Saturday, February 2, 2013

MỘT MẢNG VĂN HỌC BỊ BỎ QUÊN, BỎ QUA


Những ai hiểu biết ít nhiều về văn học Việt Nam thời hiện đại có lẽ ngạc nhiên khi nghe nói đến văn học bằng quốc ngữ ở miền Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, khoảng 1865 đến 1930, và thốt ra: Ủa, có thực sao? Vì cho đến nay trong những sách báo viết về văn học sử mà chúng tôi đọc được, hầu hết đều chỉ nói phớt qua hai người: Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, bỏ qua Trương Minh Ký, ba người có sinh hoạt văn học vào những năm 1875..., sau đó nói đến Đông Hồ và Hồ Biểu Chánh. Họa lắm mới có người nhắc đến tên ông Nguyễn Chánh Sắt. Có thế thôi. Vậy có một sự kiện là: mảng văn học này bị bỏ quên vì không biết hay bị bỏ qua vì bị phủ nhận. Do đó, nói tới thời kỳ này, trong tất cả các mặt sinh hoạt văn học: dịch chữ Hán, chữ Nôm, Pháp văn ra quốc ngữ, biên khảo văn học, phong tục, lịch sử, khoa học, sách giáo khoa, sáng tác thơ, văn xuôi, đặc biệt các thể văn tiểu thuyết, theo lối phương Tây v.v... trên báo chí, sách biên khảo cũng như ở lớp học, chúng ta chỉ được nghe nói đến những tên: Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Đỗ Mục, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Nguyễn Bá Trác, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Hoàng Ngọc Phách v.v... cụ thể là những người cộng tác với "Đông Dương tạp chí" và "Nam Phong". Thực ra chỉ hai tờ báo này được biết đến nhiều hơn cả hoặc được đề cao hay bị đả kích.

Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu một số những chứng từ bày tỏ sự kiện mảng văn học kể trên ở miền Nam bị bỏ quên.

a. Những tác giả gốc Bắc, Trung viết về văn học tại miền Bắc:

Ba người có thể coi là ảnh hưởng chính trong việc tạo ra lối nhìn bỏ quên mảng văn học này.

 DƯƠNG QUẢNG HÀM: Trong Việt Nam văn học sử yếu (1), chương IV "Văn xuôi mới của ta, như chương ba đã nói, sở dĩ thành lập được một phần lớn nhờ báo chí. Trong các nhà viết báo có công lúc buổi đầu phải kể đến Nguyễn Văn Vĩnh và ông Phạm Quỳnh" (trang 414).

Về văn dịch, Dương Quảng Hàm viết: "Dịch các tác phẩm về loại cổ điển. Khi người nước ta đã biết trọng quốc văn và muốn lấy quốc văn làm lợi khí để truyền bá học thuật, thì các nhà cựu học dịch các bài cổ văn (Phan Kế Bính trong Đông Dương Tạp chí và các sách Kinh truyện của Tàu (bản dịch Kinh Thi), quyển thứ nhất của các ông Nguyễn Khắc Hiếu, Nghiêm Thượng Văn và Đặng Đức Tô, Hà Nội, Nghiên Hàm ấn quán 1924; bản Trung Dung của hai ông Hà Tứ Vi và Nguyễn Văn Dang; các nhà Hán học lại dịch các thơ văn và sách vở viết bằng chữ Nho của các cụ ta ngày xưa (bản dịch Đại Nam liệt truyện của Phan Kế Bính D.D.T.C... đồng thời, các nhà Tây học cũng dịch các đoản văn và các tiểu thuyết kịch bản thuộc về nền văn cổ điển của nước Pháp, các ông Phạm Duy Tốn, Nguyễn Văn Tố trong D.D.T.C. Nguyễn Văn Vĩnh trong bộ Âu Tây tư tưởng; Phạm Quỳnh trong N.P.T.C.".
Trong Chương 7, nói về các văn gia hiện đại, ông cũng chỉ giới thiệu các tác giả miền Bắc trừ Đông Hồ.
Khuynh hướng về học thuật: Nguyễn Bá Học, Phan Kế Bính, Nguyễn Trọng Thuật, Nguyễn Hữu Tiến, Lê Dư Sở Cuồng, Trần Trọng Kim, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc.
Khuynh hướng lãng mạn: Tương Phố, Hoàng Ngọc Phách trong quyển Tố Tâm, Đông Hồ.
Khuynh hướng xã hội: các nhà văn Tự lực văn đoàn.
Khuynh hướng tả thực: các nhà văn ngoài nhóm Tự lực văn đoàn như: Nguyễn Công Hoan, Lan Khai, Vũ Trọng Phụng, Tam Lang v.v... (449-452).


VŨ NGỌC PHAN: Trong bộ "Nhà văn hiện đại" (nhà in Tân Dân, Hà Nội - 1942). Quyển nhất: những nhà văn hồi mới có chữ quốc ngữ, tác giả chỉ nói đến Trương Vĩnh Ký, bỏ qua Huỳnh Tịnh Của, Trương Minh Ký, rồi giới thiệu các tác giả viết trong Đông Dương Tạp Chí và Nam Phong (Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Trọng Thuật...) và Đông Hồ, Tương Phố.
"Quốc văn bắt đầu thịnh, bắt đầu có cái giọng hoa mỹ, dồi dào, và chú trọng về tư tưởng, là công các nhà biên tập hai tờ tạp chí ở Bắc Hà: Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí".
- Nói về thể văn truyện ngắn theo lối Âu Tây, Vũ Ngọc Phan khẳng định Phạm Duy Tốn là người đi trước nhất:
"Nhưng người ta cũng không thể quên ông là người đã viết truyện ngắn theo lối Âu Tây đi trước nhất. Như vậy người ta cũng có thể nói: Phạm Duy Tốn là nhà tiểu thuyết đi vào đường mới trước nhất và những truyện ngắn của ông là thứ văn chương đã đánh dấu một quãng đường văn học của nước nhà". (trang 141).
- Còn Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách cũng là cuốn tiểu thuyết đầu tiên được chú ý.
"Tố Tâm là một quyển truyện rất văn hoa, kết cấu cũng khá và đã ra đời vào một thời mà tiểu thuyết sáng tác còn thấp kém, quốc văn còn trong thời kỳ phôi thai. Bởi thế cho nên Tố Tâm là quyển tiểu thuyết đầu tiên được mọi người chú ý đến một cách đặc biệt, và như thế, ta phải nhận là dư luận cũng nhiều lúc công minh" (trang 176).

Hoài Thanh, Hoài Chân trong Thi Nhân Việt Nam (nhà in Thụy Ký, Hà Nội, 1942), 45 thi sĩ được coi là những nhà thơ hiện đại làm thơ mới, chỉ có hai người ở miền Nam được nói đến: Đông Hồ và Mộng Tuyết. Trong bài nói đầu: một thời đại trong thi ca, Hoài Thanh và Hoài Chân nhìn nhận Nguyễn Thị Kiêm, mộtngười đã diễn thuyết cổ võ cho thơ mới ở miền Nam hồi 1933 là một nữ sĩ có tài có gan này không được giới thiệu trong số 45 thi sĩ hiện đại mà nhiều người trong số 45 đó ngày nay đã hoàn toàn bị bỏ rơi vào quên lãng.


ĐÀO ĐĂNG VỸLịch trình tiến hóa của văn học và tư tưởng Việt Nam hiện đại (1865-1946)
Trong Văn học tuần san, xuất bản ở Saigon, số mùa Xuân 1-2-1937 (trang 7-10) về mục tâm sự của nhà văn Hoàng Tân Dân thuật lại ý kiến của Đào Đăng Vỹ, Hội trưởng Hội Quảng Trị ở Huế, đăng trên báo Patrie annamite ngoài Bắc mở một cuộc điều tra về thanh niên trí thức. Viết đến mục "Les écrivains journalistes", cuộc điều tra chia làm hai khoản:
1) Tính chất văn học Việt Nam trước khi chịu ảnh hưởng văn hóa Pháp.
2) Sự tiến hóa của văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng của tư tưởng và văn học Pháp. Sự tiến hóa này chia làm ba thời kỳ:
- Thời kỳ I: do những Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh là những người viết văn viết báo tiêu biểu.
- Thời kỳ II:
a) Xu hướng lãng mạn: Hoàng Ngọc Phách, Tương Phố.
b) Xu hướng yêu nước và cách mạng.
- Thời kỳ III: Thời kỳ hiện đại bắt đầu từ Hoàng Tích Chu gồm nhiều xu hướng, trường phái, Hoàng Tân Dân bày tỏ lập trường của mình là "duy vật biến chứng pháp. Tôi dùng nó để phê bình các học thuyết khác". Đến năm 1948, Đào Đăng Vỹ diễn thuyết ở Huế (18-7) và ở Saigon (2, 17-10-1948) bằng tiếng Pháp về lịch trình tiến hóa của văn học và tư tưởng Việt Nam. Hiện đại (1865-1946) chúng tôi chỉ có bản tiếng Pháp (2) lập lại luận điểm đã nói trong Patrie annamite có kể tên các báo Nông Cổ mín đàm, Nhựt báo Tỉnh, Lục tỉnh Tân văn, Đông Dương tạp chí, Trung Bắc Tân văn, Nam Phong, rồi chỉ giới thiệu các người viết trong tờ sau ở Bắc Kỳ. Riêng về Trần Trọng Kim được giới thiệu như "một nhà viết sử đầu tiên của thời hiện đại. Vừa biết tiếng Pháp vừa thông thạo chữ Hán, ông là người đầu tiên đem những phương pháp tìm kiếm khoa học vào việc nghiên cứu những sử liệu bằng chữ nho và đã cống hiến cho chúng ta những tác phẩm lớn: Bộ Việt Nam sử lược, một bộ sách thật hay mà không một tác phẩm trước nào sánh kịp...". Về tiểu thuyết, chỉ nhắc đến Hồ Biểu Chánh và Phú Đức, Đông Hồ, còn lại toàn nói về các nhà văn miền Bắc.



Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng, Nguyễn Văn Phú, Tạ Phong Châu: Lược truyện các tác giả Việt Nam tập II (nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972) Nghiêm Toản đã lưu tâm nhưng còn rất mơ hồ. Đến các tác giả bộ Lược truyện..., sự thận trọng rõ rệt hơn. Chẳng hạn về văn xuôi, trước hết đã phát hiệnmột tiểu thuyết bằng văn xuôi, chữ nôm, vô danh, không biết được sáng tác tự bao giờ, nhan đề "Trần Đại Lang" được Hồ Văn Đoàn dịch ra tiếng Pháp trên tạp chí Revue Indochinoise 1905.
Còn về tiểu thuyết bằng chữ quốc ngữ, nhắc đến cuốn tiểu thuyết viết theo lối mới "Cuộc tang thương" của Đặng Trần Phát (nhà in Vĩnh Thành, 1923, Hà Nội) nghĩa là viết và in trước Tố Tâm. "Cuộc tang thương" viết năm 1922 và xuất bản năm 1923, trước Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách (xuất bản năm 1925). Cuốn tiểu thuyết "Cành lê điểm tuyết" của Đặng Trần Phát, cũng là một tiểu thuyết lãng mạn nhưng lại viết trước "Cuộc tang thương".
"Một điều nhận xét nữa là: những tiểu thuyết Pháp đều xuất hiện trên các báo miền Nam trước tiên; đã có những người như Hồ Văn Đoàn phỏng dịch tiểu thuyết Nôm của ta cải biên lại theo nghệ thuật viết tiểu thuyết phương Tây từ năm 1905; thế thì tiểu thuyết lãng mạn có thể không phải chỉ xuất hiện trước tiên ở miền Bắc từ 1921, 1922 với "Cành lê điểm tuyết, Cuộc tang thương" và từ 1925 với Tố Tâm, mà có lẽ phải xuất hiện ở miền Nam từ nhiều năm trước thời gian đó (1922). Ở Nam bộ, U tình lục xuất bản năm 1909 hay 1913? "Chúa tàu Kim Quy" xuất bản năm 1913 hay 1926? "Lỡ bước phong tình" và "Oan kia theo mãi", tiếc rằng không biết rõ nội dung, nhưng cái tên của nó cũng nói lên phần nào tính lãng mạn của tiểu thuyết; và có thể còn có nhiều quyển khác nữa xuất bản ở miền Nam từ 1921 trở về trước bị thất lạc, cần nghiên cứu trong thư mục của Thư viện Quốc gia của Pháp mới rõ được".
Vì không biết, muốn tìm hiểu cũng chưa có điều kiện, nên các tác giả kể trên chỉ kê khai một số tác phẩm của Nguyễn Chánh Sắt là tác giả duy nhất biết được.

Có lẽ sự thận trọng dè dặt của nhóm ông Trần Văn Giáp không được chú ý đến, nên dư luận nói chung khi đề cập đến văn xuôi, tiểu thuyết thời kỳ này, cho đến nay vẫn nhắc lại luận điểm của các ông Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan. Chẳng hạn trong "Anthologie de la littérature Vietnamienne" (Ed. en languesétrangères Hanoi, 1975) tome III vẫn khẳng định: "Hai tên tuổi nổi bật Hồ Biểu Chánh ở miền Nam và Hoàng Ngọc Phách ở Hanôi... Trong số các nhà tiểu thuyết và truyện ngắn khác chúng tôi giới thiệu Phạm Duy Tốn, Nguyễn Tử Siêu, Nguyễn Trọng Thuật" (trang 40). Trong "Lịch sử văn học Việt Nam", văn học viết 4B, thời kỳ II, Giai đoạn II. Đầu thế kỷ XX - 1930, Lê Trí Viễn, Nguyễn Đình Chú. Tủ sách đại học Sư phạm (nhà xuất bản Giáo dục 1976) nói đến phiên dịch, nghiên cứu, phê bình trong giai đoạn này thì thấy phần lớn đều do người trong hai nhóm Đông Dương và Nam Phong làm.
Đáng chú ý nhất về dịch Hán văn là Phan Kế Bính, Nguyễn Đỗ Mục, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Chánh Sắt, về dịch Pháp văn là Nguyễn Văn Vĩnh và Phạm Quỳnh.
Đi đôi với việc phiên dịch là việc nghiên cứu phê bình. Các người làm công việc nghiên cứu văn học đầu tiên lúc này là Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Ngọc... Phan Kế Bính viết Việt Hán văn khảo, Nguyễn Văn Ngọc được nhắc đến vì các tập Ca dao tục ngữ, Truyện cổ nước Nam, Nam thi hợp tuyển, Câu đối v.v...

- Về tiểu thuyết: Truyện ngắn đã có từ trước ở trong Nam. Từ sau đại chiến trở đi, ngoài Bắc mới xuất hiện những truyện ngắn đầu tiên của Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn. Không bao lâu truyện ngắn trở thành một đòi hỏi của công chúng nên báo chí đều có đăng. Đến năm 1925 quyển tiểu thuyết đầu tiên ra đời: đó là quyển Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. Đồng thời có "Quả dưa đỏ" của Nguyễn Trọng Thuật và sau đó là "Kim Anh lệ sử" của Trọng Khiêm. Trong Nam, Hồ Biểu Chánh, Bửu Đình cũng xuất bản tiểu thuyết đầu tay của mình" (trang 19-20).


Phan Cự ĐệTiểu thuyết Việt Nam hiện đại tập I. Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hanôi 1974 chương I. Những khuynh hướng tiểu thuyết trước 1930 và những mầm móng đầu tiên của một nền tiểu thuyết mới.
"Từ năm 1925 bắt đầu xuất hiện những cuốn tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên: Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách, Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật, Kim Anh lệ sử của Trọng Khiêm, Cay đắng mùi đời, Tiền bạc, bạc tiền (1926) của Hồ Biểu Chánh, Nho Phong (1926) của Nguyễn Tường Tam..."
Tiểu thuyết Hoàng Ngọc Phách đã mở ra một phương hướng mới cho tiểu thuyết truyền thống. Vị trí của cuốn tiểu thuyết này trong văn học Việt Nam có thể so sánh với vị trí của những cuốn Quận Chúa Cơlevơ (Princesse de Clèves) của bà Đờ la Phalet (Mme de la Fayette) hay Manông Letxcô (Manon Lescaut) của tu sĩ Prévô (Prévost) trong tiểu thuyết Pháp.
Đứng về nghệ thuật viết tiểu thuyết mà nói, Tố Tâm xứng đáng là một tác phẩm đầu tiên chuẩn bị cho sự hình thành của nền tiểu thuyết Việt Nam hiện đại". (trang 129)
Về miền Nam, chỉ có hai người được nói đến: Phú Đức và Hồ Biểu Chánh. Riêng Phú Đức chỉ được nhắc đến tên mà thôi.




b. Những tác giả ngoại quốc

Những tác giả Việt Nam ở nước ngoài hay tác giả người nước ngoài mà chúng tôi được đọc, viết về văn học sử Việt Nam thường cũng chỉ dựa vào dư luận của các nhà văn học phê bình Việt Nam.

Le roman Vietnamien contemporain. Tendance et évolution du roman vietnamien contemporain (1925-1945) Bùi Xuân Bào (Tủ sách Nhân văn xã hội, Saigon 1972). Đây là luận án phụ Tiến sĩ văn chương mà ông Bào trình ở Sorbonne năm 1961. Sở dĩ chúng tôi lưu ý đến cuốn sách này là vì luận điểm quen thuộc kể trên, nhưng được ông thầy chuyên về lịch sử và ngôn ngữ Đông Dương ở Collège de France là Emile Caspardonne chấm và chấp nhận.
"Những tuyệt tác đầu tiên".
"Năm 1925 được đánh dấu bằng việc xuất bản hai tuyệt tác chứng tỏ sự thắng thế của tiểu thuyết hiện đại: Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách và Quả dưa đỏ của Nguyễn Trọng Thuật... Lần đầu tiên, một nhà nho thuộc trường phái cũ viết một tiểu thuyết bằng quốc ngữ và văn xuôi bằng cách thử sử dụng những điều hiểu biết về nghệ thuật tiểu thuyết Tây Phương vào việc biện minh cho một luận điểm mình yêu thích. Cũng lần đầu tiên một nhà văn trẻ được đào tạo theo lối Pháp vẽ lên một đối nghịch tử thù giữa những khát vọng cao siêu nhất của con người và đạo đức cũ: ảnh hưởng của phái lãng mạn Âu Châu được dịp giải tỏa những xu hướng tình cảm bị nho giáo ức chế từ nhiều thế kỷ".
(trang 36 và 48-49, Chương sự khai sinh tiểu thuyết hiện đại)
- Introduction à la littérature vietnamienne. M. Durand et Nguyễn Trần Huân (3). Đây là cuốn giới thiệu văn chương Việt Nam và thế giới trong khuôn khổ UNESCO do một người chuyên văn hóa Việt Nam phụ trách, M. Durand. Khi nói về tiểu thuyết Việt Nam hiện đại, hai tác giả viết: "Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại hiểu theo quan niệm Âu Châu, chỉ bắt đầu thấy xuất hiện từ thế chiến lần thứ nhất khi những truyện ngắn của Phạm Duy Tốn, Nguyễn Bá Học, Phan Kế Bính, ra mắt trên Đông Dương tạp chí và Nam Phong tạp chí".
Ở miền Nam, những truyện Tàu có được dịch ra như Phong Thần, Tam Quốc, Đông Châu liệt quốc. Rồi khuôn mặt của Hồ Biểu Chánh nổi bật trong những năm 1912 với những tác phẩm bình dân của ông. Như thế là tiểu thuyết hiện đại khai sanh ở miền Nam nhưng những truyện của Hồ Biểu Chánh chỉ được biết đến ở Nam Kỳ còn độc giả ở Bắc hoàn toàn không biết tới. Phải đợi đến năm 1925 khi "Quả dưa đỏ" của Nguyễn Trọng Thuật và "Tố Tâm" của Hoàng Ngọc Phách được in ra, tiểu thuyết mới có một tiếng vang trong toàn quốc (155-156).
Nguyễn Trần Huân, professeur, chargé de conférences à l'Ecole pratique des Hautes Etudes (Sorbonne).
Les romans vietnamien contemporain (1905-1973)
Communication présentée au XXIXè Congrès international des Orientalistes. Paris 20 Juillet 1973 (in lại trong Etudes inter-disciplinaires sur le Viet Nam. Volume I Saigon, 2è semestre 1974).
Trong bài này, ông Nguyễn Trần Huân nhắc lại những phát giác của nhóm ông Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng về một tác văn trong Revue Indochinoise 1905; Đặng Trần Phát và Võ Liêm Sơn (1888-1949) với Cô Lâu Mộng 2 tập in ở Hứa Văn Quảng 1934 theo các tác giả: "Lược truyện các tác gia Việt Nam" năm 1924 theo ông Huân. Phần phát giác của ông Huân là truyện "Tân cựu điều hòa" của Võ Liêm Sơn đăng trong Nam Phong số 66 tháng 12/1922 và một vài truyện dịch của Trung Quốc hay Pháp như Nguyễn Trọng Đường, cử nhân Hán học dịch một truyện trinh thám Pháp đặt tên là Ba Lan và một truyện tình"Chết sống thuyền quyên" nhưng chưa cho biết rõ dịch từ nguyên tác nào và in ở đâu năm nào; Ngô Tất Tố dịch truyện Tàu "Cẩm hương đình" (1923), Nguyễn Đại Quán, một viên chức ở Thái Bình xuất bản một truyện lịch sử 18 vua Hùng cùng với tiểu sử của hai công chúa Tiên Dung, Ngọc Hoa và truyền thuyết Tôn Viên, Dạ Trạch.
Nhà thơ Nguyễn Can Mộng (1875-1953) xuất bản năm 1923 một tiểu thuyết lịch sử bằng văn vần về mối tình Mỵ Châu Trọng Thủy dưới nhan đề "Bức tranh lòng son" và sau cùng, một nhà nho khác Đoàn Tử Thuật dịch vở kịch "Truyện Tỳ Bà" cùng với Tản Đà từ Hán văn ra quốc ngữ năm 1923?

