trút xuống tạo thành những âm thanh ầm ì từ rất xa vẳng lại. Mặt trận Phú Sơn đã mở từ hai tuần nay. Ngoài quốc lộ số 1 chẳng ngày nào là không có những đoàn xe di chuyển qua cầu chợ Lùng. Đứng ở ấp Vĩnh Hựu nhìn ra, chỉ cách lộ có hơn ba trăm thước, lão Đối quan sát thấy chẳng xe nào là không đầy nhóc lính Biệt kích, Nhẩy dù, Thủy quân lục chiến. Kỳ này lão còn thấy chở đi cả trọng pháo 81 ly. Những khẩu súng nặng nề lăn theo những chiếc xe mười hai bánh chuyển động rầm rầm và nghiến cót két trên mặt cầu. Mùa mưa bắt đầu rồi. Đánh lớn ở mọi chỗ rồi. Nước mưa đổ xuống từ trên nguồn làm mực nước ở chân cầu chợ Lùng dềnh lên cao, chan hòa lên những bờ cỏ, những hầm hố, công sự. Lớp dây thép gai bao bọc chằng chịt thành một vị trí phòng thủ quanh chân cầu cũng bị nước phủ kín. Lão Đối nghĩ bụng chắc cấp này lính cơ hữu trong đồn Phi Mã rút cả lên mặt đường mà nằm gác cầu.

Đồn Phi Mã ở cách cây cầu chợ Lùng hơn hai cây số, nằm bên lề quốc lộ số 1. Đứng ở ấp Vĩnh Hựu nhìn qua, khu đồn trông như một trại nghỉ mát với những hàng phi lao cao vút. Tháp canh sừng sững vươn lên qua khỏi những dãy nhà mái ngói mầu rêu xám. Kế cận nơi đó là nhà máy phát điện. Về đêm tiếng máy chạy ầm ì vẳng lại, kéo dài từ chập tối đến đúng mười hai giờ khuya. Trong khoảng thời gian ấy, đồn Phi Mã tỏa ra một vùng ánh sáng mầu vàng úa hắt lên những chòm cây phủ sương đêm mờ mịt. Thỉnh thoảng cái ánh sáng yếu đuối ấy lại bị át đi bằng những quả hỏa châu bắn lên, soi sáng rực cả bầu trời. Một đôi lúc, vài binh sĩ nằm trong những pháo đài quanh đồn lại nổ những tràng đại liên, trung liên vào những mục tiêu vu vơ ở lên kia bờ suối, chỗ cỏ lau và sậy mọc rậm rì. Tiếng nổ xé tan bầu không khí tĩnh mịch rồi vọng đi thật xa, tạo thành những tiếng cùng cục nghe như những âm thanh tấm tức nghẹn ngào muốn vùng vẫy mà bị chẹn ngẵng lại. Tuy vậy, từ ngày thành lập đồn Phi Mã, ở đó chưa xảy ra trận đánh lớn nào. Lực lượng VC quanh quẩn trong mấy ấp gần đó chẳng lên quá một trung đội. Điều này lão Đối biết rõ nhất bởi vì thằng Đực, con trai độc nhất của lão, đã bỏ gia đình mà xung vào đội du kích xã. Hồi nó mới ra khu lão đã chửi nó:

- Mầy theo ai thì mặc cha mầy. Mà điều đi theo bên đây thì còn có đôi giầy, cái áo mà bận. Chớ mầy qua bên đó, chết trần chết truồng ai thương?

Đực nghe bố nói chỉ im lặng một cách lầm lì. Không phải nó không muốn cãi lại. Nhưng nó cãi không được. Những mớ lý thuyết hồi nó học ngoài khu, lúc nghe thì thấy vô lỗ tai dễ dàng mà khi nhắc lại thì thật là khó. Chẳng phải ai cũng có tài ăn nói như Huấn, như Niên, như Hồng, những máy phát thanh chỉ cần thở ra là đã có mùi vị lý thuyết chính trị cao xa rồi.

* *
*
Cây củi mục cháy gần tới gốc thì nồi thịt kỳ nhông cũng bắt đầu sôi. Ánh lửa héo úa thu nhỏ lại dần dần, nhưng trong lòng bếp, những thỏi than hồng vẫn còn đỏ rực. Lão Đối uể oải bước ra đầu hè. Trời tối đen như mực. Ngọn đèn leo lét ở bên nhà mụ Vênh cũng đã tắt đi rồi. Tiếng đàn bà trẻ con lao xao ở quanh đó từ chập tối, bây giờ cũng yên hẳn.

