Tuesday, September 24, 2013

Nguyễn Khắc Nhượng, Thơ Như Một Cứu Rỗi


 

1.

Năm 2007, nhờ công lao và sự hy sinh trời biển (theo tôi,) của nhà văn và, cũng là nhà thơ Trần Hoài Thư, tôi được gặp lại một số bạn văn cùng thời, qua sưu tập “Thơ Miền Nam Trong Thời Chiến,” tập II. (*)

Nếu không kể những người đã khuất, trong số bằng hữu còn lại, tính tới ngày hôm nay, tôi có Nguyễn Khắc Nhượng. Nguyễn Khắc Nhượng với bài thơ “Bên Đường Gặp Người Đồng Hương.”

Tôi không biết, (cũng không hỏi bạn tôi,) bài thơ viết năm nào? Tôi đồ chừng bài thơ của Nguyễn Khắc Nhượng ra đời trong khoảng thời gian 1965 -1975.

Tính hẻo thì bài thơ của Nguyễn cũng đã ra đời gần nửa thế kỷ. Vậy mà cảm khái của bạn tôi trong thơ, vẫn còn róitươi với tôi! Cái cảm khái của một nhà thơ ngay tự thời thanh niên, đã nặng chĩu quang gánh nỗi buồn non nước!

Bài thơ năm chữ của Nguyễn Khắc Nhượng, chỉ có 5 đoạn. Đoạn chót 4 câu:

“Bạn hỏi không dám nhớ
“Đẩy đưa lời gần xa
“Thưa: mười năm lưu lạc
“Đâu cũng là quê nhà.”

Hiển nhiên, Nguyễn Khắc Nhượng làm thơ cho chính mình. Nhưng hôm nay đọc lại, tôi bỗng thấy như, bạn tôi làm bàithơ đó, cũng là cho tôi, cho Bùi Cung và, nhiều độc giả khác.


2.

Năm năm sau, tháng 3, 2012, tôi được tin Nguyễn Khắc Nhượng phải nhập viện. Mổ ung thư ruột. Dù đã trải qua, nhưng chẳng vì thế mà tôi không phập phồng hồi hộp, lo lắng cho Nguyễn Khắc Nhượng. Tôi chỉ tạm an lòng khi Bùi Cung trả lời thư, cho biết, Nhượng đã ra khỏi phòng chăm sóc đặc biệt, vài ngày sau khi mổ.

Thời gian qua, chúng tôi vui hơn khi chính Nguyễn Khắc Nhượng báo tin, đã trải qua chemo lần thứ ba.

Tôi không biết có phải, như tôi hằng tin rằng: Chữ có khả năng gọi chữ. Màu có khả năng gọi màu…Vì vậy, niềm vui cũng có khả năng gọi niềm vui - - Nên, cách đây hơn tuần, HT gửi cho tôi một thư ngắn, từ chỗ làm, với dòng chữ bold / đậm “…Anh Nhượng sắp in ‘Mưa Chiêm Bao’.”

Trong cơn mưa…chiêm bao của riêng mình, tôi thấy tôi hạnh phúc khi được gặp bạn, không chỉ qua một bài thơ mà, cảmột tuyển tập. Những bài thơ Nguyễn Khắc Nhượng viết tự những năm mới 17, tới lúc bạc đầu…


3.

Dù nhân loại đã bước vào thiên niên kỷ thứ ba, với sự phát triển tăng tốc tới chóng mặt của điện toán và người máy / robot; dù tình trạng sách, báo in trên giấy mỗi lúc một tuột dốc thê thảm, trước sự đắc thắng, lên ngôi rực rỡ của E-book hay báo Online,… Tôi vẫn thấy không vì thế mà, thi ca mất chỗ đứng trong đời sống tinh thần của nhân loại. Nhất là người Việt.

Tôi trộm nghĩ, tự thân, thi ca vốn mang tính cứu rỗi. Tựa nó là một tôn giáo không kinh bổn. Không cương, giới. Nhưng không phải ai cũng có thể ăn ở với thi ca thủy chung, dài lâu. Tôi cho rằng, ở được với người, với đời, đã khó. Ở được với thi ca, bền chặt còn khó hơn nữa!

Thi ca chẳng những không mang lại cho người làm thơ một lợi nhuận thiết thực nào, mà nó còn đòi hỏi nơi thi sĩ một tấm lòng thao thiết nhân ái. Một nỗ lực chuyển hóanhững đau thương thành hoa, hương… Chưa kể, người làm thơ còn gặp khó khăn hơn nữa, khi một mình, cô đơn trong cuộc trường chinh hư huyễn chữ, nghĩa.

Từ bước chân niên thiếu, 17, tới hôm nay, bạc tóc, bạc lòng, Nguyễn Khắc Nhượng vẫn ở với thi ca, như ở với nổi, chìm bất tận của cuồng lũ dòng đời. Với cá nhân tôi, đó là một hiếm, quý. Dù cho Nguyễn Khắc Nhượng thường trực tự cật vấn và, cuối cùng vẫn thường trực thú nhận thất bại:

“Muốn tặng em tấm lòng tinh khiết nhất
“đời vẫn như lá mục chảy theo dòng
(…)
“Ta trôi chảy giữa đôi bờ lận đận
“buổi hoàng hôn soi bóng nước sông người
“trong dòng nước ta nhìn ta bật khóc
“lòng đớn đau chợt thấy xót thương đời.”