Ngoài việc tiết lộ một bức thư riêng của Nguyễn Tiến Lãng cho biết ý kiến của ông Lãng coi "Giấc mộng con" mà ông đề tựa in năm 1916 là tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên, ông Nguyễn Trần Huân vẫn giữ luận điểm của ông đã viết ra trong Introduction à la Littérature coi "Tố Tâm" là "tiểu thuyết đích thực" (le vrai roman) và có một "tiếng vang cả nước" (retentissement national) cùng với "Quả dưa đỏ" mặc dầu truyện này có nhiều khuyết điểm và vẫn chịu ảnh hưởng nặng nề văn chương Trung Hoa, trái lại Tố Tâm chịu ảnh hưởng văn chương Pháp (cuốn La Dame aux Camélias) và ông kết luận bằng khẳng định: "Thực tế có thể coi năm 1925 là năm khai sinh tiểu thuyết Việt Nam". Điều đáng lưu ý là ông Nguyễn Trần Huân đã nêu lên trong bài là "Vấn đề đặt ra cả ở miền Bắc và miền Nam là tìm xem cuốn tiểu thuyết nào kể như cuốn truyện được mọi người nhìn nhận là tiểu thuyết hiện đại cho đến nay vẫn chưa được giải quyết" và ông đã biết giả thuyết của nhóm ông Trần Văn Giáp, Nguyễn Tường Phượng về cuốn tiểu thuyết đầu tiên có ở miền Nam vào quãng 1872 có lẽ là cuốn Trần Đại Lang, ông cũng đã nhắc đến cuốn "U tình lục" của Hồ Biểu Chánh (1913) (thực ra cuốn này là thơ truyện giống các truyện nôm khác nhưng không thấy ông có ý tìm kiếm ở miền Nam xem có gì khác ngoài "Trần Đại Lang", Hồ Biểu Chánh, và vẫn tiếp tục giới thiệu các tác giả miền Bắc, giữ nguyên luận điểm cũ.

- Văn học Việt Nam giản lược. Moskva - 1971 - VI Nikulin (bản tiếng Nga). Tác giả Nga thận trọng nên chỉ thuật lại theo các nhà nghiên cứu Việt Nam.
"Đông Dương tạp chí" (1913-1917); Nam Phong (1917-1934) và một số tạp chí khác. Trên các cơ quan báo chí này công bố ngoài các bài luận thuyết chính trị quảng bá các tư tưởng trung thành với mẫu quốc còn đăng tải - lần đầu tiên trong lịch sử văn hóa Việt Nam - các tác phẩm văn học cổ điển phương Tây (chủ yếu là Pháp và Trung Quốc...).
Năm 1925 ra đời Tố Tâm, cuốn tiểu thuyết mà giới nghiên cứu văn học Việt Nam thường cho là mở đầu của hướng lãng mạn ở Việt Nam. Nhưng những gì mà những nhà nghiên cứu dựa vào khái niệm "lãng mạn" không tương đương với chủ nghĩa lãng mạn trong văn học phương Tây" (trang 175-176 - Bùi Khánh Thế dịch từ nguyên bản tiếng Nga).



c) Những tác giả gốc Bắc làm văn học ở Miền Nam

Những người ở miền Bắc bỏ quên mảng văn học này nếu chỉ vì không biết là điều hiểu được, nhưng có những người vào Nam, sinh sống hẳn trong này lâu lắm, làm báo, giảng dạy văn học ở các trường, viết sách văn học, mà cũng bỏ quên không biết đến vì một quan điểm văn học.
Phê bình và cảo luận (Critique de la Littérature moderne et quelques essais littéraires). Soạn giả Thiếu Sơn in lần thứ nhất có 12 bức hình. Văn học tùng thư (Editions Nam Ký, Hanoi, 1933).
Thiếu Sơn vào Saigon làm báo, tiểu thuyết, sau gom lại in thành tuyển tập "Phê bình và cảo luận". Trong số 12 bài phê bình nhân vật và sách chỉ có một người miền Nam duy nhất được nói tới là Hồ Biểu Chánh (các tác giả kia là Phạm Quỳnh, Phan Khôi, Nguyễn Khắc Hiếu, Trần Trọng Kim, Huỳnh Thúc Kháng, Trần Tuấn Khải, Tương Phố, và các tác phẩm Tố Tâm, Người vợ hiền, Quả dưa đỏ).
Thiếu Sơn diễn thuyết tại Hội Nam Kỳ khuyến học ở Saigon về "Báo giới và văn học quốc ngữ " nhưng chỉ nói về báo chí, học giả miền Bắc (trong hai tờ Đông Dương tạp chí và Nam Phong) và về ảnh hưởng văn học của hai tờ trên ở Nam Kỳ đặc biệt đối với nhóm ông Đông Hồ, Trúc Hà, Trọng Toàn.
Vào miền Nam, ở miền Nam, nhưng nói viết vẫn hướng về miền Bắc, lấy tiêu chuẩn văn học miền Bắc (đối với Thiếu Sơn lúc đó là Nam Phong) và sau cùng ra sách cũng gửi về Bắc in.
Tiếp theo sau Thiếu Sơn, hàng loạt những nhà văn, nhà báo, nhà giáo vào Nam hồi 1954 cũng vẫn viết báo, in sách, giảng dạy văn học sử Việt Nam bỏ quên hoặc bỏ qua mảng văn chương kể trên ở miền Nam, nhắc lại những luận điểm của Vũ Ngọc Phan, Dương Quảng Hàm...
Chẳng hạn Phạm Thế Ngũ trong "Việt Nam văn học sử giản lược tân biên, tập 3, văn học hiện đại 1862-1945" (Quốc học tùng thư, Saigon, 1965). Tập ba có 661 trang trừ hai chục trang dành cho "Buổi đầu của văn quốc ngữ" với Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của và 13 trang dành cho Hồ Biểu Chánh, còn lại toàn dành cho văn học miền Bắc. Chỉ mình nhóm Đông Dương tạp chí và Nam Phong chiếm trên 300 trang.
Riêng về tiểu thuyết cũng khẳng định những Nguyễn Bá Học, Phạm Duy Tốn là những người tiền phong viết truyện ngắn và Nguyễn Trọng Thuật, Hoàng Ngọc Phách là những người viết truyện dài thành công đầu tiên.
"Tuy có hai nhà văn thời này mở lối cho loại đoản thiên đã để lại những thành tích đáng giá, đó là Nguyễn Bá Học và Phạm Duy Tốn" (trang 346).
"Còn lại thật sự, được người đương thời đón nhận thưởng thức và cho là có giá trị rõ ràng là hai tác phẩm Tố Tâm và Quả Dưa đỏ, có thể coi như những thành công đầu tiên của văn gia ta" (trang 355).


- Văn học sử thời kháng Pháp (1858-1945). Lê Văn Siêu 400 trang (Trí Đăng, Saigon, 1974).
Viết về thời kỳ đầu thế kỷ XX, cũng chỉ đề cao nhóm Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh. Còn miền Nam, chỉ có mấy người dịch truyện Tàu, chỉ để giải trí, không có giá trị văn chương (trang 139).


- Bảng lược đồ văn học quyển ba, Thanh Lãng. Ba thế hệ của nền văn học mới (1862-1945). Nhà XB Trình Bày Saigon 1967. Sách gồm trên 800 trang. Phần văn học thế hệ 1862 (1862-1913) 159 trang, chỉ có 10 trang nói về Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của và 10 trang về Phan Thanh Giản, Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Hữu Huân, Nguyễn Văn Giai, Nguyễn Đình Chiểu.
Phần văn học thế hệ 1913 (1913-1932) chỉ có 8 trang dành cho Hồ Biểu Chánh, còn trên 400 trang giới thiệu nhóm Đông Dương tạp chí và Nam Phong.