Ấp Vĩnh Hựu về đêm không khác một vùng đất chết. Không có tiếng võng đưa, không có tiếng trẻ khóc, cũng không có cả tiếng ru ời-ợi như ngày nào. Vào giờ này, đèn đóm trong mọi nhà đều tắt hết. Các cổng ngõ đều đóng kín với mấy lần then cài. Mọi người đều như muốn thu nhỏ lại trong cái thời khắc nặng nề, đen tối về đêm. Bởi vì chẳng đêm nào lại không có tiếng súng nổ chát chúa trong đêm khuya tĩnh mịch. Không ở đồn Phi Mã thì ở cầu chợ Lùng. Những ngọn hỏa châu bay vọt lên mãi từng không, chiếu từng chùm ánh sáng tỏa ra khắp các bờ cây, bụi cỏ, le lói xuyên qua những tấm cửa liếp xộc xệch, in một màu vàng chết chóc lên những tấm đình màn cũ kỹ. Trong đêm tối, những viên đạn lửa đan xéo vào nhau đỏ rừng rực như những ánh ma trơi chuyển vận qua bầu trời tối đen như mực. Nhưng giây phút náo nhiệt đó chỉ kéo dài năm mười phút rồi bỗng lại chìm lắng hẳn đi. Bóng tối lại trùm xuống cảnh vật một mầu đen lạnh lẽo, đầy đe dọa chết chóc. Những cụ già trong ấp lại một phen chép miệng thở dài:

- Lại mấy thằng du xích xã loi nhoi. Chỉ xui cho đứa nào hứng phải đạn lạc.

Ở đây đạn lạc vào nhà gần như cơm bữa. Những viên đạo ghim vào gốc cây, xé rách hàng rào và chém lỗ chỗ vào những mảng tường vôi như những vết thương lở loét. Tuy vậy, dân trong ấp cũng chỉ mới thiệt có bốn mạng: một ông già, một cô gái, một thằng bé chăn trâu và một con trâu đực. Nhưng chỉ ngần ấy thôi, cũng đủ làm cho già nửa dân số trong vùng bỏ nhà hoang, rút lên tỉnh. Số còn lại chỉ là những người quanh năm sống bám vào mảnh đất, làm ruộng, làm vườn, bắt ếch, cá hay kỳ nhông. Ban ngày họ đổ ra sinh hoạt uể oải trên phố chợ. Về đêm, tất cả rút vào những căn nhà gạch chắc chắn.

Những người đàn bà sống như những cái bóng cô đơn. Năm thì mười họa, chồng con họ mới lén lút trở về. Bởi vì cả lính quốc gia cũng như du kích cộng sản, cả hai bên đều sợ hãi những ngõ ngách, những lùm cây trong ấp Vĩnh Hựu. Một kẻ đi tới. Một kẻ đặt súng vào một chỗ khuất nẻo. Một tiếng súng nổ. Và chung cuộc chỉ còn tiếng khóc than, kể lể của đám đàn bà, con trẻ. Còn những cụ già thì ngồi lặng đi, khuôn mặt dúm dó bỗng trở nên đanh lại, cằn cỗi như những gốc cổ thụ xù xì, bền bỉ.

Lão Đối vừa nằm chợp đi được một lát thì nghe có tiếng chuột rúc ở đầu hè. Lão choàng dậy, ra ghé tai vào vách gỗ. Thằng Đực rúc lên một lần nữa. Lần này lão Đối quơ cái then cửa và nhấc lên. Đực lẻn vào nhà nhanh như một con cáo. Hai cha con đụng người vào nhau. Lão Đối hỏi:

- Bữa nay về đông không?

Đực đáp:

- Có nửa “tiểu” thôi .

- Mầy ăn gì chưa?

- Tôi đói lắm. Nhà còn gì không?

- Có thịt kỳ nhông. Nhưng hết cơm rồi. Để tao nấu cháo nhé.

Đực không đáp, lần lại giường nằm ngả lưng xuống. Trong lúc ấy, lão Đối lui cui đi lấy gạo. Bỗng Đực vùng dậy nói:

- Thôi đi tía. Nhóm bếp giờ này không tiện. Để tôi đi kiếm tô cơm nguội.

Nói rồi nó xách súng lẻn ra ngoài. Lão Đối ra đứng cửa nhìn theo. Bóng dáng cao lớn của nó biến nhanh vào bóng tối. Lão lầm lũi trở lại giường ngồi bó gối châm một điếu thuốc. Đồng hồ trên tay lão chỉ hơn một giờ. Độ mười lăm phút sau thằng Đực trở lại. Lần này nó đem theo thằng Há. Tiếng Há nói:

- Sao không cho ngọn đèn lên?

Lão Đối sực tỉnh:

- Ý quên! Để tao đi thắp.

Que diêm được xòe lên và ngọn đèn hoa kỳ được thắp sáng. Lão vặn cho cái bấc thấp xuống rồi đặt lên đầu giường. Ánh sáng hắt hiu soi bóng hai gã đàn ông mới vào. Thằng Đực vẫn phanh trần trùng trục với cái quần xà lỏn cố hữu. Há thì bận quần đùi với chiếc áo cánh mầu đen. Tay Há mang một độn giẻ cuốn vòng từ bàn tay lên gần tới khuỷu. Lão Đối hỏi:

- Mầy làm sao vậy Há?