(“Ngọc lan bên trời huyễn tưởng.”)

Thú nhận “thất bại” trước cuộc đời, trước nhân gian, đối với một thi sĩ, theo tôi, chính là mặt khác của niềm tin tận hiến. Để từ đó, cái tôi hay cái ngã cá nhân, nhập dòng với cái tôi, cái ngã lênh đênh chung của nhân quần:

“(Chúng ta chờ đợi gì ở thành phố không biết nói?
“khi anh muốn tự móc mắt
“để không còn thấy mình là ai)

(“Nhan sắc.”)

Bay theo “Mưa chiêm bao” của Nguyễn Khắc Nhượng, tôi gặp được rất nhiều câu thơ dữ dội, hiểu theo nghĩa những so sánh, liên tưởng rất…Nguyễn Khắc Nhượng:

“Mặt trời như gai độc…” (“Ở lại lưng đồi.”)

Hay:

“Tình chung trong giọt nặng
“rớt xuống buổi cuối ngày.”

(“Cuối ngày.”)

Hoặc nữa:

“Ai đã treo cổ kỷ niệm lên hai hàng trí nhớ?

(…)

“Khi hôm sau mặt trời đã đốt khô hai hàng nước mắt
“khi bày quạ bay đi
“để lại nụ cười em với rào kẽm gai ở lại.”

(“Gởi người tình phản bội.”)

Bước chân vào cánh rừng thi ca, có đôi người làm thơ chọn đường mòn hay lối sẵn. Đó là chọn lựa chẳng những không làm thành “thẻ nhận dạng thi sĩ” mà, nó còn tố cáo giới hạn tài năng và, tri thức.

Nguyễn Khắc Nhượng ngược lại. Trong “Mưa chiêm bao,” người đọc sẽ bắt gặp thêm nhiều, rất nhiều những ẩn dụ. Những “hình ảnh chìa khóa” mở vào cõi giới thi của riêng Nguyễn Khắc Nhượng. Như:

Bây giờ trái tim anh là một quả chuông
“của một ngày không còn thánh lễ.”

(“Thơ cho người tình cũ.”)


Hay:

Chao ôi da thịt như sương khói
“ai có nghe lòng ai đớn đau!”

(“Mộ ca cho Nga và những hồn phiêu bạt.”)

Hoặc giản dị như lời nói mà, thi tính lại đẩy lên tới mức cao nhất của đặc thù ngôn ngữ Việt:

Cái mưa cùng cái gió
“cái nắng cùng cái non
xanh rì trong cái cỏ
“che khuất đi cái mòn.”

(“Đồng vọng.”)

Tôi cũng rất thích cái tinh thần thi-sĩ-phương-đông của Nguyễn Khắc Nhượng. Tôi muốn gọi đó là tinh thần bất khả phân. Sự nhập một giữa ba thành tố thiên, địa, nhân. (Theo cách nhìn khác thì, những câu thơ sau đây của Nguyễn Khắc Nhượng, cũng là phong thái của một tâm thiền tự tại, an nhiên giầu tố chất thi sĩ):

Hoa rụng quanh bàn chân
“lòng trong như sương sớm.

“Uống một giọt sương tan
“lung lay hồn cổ thụ.”

(“Mờ sáng lên đồi.”)

Nguyễn Khắc Nhượng có được tinh thần vừa kể, phải chăng vì cái tâm căn bản của ông là:

“Xin dâng em cả tình ta đạm bạc
“tâm vô cùng và lượng rất bao dong…”

(“Ngọc lan bên trời huyễn tưởng.”)

Tôi nghĩ, câu trả lời tùy cảm quan mỗi người. Nhưng minh bạch, tôi nghĩ khó ai trong chúng ta có thể phủ nhận, Nguyễn Khắc Nhượng đã chọn lựa:

Thôi, ta ở lại quê nhà
“giữ thơm hương lụa cho tà áo bay…”

(“Giữ thơm hương lụa.”)

Bởi vì, với “mười năm lưu lạc,” đâu chẳng là quê nhà?!.

4.

Với một Nguyễn Khắc Nhượng như thế, tôi tin nhiều bằng hữu của ông, rất hạnh phúc mỗi khi có dịp nhấn mạnh cụm từ:

“Nguyễn Khắc Nhượng, nhà thơ. Bạn tôi!”

Du Tử Lê

(Calif., May 2012.)

Chú thích:

(*) “Thơ miền Nam trong thời chiến,” tập II, thuộc “Tủ sách di sản văn chương miền Nam,” do Trần Hoài Thư chủ biên. Thư Ấn Quán XB, New Jersey, Hoa Kỳ, 2007.

No comments:

Post a Comment