Lược sử tiểu thuyết Việt Nam. Tạp chí Thời Tập số II ngày 18-9-1974 do Viên Linh chủ trương. Saigon khởi đăng loạt bài của Lê Duy Oanh, gốc Bắc như người chủ trương, về Hoàng Ngọc Phách, Nhất Linh, Ngô Tất Tố, Hồ Biểu Chánh khi nói về tiểu thuyết thời tiền chiến cũng giữ một luận điệu đã trở thành hầu như hiển nhiên:
"Ông Nguyễn Bá Học, một cây viết của nhóm Nam Phong có lẽ đã là người đầu tiên dùng quốc ngữ để viết tiểu thuyết theo thể truyện ngắn. Ông Học đã cho đăng trên Nam Phong gần 10 truyện ngắn trong số có những chuyện hiện còn được nhiều người nhắc tới như "Câu chuyện gia đình" (1918), "Chuyện ông Lỵ Chăm; có gan làm giàu"... Đồng thời ông Phạm Duy Tốn, cũng trong nhóm Nam Phong và là người thông thạo Tây học, cũng đã dùng chữ quốc ngữ để viết những truyện ngắn như "Sống chết mặc bay" (1918), "Con người sở khanh". Văn Pháp của ông Tốn đã có vẻ linh hoạt gọn gàng sắc sảo hơn văn của ông Học. Nhưng cả hai ông, nhất là ông Học, đã được hậu sinh coi như hai người mở đường cho loại tiểu thuyết mới Việt Nam bằng chữ quốc ngữ. Chừng sáu bảy năm sau, cũng trong nhóm Nam Phong, có thêm ông Nguyễn Trọng Thuật, với cuốn tiểu thuyết "Quả dưa đỏ" xuất bản năm 1925 và đã được giải thưởng văn chương của Hội Khai Trí Tiến Đức, ông Nguyễn Trọng Thuật được hậu sinh coi như một trong hai người đầu tiên viết tiểu thuyết dài bằng chữ quốc ngữ, vị thứ hai, người được coi như đã cùng với ông Thuật mở đường cho loại chuyện dài là ông Song An Hoàng Ngọc Phách, tác giả cuốn truyện danh tiếng Tố Tâm... nội dung "Quả dưa đỏ" chỉ là một chuyện đã cũ, chuyện An Tiêm, còn nội dung truyện Tố Tâm hoàn toàn mới mẻ và được hậu thế coi như cuốn truyện đầu tiên của loại tiểu thuyết lãng mạn bằng quốc ngữ. Với Tố Tâm, Song An Hoàng Ngọc Phách xứng đáng được coi như thủy tổ của tiểu thuyết lãng mạn Việt Nam tiền chiến" (trang 14-15).
Khi nói tới ảnh hưởng văn hóa ngoại quốc trong tiểu thuyết Việt Nam, Lê Huy Oanh viết: "Sang thời kỳ chữ quốc ngữ, những tiểu thuyết gia am tường nho học như cụ Nguyễn Bá Học hoặc cụ Nguyễn Trọng Thuật đều vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng của Tàu cả về tư tưởng lẫn hình thức. Sau đó tới ảnh hưởng Tây phương. Thể văn tiểu thuyết mới kể từ Song An Hoàng Ngọc Phách trở đi là thể văn hoàn toàn du nhập từ Tây phương" (trang 22).

3) Chính nhà văn người miền Nam phủ nhận và bỏ qua:
Một vài nhà văn, thơ trong nhóm Đông Hồ đã phủ nhận văn chương ở miền Nam thời kỳ này nên bỏ qua, không nhắc đến ngay cả Hồ Biểu Chánh, vì họ chọn tiêu chuẩn làm văn chương là Nam Phong và lấy Nam Phong làm diễn đàn, và cũng chính vì thế mà từ thời đó cho đến nay, họ được biết đến nghĩa là được các nhà viết văn học sử gốc miền Bắc công nhận.

Lược khảo về sự biến hóa của quốc văn trong lối viết tiểu thuyết. Nam Phong số 175, 176 năm 1932; Trúc Hà trình bày diễn tiến của thể văn này mà không hề nhắc đến bất cứ một ai ở miền Nam. Tiêu chuẩn lý luận thì dựa vào cuốn "Khảo về tiểu thuyết" của Phạm Quỳnh và "Việt Hán văn khảo" của Phan Kế Bính. Truyện ngắn thì kể "Nho phong" của Nguyễn Tường Tam, "Sống chết mặc bay" của Phạm Duy Tốn, "Truyện Cô Chiêu Nhì" của Nguyễn Bá Học. Dịch chuyện Tàu, Tây thì kể các tác phẩm của Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh. Năm 1925 "Kỷ niệm bước đầu trên đường văn học với "Quả dưa đỏ" được giải thưởng văn chương của Hội Khai Trí Tiến Đức; Tố Tâm của Hoàng Ngọc Phách. "Người quay tơ" của Nhất Linh...".

Văn học miền Nam. Văn học Hà Tiên? Chiêu Anh Các, Hà Tiên thập cảnh, Khúc vịnh. Đông Hồ (4). Nội dung cuốn sách là những khóa giảng ở Đại học Văn khoa những năm 1966-1969. Đông Hồ chỉ nói đến văn chương chữ nôm, chữ Hán mà thôi, không nói gì đến văn chương chữ quốc ngữ, vì chỉ có văn chương của nhóm Trí Đức học xá mới là văn chương, nhưng chả nhẽ Đông Hồ lại nói về mình: Dĩ nhiên Đông Hồ có nói những lý do phủ nhận bỏ qua văn chương thời kỳ này ở miền Nam ngay từ thời ấy ở báo "Sống" (1935) và ở các báo khác sau này (như số Văn, tưởng niệm Hồ Biểu Chánh, số 8 ngày 15/8/67).


Nhưng độc giả miền Nam lại coi nhóm Đông Hồ như những đứa con hoang; Trong chỗ riêng tư, ông Vương Hồng Sển thường nói đùa: "Đông Hồ là nhà văn Bắc Kỳ".

Sau cuộc cãi vã do Phan Khôi gây ra về việc viết sai chính tả, Đông Hồ trên báo "Sống" do ông chủ trương, lại nêu vấn đề phát âm, viết hỏi ngã cho đúng và thái độ của nhóm ông đối với văn chương Nam Kỳ. "Sống" số 19 Mars 1935 "Dấu hỏi dấu ngã". "Báo chí in trong Nam mà in được dấu hỏi dấu ngã là một sự rất khó khăn... Chúng tôi hết sức thu xếp với nhà in và nhiều công phu xem xét để từ đây báo "Sống" cũng in được đúng dấu hỏi dấu ngã như các báo ở Bắc".
Số 41 ngày 9 Avril 1935. Nam Phong đình bản. "Hồi 1922 học trò mới ra trường. Có một điều tôi nhớ chắc là năm ấy những bạn học cùng lớp với tôi cũng như tôi, ngoài những sách học của nhà trường phát cho thì tuyệt nhiên không biết có báo chí sách vở nào khác nữa. Có chăng chỉ là những tiểu thuyết hoang đường của Tàu dịch ra quốc ngữ như chuyện Phong thần, Thủy Hử, Chinh Đông Chinh Tây đã làm hư hoại những bộ óc ngây thơ mất cái trí phán đoán trong khi đọc sách chỉ tin mê những chuyện quái đản, dị thường. Sách vở báo chí cần ích bấy giờ rất kém cỏi như thế mà tôi được cái may mắn ngẫu nhiên biết được báo Nam Phong, tôi có một mối cảm tình thân thiết, tự tôi thường lấy đó làm một cái duyên gặp gỡ lạ lùng".
Số 29 ngày 11 Septembre 1935. "Thống nhất Nam Bắc bằng cách lợi dụng văn chương". Đông Hồ viết: "Nhớ lại khoảng 15 năm về trước, nhiều người trong Nam khi giở đến một quyển truyện Bắc thì chau mày phê bình: "Nó nói cụ kệ (5) cái gì mà tôi chẳng hiểu được chút nào hết". Vì giao thông bất tiện nên Nam Bắc ít hiểu nhau, nhưng giao dịch công nghệ phát đạt sẽ tạo điều kiện thống nhất.


Số 30 ngày 18 Sep. 1935. Ảnh hưởng của Đất nước trong văn chương. Ta có nên chia rẽ tiếng Nam và tiếng Bắc không? Đông Hồ chống chủ trương phân biệt: "Thế mà trong Nam vẫn có nhiều người lại là người đã từng viết văn đọc sách muốn phân chia ra tiếng Nam, Bắc Kỳ và tiếng Nam Kỳ thì còn gì vô lý nữa". Theo bà Mộng Tuyết kể lại cho chúng tôi: hồi đó nhóm Đông Hồ giao thiệp với ngoài Bắc, nhóm Nam Phong, các ông Nguyễn Khắc Hiếu, Thiếu Sơn, Nguyễn Trọng Thuật, Trúc Hà, Đông Hồ gửi bài đăng ở Nam Phong, Mộng Tuyết gửi truyện ngắn "Tình trong sạch" dự thi văn chương được giải thưởng nhứt của Nam Ký thư quán Hanôi. Khi Hoài Thanh biên soạn "Thi nhân Việt Nam" chỉ gửi thư xuống Hà Tiên liên lạc với Đông Hồ, Mộng Tuyết, nên sách in ra chỉ có 2 người ở miền Nam có tên trong "Thi nhân Việt Nam hiện đại" Bà Mộng Tuyết cũng thú nhận riêng với chúng tôi dư luận lúc đó ở miền Nam tỏ ra bất bình về sự kiện kể trên".
Hơn 30 năm sau, Đông Hồ mới nói rõ lý do tại sao nhóm ông phủ nhận văn chương ở miền Nam thời đầu thế kỷ trong bài: "Hồ Biểu Chánh, nhà văn bạch thoại miền Nam" (6). Đông Hồ kể lại sau khi Trúc Hà viết bài "Lược khảo..." ít lâu, ông lên Saigon gặp Thiếu Sơn và nghe Thiếu Sơn trách tại sao "Chúng tôi biên khảo về tiểu thuyết mà lại bỏ quên, không đả động đến một nhà văn tiểu thuyết lớn trong Nam là Hồ Biểu Chánh". Đông Hồ trả lời: "Bài biên khảo đó như nhan bài đã nêu, Trúc Hà chỉ nhìn một phương diện văn chương, chỉ theo dõi sự tiến hóa và phát triển của văn chương quốc ngữ trong lối viết chữ quốc ngữ mà thôi, chứ không phải là một bài biên khảo về tiểu thuyết toàn diện". Theo câu trả lời của tôi lúc đó, đủ chứng tỏ rằng Trúc Hà và tôi không nhận thấy trong tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh có "văn chương". Đã không thấy trong đó có văn chương thì có thấy đâu trong đó có sự tiến hóa của quốc ngữ mà nêu ra vấn đề...

Đông Hồ thú nhận đọc Hồ Biểu Chánh phải nhận ông tả đúng đời sống xã hội của Nam Kỳ lục tỉnh... nhưng "đọc thì cũng đọc", thích thì cũng thích, duy chúng tôi cứ không chịu được lời văn viết trơn tru thẳng tuột hời hợt của ông.
Thời kỳ đó, theo quan niệm của chúng tôi viết là làm văn chương mà văn chương thì phải sửa sang gọt dũa, phải điêu luyện chải chuốt. Đâu là tả thực đâu là tả chân, câu văn cũng phải xếp đặt lại hơn ngôn ngữ thường dân. Tối thiểu phải có một kỹ thuật... Tôi không chịu được văn chương của Hồ Biểu Chánh. Như tôi bây giờ vẫn không chịu nổi văn chương hát cải lương với văn chương của những tiểu thuyết "chưởng" hiện đang thạnh hành. Trong lúc đó thì mọi người chung quanh tôi hoan nghênh nồng nhiệt. Như vậy chứng tỏ rằng quan niệm của tôi sai lầm và cảm quan của tôi lệch lạc. Bởi tôi đã bị thành kiến chi phối và bị truyền thống bó buộc chưa cởi mở được. Quan niệm đó của tôi y như những nhà văn không chịu nổi lối văn hạch thoại của Tàu. Sao mà tôi cứ đứng trên địa hạt văn ngôn mà nhìn trào lưu bạch thoại. Nếu tôi đừng quá chủ quan, đừng quá cách biệt mà nhìn văn viết của Hồ Biểu Chánh. Tôi coi văn Hồ Biểu Chánh là lối văn bạch thoại, và coi Hồ tiên sinh là nhà văn bạch thoại tiền phong như những nhà văn bạch thoại tiền phong Trung Quốc hồi đầu thế kỷ này thì tôi sẽ chấp nhận được, thưởng thức được văn chương của họ Hồ; rồi tôi sẽ chấp nhận và thưởng thức cả văn chương Hát cải lương, văn chương chưởng như thường".