Há ngắm nghía cánh tay rồi mỉm cười:

- Tôi sơ ý bị thuốc súng nó phụt. Thử cái này đây.

Vừa nói nó vừa đặt một cái lon có hình dáng kỳ quái lên mặt bàn. Cái lon to bằng rưỡi ống sữa bò và buộc chằng chịt dây kẽm. Há tiếp:

- Chẳng kém bộc pha đâu. Rồi đêm nay bác biết.

Lão Đối mở to mắt lên nhìn nó:

- Mày liệng ngoài dốc cầu hả?

Há không đáp chỉ mỉm cười. Cặp mắt nó sáng lên một tia long lanh, dữ tợn. Lão Đối bỗng nhớ đến tia mắt ngổ ngáo của thằng Há ngày xưa, hồi tất cả bọn chúng nó còn nhỏ tuổi và thường chạy nhẩy huỳnh huỵch ngoài sân đất trong những đêm trăng sáng. Bây giờ, đứa theo bên này, đứa theo bên kia, có đứa đã ngã xuống và lão đã cằn cỗi thêm như đã sống tăng thêm gấp đôi tuổi. Lão cố nén một tiếng thở dài dâng lên tấm tức ở cổ.

Thằng Đực lần xuống bếp từ lúc nào, bây giờ đã bưng lên nồi thịt kỳ nhông còn nóng hổi. Lúc nó mở cái nắp ra, mùi thịt tỏa lên thơm ngào ngạt. Nó tháo ở đầu súng xuống một gói lá chuối tươi. Gói cơm nguội.
Nó nói:

- Cơm bên nhà Lầu đó. Thằng Lầu hẹn chiều ở đồn Phi Mã ra ăn cơm mà nó không về nên ế. Thôi! Cơm nào chả là cơm. Chẳng “Cuốc ra Cuốc vào” thì “Cộng sản Cộng sung” ăn cũng vậy.

Lão Đối lắc đầu chép miệng:

- Mầy hung hăng vô ẩu nhà nó, có phen đụng, nó bắn mất xác.

- Y cha! Tía nói dễ nghe hôn! Tui đang thèm gặp thằng Lầu đây. Nó có khẩu Carbine M2 bắn tự động ngon quá cỡ!

Lão Đối thở dài, cố nén một cảm giác nặng nề đang đè trĩu cõi lòng. Lão nhớ đến ngày xưa xa lắc và tuổi ấu thơ của bọn trai tráng. Hồi đó sinh hoạt trong ấp trù phú và êm ả. Ngoài sân vận động lúc nào cũng có bóng dáng trẻ con chạy nhẩy ồn ào. Các trận cầu giao hữu thiếu niên ở ba ấp gần đấy, kỳ nào bọn thằng Đực cũng đem chiến thắng về cho Vĩnh Hựu. Đực ngồi trên vai thằng Há, Lầu phất cờ chạy dẫn đầu. Theo sau là cả một đám đông đảo trẻ con hò hét nhẩy múa. Lần nào sự trở về trong vinh quang như thế, lão Đối cũng thết chúng nó một nồi cháo kỳ nhông thật lớn dưới vầng trăng sáng in rõ từng cọng cỏ ngoài sân đất. Bọn trẻ vừa húp cháo sì sụp vừa thi nhau kể lại những chiến công của từng đứa.

Những ngày êm ả như thế qua đi thật mau chóng. Tới tuổi trưởng thành, thằng Lầu thích bay nhẩy nên đăng vào lính. Nó đã dự nhiều trận đánh lớn ở dưới đồng bằng và được mấy cái anh dũng bội tinh. Nhờ thế, nó cậy cục xin đổi được về đồn Phi Mã để có dịp gặp người yêu cũ. Nàng vẫn chờ hắn để đi đến một cuộc hôn nhân tốt đẹp. Hai vợ chồng lấy nhau gần hai năm, bây giờ mới sắp có một mụn con.

Còn thằng Đực ở nhà được móc nối theo người ra khu rồi trở về gia nhập du kích xã. Được tin ấy, Lầu đã nói với lão Đối:

- Thằng Đực đã theo C.S thì cháu không còn tình nghĩa gì với nó. Cháu quí bác, mà điều bó buộc cháu phải nói với bác như vậy. Gặp nó, cháu không tha đâu. Cháu xin lỗi bác trước rồi đó.

Lão Đối đem lời ấy về học lại với con trai thì thằng Đực chỉ phá lên cười:

- Chèn đét ơi! Bộ tía tưởng nó cứ nói rồi là nó ăn thịt được tui ngay đó sao? Tía biểu cho nó hay, thằng Đực sẽ ăn gan của nó trước.

No comments:

Post a Comment