Những thiên kiến, mặc cảm và những vụ lời qua tiếng lại
 Mảng văn học này bị bỏ quên vì không được biết đến. Không được biết đến có thể vì không có mà đọc. Sống ở miền Bắc và ngay sống ở miền Nam, kiếm một bộ Nam Phong thật không khó gì, các thư viện công đều có, thư viện tư nhiều người cũng có, lại có cả bộ Mục lục đầy đủ đã in ra để tra cứu, nhưng không dễ gì kiếm ra vài số Lục tỉnh tân văn, Nông cổ mín đàm. Trầm trọng hơn, có mà không đọc hoặc ngay cả đọc mà có thiên kiến này nọ thì dù ở xa hay ở gần, đều không thấy gì cả; hoặc chỉ thấy điều mình muốn thấy, nghĩa là những điều đúng theo định kiến... Thực tế hay sự thực như tấm màn chỉ vén lên mở ra, mặc khải trước những cái nhìn sẵn sàng, vô tư và thiện cảm - nếu không, nó vẫn khép kín, không buông xuống. Người ta không ưa thích cải lương vọng cổ vì định kiến này nọ không bao giờ thấy được cái hay của cải lương, cảm được cái mùi của vọng cổ...
Kể ra có nhiều thiên kiến lắm. Chẳng hạn: Gia Định báo à? Rặt đăng tin thông cáo của nhà nước thì có gì lý thú, hay ho mà đọc! Hoặc Nông Cổ mín đàm, Lục tỉnh tân văn, đó là những tờ báo cổ võ việc làm ăn buôn bán, pha chút văn thơ, đâu phải những tờ báo văn học nghệ thuật, hiểu theo nghĩa "thuần túy văn học nghệ thuật". Truyện xuất bản nhiều đấy, bán chạy như tôm tươi nhưng hầu hết là thứ truyện Tàu phỏng dịch nhảm nhí, "chỉ để giải trí không có giá trị văn chương" (Lê Văn Siêu). Còn tiểu thuyết gọi là hiện đại, lấy đề tài Việt Nam thì hoặc là viết theo lối trơn tuột chẳng có chải chuốt gì, nôm na, thô kệch hoặc sai bét về chính tả, làm sao gọi được là văn chương...
"... Đại Việt tân báo, Nông Cổ mín đàm lại là những báo chí không có tính cách văn học, chỉ đăng rặt những tin vặt, những thông cáo của chính phủ, những bài diễn văn của người đương thời, hay nếu có đăng thơ văn thì cũng là những thơ văn của độc giả, nhà báo đăng một cách khuyến khích, chứ thật ra chưa đáng kể là thơ văn" (Nhà văn hiện đại, tập I, in lần thứ hai, Vĩnh Thịnh Hanoi 1951, trang 30).
Hoặc "Gia Định là đất mới. Dân chúng vừa thưa ít, vừa chưa được thuần nhất... Sự sáng tác văn học, sự ưa chuộng văn chương, sự trồng trọt thi văn ở đây chưa có truyền thống sâu xa, nên kém tiềm lực, kém khả năng... Quốc văn do đó trong nhiều năm về sau ở Nam Kỳ chỉ bày tỏ trong hình thức báo chí phổ thông với trình độ trí thức khá ấu trĩ hoặc ở tác phẩm tiểu thuyết cho một công chúng hạ lưu dễ dãi. Những người thức giả lưu tâm đến quốc văn sau đó lại phải quay ra miền Bắc để đón tiếp những sáng tác mới cũng như phong trào văn học mới" (Phạm Thế Ngũ. Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập III trang 85).


Viết sai chính tả - Vụ Phan Khôi.
Trước Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngũ, Phan Khôi đã chê trách lối viết sai bét chính tả ngay từ hồi 1929 - 1930 trên Phụ nữ tân văn. Trong bài "Chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ và thế lực của Phụ nữ. Từ Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Trai cho đến Nguyễn Chánh Sắt, Đặng Thúc Liêng (số 28 ngày 7 Novembre 1929). Phan Khôi viết đại ý: các cố đạo xưa đã dựa vào tiếng Bắc và Bắc Trung Kỳ mà tạo ra vần quốc ngữ, nên miền Nam Trung Kỳ và Nam Kỳ không đóng góp gì hết vào việc đó. Càng vào Nam, càng phát âm sai... Chỉ riêng trong giới Công giáo, việc phát âm giữ được sự thống nhất vì Bắc theo cái đúng của Nam và Nam theo cái đúng của Bắc. Chữ quốc ngữ phổ thông ở Nam Kỳ trước, trong khi ngoài Bắc, Trung còn nằm sấp xuống, cấu bụng trên ván mà viết chữ Hán. Nam Kỳ là thầy dạy chữ quốc ngữ cho dân Annam vì có hai ông đại sư Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của vừa là công giáo vừa làm tự điển nên phát âm đúng. Những tự điển của hai ông làm mẫu mực cho cả nước. Thời Pétrus Ký người ta viết đúng mặc dù dân chúng có phát âm sai nhưng bây giờ thì ôi thôi loạn, ai muốn viết thế nào thì viết; dịch mà viết ra vịt trong một cuốn về luật thì đủ hiểu sai trật đến đâu. Phan Khôi lôi hai ông Nguyễn Chánh Sắt và Đặng Thúc Liêng ra vì nguyên nhân gây ra tình trạng trên là do mấy vị làm báo tiền bối là nhà nho sót lại, không học chữ quốc ngữ đúng đắn, chỉ học vần sơ rồi ráp lại mà viết, thành viết sai mà không hay. Lấy ngay tên hai ông in trên danh thiếp bằng chữ Hán, phải viết ra Sắc, Liên mới đúng; Hai ông là nhà văn nổi tiếng, nhưng vì lười không chịu tra tự điển của hai ông Ký, ông Của mà viết cho đúng nên mới viết sai cả tên mình như vậy... Trong bài "Chữ quốc ngữ viết tên của ông Đặng Thúc Liêng cần gì bỏ chữ g, cũng ông Phan Khôi phục biện (số 30 ngày 28-11-1929), ông Phan Khôi lược tóm đăng bài trả lời của con ông Đặng Thúc Liêng là Đặng Công Thắng cho biết thân phụ viết Liêng là theo ông Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của chỉ cho (thiêng liêng) ngoài ra hiện nay không có Hàn lâm viện quy định, nên viết sao cho thông nghĩa thì thôi. Chính ông Phan Khôi cũng viết sai, viết xót thay vì sót. Còn ông Nguyễn Chánh Sắt không viết bài chỉ nói: "Ông Phan nhiều chuyện quá". Ông Phan Khôi khuyên các cô kén chồng: hễ các cậu nào không viết chữ quốc ngữ đúng thì không lấy, thà ở góa cả đời chứ không lấy anh chồng không biết viết quốc ngữ.

Trong Phụ nữ tân văn số 31 "viết chữ quốc ngữ phải viết đúng", bác lại bài ông Đặng Công Thắng con ông Đặng Thúc Liêng (5-12-1929) ông Phan Khôi nhắc lại những lý lẽ của ông Thắng: "Chữ quốc ngữ viết thế nào thông nghĩa thì thôi, không cần viết đúng vì không có hàn lâm viện, sách mẹo quy định và trách ông là người Trung Kỳ vô đây kiếm ăn còn làm phách...".

Số 34: "Vấn đề viết chữ quốc ngữ cho đúng", ông Phan Khôi nói lý do không đăng bài của ông Nguyễn Chánh Sắt và bài thứ hai của ông Đặng Công Thắng, vì có tính cách công kích cá nhân, nhưng cũng cho viết ý ông Sắt nói: tên chính là Sắc viết ra Sắt do cha mẹ đặt ra tự thuở nhỏ đã vào bộ làng là Sắt, nên bây giờ cứ để vậy. Sau đó đăng hai bài của độc giả đồng ý với lập trường của ông Phan Khôi.

Số 37: "Một vấn đề thống nhất tiếng Việt Nam" (17-1-1930) đây là bài quan điểm của tờ báo do ông Phan Khôi viết kêu gọi "Nên nhóm toàn quốc đại hội nghị đặng bàn tính các vấn đề đó" bác bỏ ý kiến của nghị viện trong Hội đồng quản hạt yêu cầu đặt riêng một hội đồng soạn sách theo tiếng Nam Kỳ cho con nít ở Nam Kỳ học, sách Nam dùng cho Nam, sách Bắc dùng cho Bắc, và ông kết án nặng nề: "Chỉ những kẻ ngu dốt, điên khùng khốn nạn mới có thể nói được rằng tiếng Annam không cần gì học, tiếng Annam là đồ bỏ, viết sao thì viết đọc sao thì đọc".

Xin trích một số đoạn cuộc trao đổi lời qua tiếng lại kể trên.
"Bởi vậy tôi nói rằng chữ Quốc ngữ phát nguyên từ miền Bắc. Tôi có ý nói ông cố đạo ấy hiệp cả giọng Bắc Kỳ và phía Bắc Trung Kỳ mà đặt ra vần quốc ngữ. Sao tôi lại không kể đến phía Nam Trung Kỳ và Nam Kỳ? Vì cái chỗ đúng của hai nơi ấy thì không đúng bằng phía Bắc Trung Kỳ, mà còn chỗ sai lại sai quá, càng vào phương Nam chừng nào càng sai chừng ấy, nên không kể làm chi...".
... Về phía Nam Trung Kỳ, nói ngay tỉnh Quảng Nam là tỉnh tôi, về vần ngược chỉ có miền Thượng du nửa tỉnh phía Nam nói đúng mà thôi, còn bao nhiêu thì sai hết, nghĩa là không phân biệt c với t, có g với không g. Từ Bình Định trở vô, vần vân thì nói ra ưng. Vào đến Nam Kỳ lại thêm lộn in với inh, uc với ut, h với q v.v... không kể hết được. Tôi nói vào phương Nam chừng nào càng sai chừng ấy, là nghĩa như vậy. Chúng ta không nên lấy cớ mình là người phía Nam Trung Kỳ với Nam Kỳ muốn binh vực cho cái lưỡi của xứ mình mà gân cổ cãi lại. Chúng ta phải nhận cho kỹ mà chịu đi rằng chúng ta phát âm (prononcer) tiếng Annam thiệt không đủ giọng bằng tiếng Bắc.
Vì cái cớ phát âm không đủ giọng ấy, nên tôi dám quyết rằng hồi ấy, ông cố đạo đó theo tiếng Annam mà đặt ra quốc ngữ thì không cần dùng đến giọng phía Nam Trung Kỳ và Nam Kỳ, tiếng của hai miền này thật không có được một chút nào vào sự sáng tạo vần quốc ngữ vì dùng nội giọng Bắc Kỳ và giọng phía Bắc Trung Kỳ là đủ rồi:
- Chữ quốc ngữ phát nguyên từ miền Bắc, nhưng kể ra người Annam ta bắt đầu thông dụng nó, học tập nó, làm sách vở bằng nó, thì lại từ miền Nam, tức là Nam Kỳ.
Chữ quốc ngữ hồi đầu chỉ có tín đồ đạo Thiên Chúa dùng mà thôi. Họ lấy nó mà dịch kinh, dịch sách rồi đem dạy trong các nhà trường của họ. Sự đó suốt từ Bắc chí Nam như nhau, không khác; nghĩa là trong dân Annam thì người có đạo Thiên Chúa dùng chữ quốc ngữ trước hết thảy; mà họ lại dùng theo y một lối? Bắc phải theo sự đúng của Nam; Nam phải theo sự đúng của Bắc, từ đó cho đến bây giờ.
- "Kể cái công tập tành chữ quốc ngữ, cho quen và rải rác nó cho một ngày một rộng ra ấy là phải kể cho xứ Nam Kỳ.
Tôi muốn nói xứ Nam Kỳ là thầy dạy chữ quốc ngữ cho cả và dân Annam cũng không phải là quá đáng... Mà là thầy thật. Hồi đó có hai ông đại sư về quốc ngữ, là ông Trương Vĩnh Ký và ông Paulus Của, tức là Huỳnh Tịnh Trai. Vì mỗi ông có làm ra một bộ tự vị tiếng Annam. Các ông cũng là học trò trường bên Đạo mà ra, cho nên các ông viết chữ quốc ngữ y như người bên đạo, nghĩa là viết đúng. Hồi bấy giờ chắc người Nam Kỳ phát âm cũng vẫn là không đủ cũng vẫn là lẫn t với c, lẫn có g với không g, lẫn dấu ngã với dấu hỏi, song le các ông viết ra thì phân biệt đâu ra đó, vì vậy các ông mới dám làm tự điển. Mà tự điển của các ông sau rồi trở nên mẫu mực cho người Annam, ai cũng phải dùng, dùng đến cả phía Bắc Trung Kỳ và Bắc Kỳ là miền chữ quốc ngữ đã do đó mà sanh ra. Mà tôi tưởng, không những hai ông đại sư ấy, lúc bây giờ người Nam Kỳ hễ đã viết quốc ngữ là ai cũng phải viết đúng. Vì hồi đó người ta học quốc ngữ một cách nghiêm. Bây giờ thử tìm một vài cuốn sách xuất bản thời ấy mà coi, cuốn nào in cũng hẳn hoi, cho đến dấu ngã dấu hỏi cũng phân minh".
Sau khi than phiền về tình trạng viết loạn xạ ngày nay (hồi 1929) và đưa hai ông Nguyễn Chánh Sắt, Đặng Thúc Liêng ra mà phê phán, Phan Khôi kêu gọi:
"Tôi lấy làm thương tâm quá. Tôi không hiểu một người đã xưng mình là Annam thậm chí mình là nhà văn học Annam, sắp hàng mình vào nhà ngôn luận, nhà học thuật, dám thò tay viết cuốn sách để đời, mà mặt chữ còn quấy, thì mới nói làm sao? Tôi không biết một người Pháp hay một người Tàu mà viết chữ bổn quốc họ còn quấy mặt chữ như mình vậy thì họ có thể lên mặt mà tự đắc được chăng? Cứ cho việc này là việc nhỏ mặc ai, chớ tôi, bụng dạ hẹp hòi tôi cho nó là việc lớn".
Này hỡi người Annam ta, hãy bắt đầu hôm nay học viết chữ quốc ngữ cho đúng đi. Có vậy mới xứng đáng là người Annam.
Những người đàn ông gần già gần chết mà họ viết quốc ngữ sai thời bỏ họ đi. Còn đám thanh niên sợ họ sau này, các cô có quyền uốn nắn được. Các cô hãy học viết đúng đi trước đã rồi các cô hẹn nhau, rày về sau, kể cả các cậu, cậu nào viết chữ quốc ngữ đúng thì các cô hãy cho bưng trầu, rượu đến nhà, còn không thì đuổi họ đi cho rảnh. Thà ở góa cả đời, chớ đừng lấy anh chồng không biết viết. Đó rồi, rày sắp tới, người đàn ông Annam nào muốn có vợ thì phải cặm đầu học chữ quốc ngữ. Không bao lâu mà họ biết viết hết. Ấy là nhờ các cô vậy". Phan Khôi.
Số 30 (28-11-1929):
Phan Khôi tiên sanh nhã giám: tiên sinh từ hồi vào Nam Kỳ đến nay coi ý muốn cải lương nhiều việc, nhứt là cách làm văn, cách viết chữ quốc ngữ ở Nam Kỳ v.v... Tôi thấy tính tiên sanh về mục đích ấy lắm, nhưng tính bao nhiêu sau khi đọc suốt các bài của tiên sanh càng buồn bấy nhiêu. Buồn cho tiên sanh nhiều cái thuyết cầu kỳ bất hiệp chân lý. Buồn thời buồn chớ chẳng muốn cải lẩy với tiên sanh làm gì những sự không đâu vô bổ.
... Tiên sanh nói ông cố đạo nào bày ra chữ quốc ngữ tiên sanh chắc một mình ông ấy đem cả trí lực ra mà gây dựng thứ chữ ấy không? Vậy chớ Hội Giám mục ở Quảng Trị bày ra chữ quốc ngữ lúc trước ở đâu?
Tiên sanh nghĩ rằng tên của nghiêm quân của tôi viết ra chữ quốc ngữ phải bỏ g mới trúng. Tiên sanh chưa rõ nguyên ủy nên nghĩ vậy, nếu rõ lại phải phục ngay. Vì nghiêm quân của tôi muốn viết chữ tên ra quốc ngữ đương thời - 46 năm về trước Việt Pháp tự điển của ông Trương Vĩnh Ký không có, của ông Huỳnh Tịnh Trai mới ra đời, mà không có chữ đó, nên hỏi thăm Trương, Huỳnh các ngài quen mới chỉ cho biết chữ Liêng là nói theo thiêng liêng đã thành văn trong các sách Thiên Chúa giáo. Đến năm 1889, Việt Pháp tự điển của ông Trương Vĩnh Ký xuất bản, ông Génibrel lại mới xuất bản; "Việt Pháp quốc âm tự điển" mới gia nhập chữ ấy vào mà lại chia ra có g và không g.
Bây giờ tiên sanh cứ tự điển mà cắc nghĩa chữ Liêng là nôm, và Liên là chữ. Xét lại, vương là vua với vương vấn viết một chữ; quốc là nước và chim quốc cũng viết như nhau; nôm chữ lẫn nhau, tự điển sao vậy cả. Có sao đâu... Văn tự nôm cũng vậy, khi thêm viết vầy, khi bớt viết khác. Đâu có duyên cớ. Ví như chữ khôi, quí danh, mượn thêm ở trên đầu một chữ đầu ???, bên tả chữ nhân đứng ???, dưới đích chữ y rách ???, bỏ chữ đầu ??? đi được. Hoặc bỏ chữ ??? mà thế chữ thôn ??? vào cũng được.
Còn quốc ngữ, chữ tàn tật, giùng mình, cằng rằng v.v... có g hay không g chẳng thất luật chi cả. Bất quá chia ra tiếng N và T mà thôi.
Ôi văn tự quốc ngữ! Mẹo luật không ai bày! Hàn lâm viện đâu? mà cứ bắt bẻ g hay không g, c hay là t. Ngặc lắm, thôi bây giờ xin quí hồ viết cho thông nghĩa, đừng "dốt dát" như tiên sanh đã nói xót mà chính chỗ đó phải nói sót phải không?
... Thật khổ cho tiên sanh, cắt cớ bày các cách kén chồng cho các cô sao mà "quê mùa" thái quá. Thật thì, các tấn sĩ, cử nhân, tú tài từ nhỏ chí lớn, mấy lúc mảng lo học pháp văn, nên chắc có cụ lo làm chi viết chữ quốc ngữ cho được đúng của tiên sanh...
... Rốt hết tôi tặng tiên sanh: khả Lân lao tác khách, thả mạc háo vi sư" - Đặng Công Thắng con ông Đặng Thúc Liêng.
Số 31 (5-12-1929)
... "Tôi thì nói chữ quốc ngữ phải viết đúng"...
Theo lời ông Thắng thì cái chữ "Liêng" tên ông thân ông, là do ông Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Trai biểu viết như vậy, vì hồi đó chưa có tự điển nào hết. Sự đó là việc riêng nhà ông, thiệt hư thế nào tôi đâu có biết...
- "Tôi đã nói rõ ràng nếu là chữ ?? thì phải viết là Liên mới đúng, còn viết là "liêng" thì trật, vì hai chữ phát âm không giống nhau, bởi vậy mới một chữ không g, một chữ có g không cần phải nói theo tự vị làm chi, cho ông lấy cớ hồi đó chưa có tự vị, nay tôi chỉ nói gọi rằng: hễ ai biết phát âm cho đúng thì trong khi thấy chữ ?? phải viết quốc ngữ là Liên chứ không viết Liêng được. Tôi nói thế mà ông lầm ra nghĩa khác, ông nói rằng tôi cắt nghĩa chữ Liêng là nôm và Liên là "chữ" rồi đem phân bì nói chữ "vương" là vua và "vương vấn", chữ "quốc" là nước và "chim quốc" mà nói rằng nôm chữ chế lẫn nhau, không sao đâu, thì cái đó là ông nhầm.
Tôi xin cắt nghĩa chỗ đó. Và, nôm chữ có khi lẫn nhau thực như "vương" chữ "quốc" ông nói đó thì vốn là lẫn nhau, vì nó phát âm như nhau: đó là đồng âm mà khác nghĩa. Còn chữ Liên và Liêng phát âm khác nhau đó là khác âm và khác nghĩa. Tôi nói đây là vấn đề phát âm, chứ không về cái vấn đề nôm với chữ...
... ông nói tên chữ Hán như tên Khôi tự mà cũng có thể thêm bớt là không được. Tên tôi là ?? chớ không phải ?? và ?? như ông biết. Khôi còn nhiều chữ đồng âm nữa, mà hễ chữ ấy, chứ có đâu thêm bớt được như ông tưởng lầm. Vả lại nếu chữ ?? thì phải viết ?? bằng, có lẽ nào bỏ chữ ?? mà thế chữ ?? vào được? Nếu ông viết như vậy thì người ta phải cho ông là không thuộc mặt chữ. Thiệt tình nếu ông ít thông chữ nho thì đừng nói bướng mà người ta cười. Hoặc giả ông có ý đem cái tên ?? là "thằng giặc Khôi" mà kiêu ngạo tôi nữa chăng? Nếu quả vậy cũng không hại chi.
Đến như ông nói "Văn tự quốc ngữ, mẹo luật không ai bày. Hàn lâm viện đâu. Bây giờ quí hồ viết cho thông nghĩa. Tôi xin ông đi, đừng nói ngang vậy không được... Bởi nó không có mẹo luật nên mình phải làm cho có mẹo luật, không có Hàn lâm viện thì mình làm cho có Hàn lâm viện...
Ông nói "quí hồ viết cho thông nghĩa" là có ý không cần đúng chữ. Trời ơi! Ông lầm quá. Thế gian có thứ chữ nào viết không đúng chữ mà lại thông nghĩa được? Cho tôi vô phép nhắc lại cái tên của lệnh nghiêm một lần nữa. Chữ ?? nếu là tên, thì viết Liêng còn bỏ qua được, chớ nếu gặp chữ ?? hay là ?? mà ông cũng viết là Liêng thì theo thức giả và tự vị là bất thông đó ông.
Tôi lấy thêm một ví dụ nữa để ông càng hiểu hơn. Như chữ "chẳng lẽ" nghĩa là chẳng có lẽ mà nếu theo lời ông viết ra "chẵn lẻ" cũng được. Nhưng nếu viết theo chữ sau đó thì lại thành ra nghĩa khác, nghĩa nó là đôi và chiếc (pair et impair). Tự người nào phát âm không rành, thì viết ra có khác, mà đọc ra cũng khác, song người phát âm rành thì phải đọc ra khác và hiểu nghĩa cũng khác luôn. Vậy mà ông muốn đánh xô bồ làm một có được đâu. Phan Khôi.
Số 34 (26-12-1929)
Muốn viết chữ quốc ngữ cho đúng phải phát âm cho đúng. Lê Vinh Diệu
Sau đây tôi xin kể những xứ nào nói trật chữ gì và phải bắc chước xứ nào đặng phát âm cho đúng.
1. Ở Bắc Kỳ, nói lộn xộn ch với tr và gi, lộn vận s và x, vận r với d, vận nh với l. Vậy thì Bắc Kỳ phải bắc chước những tỉnh Nghệ Tỉnh vô tới Quảng Ngãi mà sửa lại mấy vần đặng nói cho đúng.
2. Ở Thừa Thiên (Huế) nói lộn xộn nh và gi, vậy phải sửa vần ấy theo mấy tỉnh khác.
3. Ở Quảng Nam, cả Quảng Ngãi nói lẩn lộn vận ăn với en, ăc với ec, vậy phải sửa theo Bắc Kỳ hai vần này.
4. Từ Bình Định vô tới Nam Kỳ, nói lộn xộn v và d, qu và h, it và ich, uc với ut, un với ung, vậy phải bắt chước những tỉnh từ Quảng Bình sắp ra Bắc Kỳ mà đọc các vần ấy cho trúng.
5. Từ Quảng Trị sắp vô Nam Kỳ đều nói trật những chữ không g ở sau đuôi như an, ăn, ân v.v... những chữ có t ở sau đuôi như at, ắt, ất v.v... và dấu ngã. Lại lộn ui với uôi, ưu với ươu, iu với iêu, d với gi. Vậy những khoản ấy phải theo giọng từ Quảng Bình sắp ra Bắc Kỳ.
6. Từ Bắc chí Nam phần nhiều hay lầm lộn chữ ao với au, an với ân, ai với ay, ay với ây, ap với ăp, ăp với âp. Vậy cả thảy phải bắt chước hai tỉnh Quảng Nam với Quảng Ngãi, mà đọc cho rõ những chữ ấy.
Vấn đề viết chữ quốc ngữ. Ngọc Uổng (thư gởi Phan Khôi)
... Nói tóm lại, trên sách dạy rằng mấy tiếng Annam đồng âm mà khác nghĩa, mình cần phải biết phát âm cho trúng, thì viết mới trúng. Chết chưa! Em chưa từng đi Trung Kỳ Bắc Kỳ lần nào, mà em cũng không biết chữ hán nào hết làm sao mà phát âm cho đúng? Em thấy trong bộ "Đồng âm tự vị" của ông Nguyễn Văn Mai, những chữ đồng âm kể đến số ngàn, làm sao mà nhớ cho hết được. Nếu muốn nhớ, phải học thuộc lòng, cha chả, mà em nghe người ta nói: cái đồ học thuộc lòng, ngồi ngâm nga tối ngày là đồ vô dụng, thế thì làm sao bây giờ?
... Mà theo ý em tưởng, viết quốc văn chẳng những là cần phải viết cho trúng mà thôi, có lẽ lại còn phải viết câu cho trúng nữa mới được.
Em còn nhỏ. Em sẽ bắt chước tiên sanh mà kén chồng. Em sẽ chọn ai viết quốc văn đúng đắn thì em mới ưng. Nhưng mà em nói viết quốc văn cho đúng là em buộc viết chữ cho trúng, dùng chữ cho trúng và chấm câu cũng cho trúng nữa mới được, chớ viết chữ trúng mà dùng chữ với đặt câu không nên thân, thì em cũng khinh bỉ lắm. Tiên sanh nghĩ sao?

*

Ông Phan Khôi nặng lời như thế, làm sao không khỏi mất lòng người miền Nam, nên lúc đó đã có người nói thẳng ra: cho ông vào làm ăn ở đây, lại còn lên mặt dạy đời!
Phan Khôi có thái độ khinh chê, do một mặc cảm tự tôn, nên không chịu tìm hiểu xem người Nam Kỳ tại sao hay viết sai chính tả; chắc hẳn không phải chỉ vì ấu trĩ hay lười nhác nhưng phải có lý do gì đó như một nhà "lý luận" Nam Kỳ đã phát biểu trước đây 15 năm. Trong bài "Văn chương khảo luận" về cách dạy chữ quốc ngữ, Nguyễn Ngọc Ẩn đã viết: "Tiếng nói làm sao giọng đọc làm vậy. Ở ngoài Bắc, người ta quen nói nhiều giọng, cho nên mới có phân biệt dấu hỏi dấu ngã, chữ C và chữ T, sau rốt thì chẳng nói làm chi. Trong Nam Kỳ, tôi tưởng ít ông nào tự nhiên (nghĩa là nghe người ta nói thường) mà phân biệt mấy cái lắt léo đó cho đặng. Trong mấy ông mà rõ thấu cái hít hà tẩn mẩn đó thì tôi tưởng khó cũng có nhiều ông nhờ coi sách thấy sao hay vậy. Mà thiệt mấy ông ấy cũng là có công nhớ, vì tiếng nói ở trong Nam Kỳ không có thấy phân biệt mấy sự khó lòng ấy chút nào. Tiếng Bắc Kỳ phải hơn hay tiếng Nam Kỳ phải hơn? Tôi không đủ trí mà biện luận. Tôi xin nói một điều là tiếng nói trong này, tuy nhiều ông cho là thất điển, song người người cũng hiểu cũng thông. Nhiều khi tôi lại muốn nói theo cách trong này hơn, không phải là chê tiếng ngoài Bắc (dám nào) chẳng qua là không muốn nằng nằng quyết một biện phân mấy cái hít hà nói trước mà thôi. Như muốn nói tiếng đứt (cắt đứt) cho trúng điệu văn chương, thì phải viết chữ ở đằng sau và đọc đủ... it cho dài như là ăn kẹo, cắn nó dẻo nhẹo, kéo ra dài nhằng không muốn đứt; còn nói theo cách thường, thì bất luận c, t, nói mau gọn gàng nghe ra phải tuồng đứt tốt, nói chi cái câu "nước mắm chế lộn mỡ" của chúng bày đặt diễu chơi. Đập chết tôi, tôi cũng nói theo giọng Nam Kỳ, đọc mỡ lớn tiếng như là mở cửa, bởi vì, e theo văn chương lắm, mà mất cái lịch sự đi chăng... Chữ quốc ngữ mà khó viết cho trúng, nghĩa là cho đẹp ý một hai ông là bởi tiếng thì nói theo giọng một nơi, mà chữ thì theo giọng một ngã, chớ không có cái chi là kỳ diệu, ước sao cho một ngày kia, trong các trường nhà nước sẽ nhứt định cho viết chữ quốc ngữ không phân biệt mấy cái lắt léo nói trên đây. Pháp văn kia, tuy là có mẹo luật rành rành mà còn không câu chấp một hai chữ viết sai thay (tolérances orthographiques). Huống chi chữ quốc ngữ mình, không thấy luật mẹo, nói một đàng lại buộc viết một ngã, e thập niên đăng hỏa cũng khó mà hay". (Nông Cổ mín đàm, 16 và 23-3-1915).


Vào cuối năm 1915, trước vụ Phan Khôi 15 năm, đã xảy ra một vụ đụng chạm đến tự ái người Nam Kỳ còn nặng nề hơn do ông Phạm Duy Tốn gây nên.
Phạm Duy Tốn và vụ "Văn minh giả"...
Mùa hè năm 1915, Bắc Kỳ bị lụt lớn: "Nhiều chỗ bị lụt thiên hạ phải nghèo nàn đói khát, thường bữa thấy người ta kéo nhau ra tỉnh mà ăn xin. Tại Bắc Ninh, Ninh Bình và Hà Đông nhiều chỗ ngập đường xe lửa đi không đặng. Cũng có nơi thiên hạ phải chết trôi chết đuối nhiều. Vua Annam đã gởi cho quan Chánh thống sứ Bắc Kỳ 10.000 đồng đặng chẩn cứu những kẻ bị thiên tai" (Nam Kỳ địa phận số 347 16-9-1915 trang 573) còn Hội đồng quản hạt Nam Kỳ gởi tặng 20.000 đồng. Cũng có nhiều hội nghĩa khác (NKDP số 356, 18-11-1915, trang 718). Nam Kỳ D.T. số 349 ngày 39 ??? -9-1915 đưa tin "Quyên tiền giúp kẻ bị lụt tại Tonkin". "Nhơn khi M.M. Nguyễn Đắc, Phạm Duy Tốn chủ bút Lục tỉnh Tân văn cùng nhiều người khác nữa ở Bắc Kỳ ngụ tại Saigon. Xin được quan Nguyên soái mở cuộc nghĩa quyên mà trợ giúp những kẻ mắc nạn vì lụt tại Bắc Kỳ, thì M. Bùi Quang Chiêu, giám đốc cánh nông bác học và ông huyện Trang hiệp ý mời những ông đại nhơn và các viên quan chức sắc các ty các sở Saigon và Cholon cùng Gia Định hiệp tới tại Hội Khuyến học Nam Kỳ chiều ngày 11 Septembre đặng lo lập thành hội nghĩa quyên Nam Kỳ mà xin phép chính phủ để giúp M.M. Đắc và Tốn trong vụ quyên tiền các nơi ngoài tỉnh. Chiều ngày ấy các hàng đại nhơn cùng viên quan Annam trên tới đông. M. Phạm Duy Tốn thay mặt đồng bào xứ Bắc mà đọc bài diễn thuyết, kể lại các sự tai nạn tại Bắc Kỳ... cùng xin ai nấy đồng dạ hảo tâm lo việc cứu giúp "... Hội được thành lập do Bùi Quang Chiêu làm chánh hội trưởng, Phạm Duy Tốn là phó thư ký. Chỉ quyên những người có mặt đã đặng hơn 200 đồng và tiền quyên cả ngày được 3.135đ83". Trong địa phận Đức Cha Saigon vừa nghe tin ngoài Bắc bị khốn nạn thì cũng đã gởi tiền bạc mà cứu cấp".
Đồng bào Nam Kỳ và các giới có vẻ sốt sắng quyên góp ủng hộ, nhưng ông Phạm Duy Tốn không hài lòng với số tiền ông mong muốn nên đã viết trong Lục tỉnh Tân văn số 401 một bài tỏ ý chê trách người Nam Kỳ không có văn minh vì đã không giúp đồng bào Bắc bị nạn lụt mặc dù có tiền của nhiều. Bài của ông Tốn đã gây ra nhiều phản ứng dữ dội, kéo dài mấy tháng trên Nông cổ mín đàm. Chúng tôi chỉ trích dẫn một vài đoạn làm chứng từ.
Trong mục "Nhàn đàm" (số 18 Nov.) Tân Dân Tử dựng một cuộc nói chuyện tay đôi giữa Ất và Giáp nhân vụ Phạm Duy Tốn viết bài "Văn minh giả".
Giáp: Người lục tỉnh đã hảo tâm như vậy, mà người Bắc có cám ơn không?
Ất: Sao không có. Cám ơn lắm chứ! Mới đây ông Phạm Duy Tốn là người Bắc Kỳ có đặt một bài văn minh giả mà tỏ dấu cám ơn chúng ta lắm. Chẳng những cám ơn mà còn cho mấy ông mấy thày một vật quý báu biết dường nào.
Giáp: Vật gì vậy anh?
Ất: Ấy là đồ ngoài Bắc, ông Phạm Duy Tốn kêu là cái mặt nạ giả văn minh để đeo làm dấu tích, và lại mừng cho mấy ông thầy là văn minh lại cái nữa...
"Lúc ngài còn ở ngoài Bắc, lẽ khi ngài cũng lo hóa dân như vậy, dạy dân Bắc văn minh thuần thục rồi, động lòng ngài, ngài mới vào đây, vào được mấy tháng nay, ngài làm nhiều điều cũng quí, dạy nhiều chỗ cũng thông, như lúc Bắc Kỳ bị lụt bỏ chiếu trôi lên, bỏ giường trôi xuống, đói lạnh không cùng, táp cồn này vập bãi kia, ngài ra rên xiết với người Nam Kỳ, xin tiền mà cứu giúp bọn đồng hướng của ngài. Khi đó trong bụng ngài tưởng dân Nam Kỳ giàu có sang trọng, ăn no ngủ kỹ, mặc ấm ngồi cao, lẽ nào không thương người đồng bang lâm biến, chẳng dè sự tưởng của ngài có chỗ chi sai lầm nên nay ngài mới lấy chữ văn minh giả mà chỉ dân Nam Kỳ rằng: "Ta nghĩ văn minh như vậy, mà trong lúc không có một mảnh đồng xu, không có một chút học thức, thì sao lại có gọi là văn minh?".
Số 25 Nov. 1915 đăng một bức thơ ký tên Ngô Thế Truyền, của một tay hầm than ở Biên Hòa. "Nguyên là tôi đi chợ có ghé tiệm M. Sự mua nhựt trình Lục tỉnh Tân văn coi thấy lời luận của ông Phạm Duy Tốn nói chuyện văn minh lại cái, văn minh giả, họ xúm coi rồi cười um, nói mấy ông mặc đồ vắn quần chật đi giày tây không có dương vật, họ khuấy chơi với nhau, người này rờ của người kia, té ra ai cũng có dương vật dài hết, không ai lại cái. Tôi thầm nghĩ là ông Phạm Duy Tốn nói gạt đàn bà con gái nhà quê mấy cô lôi thôi tưởng có mình ông có dương vật sao chớ!"

Số 9 ngày 9-12-1915 đăng bài của một độc giả ở Bến Cát đại ý nói Phạm Duy Tốn chẳng có ý nói về Nam Kỳ đâu, chỉ vì vào đây thấy văn minh của bọn ta và thấy ngoài đó không có nên ông buồn mà viết vậy thôi. "Chớ tôi thường thấy mấy cậu ngoài nớ ăn mặc ngộ quá, thiệt cũng đáng bực văn minh tân đợi. Bận áo tây, quần tây, đi giày tây hay là hàm ếch da láng, trên đầu thì còn để tóc vấn khăn đen. Hễ quen biết nhau thì nắm tay nhau bù sua rồi cập tay nhau nói dóc om sòm. Tiếng nói thì pha chè nửa Annam, nửa francais, nửa chararia (tiếng nhà bếp), chẳng biết ông Tốn gọi văn minh ấy là chi há?"

Vụ lời qua tiếng lại trở thành nghiêm chỉnh hơn với những bài bàn về thế nào là văn minh, lôi cuốn hầu hết các chủ bút, nhà báo nổi tiếng thời đó (Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản, Nguyễn Kim Đính, Trần Chánh Chiếu, Lê Hoằng Mưu, Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Ngọc Ẩn, người có Tây học cũng viết một bài dài bàn về văn minh. Có lẽ cả Saigon - Lục tỉnh chỗ nào cũng bàn chuyện ông Tốn.
Số 13 tháng 1 năm 1916 đăng bài của ông Lê Đình Chánh nhan đề Tân vấn luận: "Tôi nghe văn chương gốc ở Bắc Kỳ, Nam Kỳ không có văn chương theo như lời ông Tốn đã nói ở Chợ Lớn, thì bài văn minh giả của ông rất phải, vì ông là người Bắc vào, tài ba lỗi lạc, Nam Kỳ không người dám sánh, dầu ai cũng phải khâm phục tài ông".
Tôi hỏi Lê Hoằng Mưu gốc chữ văn minh ở sách nào mà ra. M. Lê Hoằng Mưu cười và đáp: "Chưa biết cái đấng tài danh Bắc Kỳ vào đây đa văn quảng kiến, có thấy sách nào chăng, chúng tôi thật chưa thấy, lại cũng chưa từng nghe, hai chữ văn minh mới nghe từ ngày loạn trào Thanh đến nay..."
Ông Tốn chê Nam Kỳ không có văn minh, văn chương "Xem trí ý của các đấng đại danh thì biết như ông Trương Vĩnh, Trương Minh, ông Dũ Thúc v.v... nào có nói luận văn minh, mà tự nhiên có dạy văn minh trong đấy; cho đến Nông Cổ ngày nay cũng còn nói. Ông Tốn mới vào, xem chưa kỹ, nên mới nói đem văn minh vào rảy khắp lục châu, mới mở văn minh nơi quần áo. Xét kỹ lại thì ông Tốn từ ngày vào đây, chưa luận bàn chi gọi là văn minh. Chưa chỉ dẫn mà nhạo báng người thì quả là ông Tốn lầm rồi đó".

Số 27-1-1916 đăng bài "Nói về chuyện văn minh". "Ở Nam Kỳ có nhiều người học cả Tây, Tàu giỏi, đủ các thứ bằng, phải biết văn minh là gì - Ông Tốn vào đây khoe tài, khoe chữ (tiếng Bắc) người có ra Bắc nghe thì hiểu, người không ra thì sao hiểu nổi! Nếu nói:
"Sớm mai tôi đi ra chợ Cụ
Vai vác cái dù son tay cầm chạc su chấm cái lỗ khu kêu cái ọt, trúng con thóc lóc ở trên cái chà khoe bố xuống ở bố, như vậy thì ai hiểu cho thấu!"
... Xin chớ có chê bai những người đốn củi hầm than mà mang tội lỗi.
Trong Nam Kỳ ta đây, nhiều kẻ làm nghề đó mà làm chủ, chớ chẳng phải cầm kềm cầm búa mà đốn, đừng có khinh khi là kẻ võ phu, hà tiện. Các ngài tưởng như ngoài Bắc không có nhà giàu hay chữ mà làm nghề đó sao? Tại các ngài nhớ mấy câu phương ngôn con nít ở Bắc hát nên tưởng là ở trong này cũng vậy chăng?
Hát như vầy: Tôi là tôi hò khoan
Con gái kè mợ, hồ khoan
Tôi đi bán rượu, hồ khoan
Tình cờ gặp anh, hồ khoan
Tôi là, tôi là, hồ khoan
Con mẹ bán than, hồ khoan
Được lãi vô vàn, hồ khoan
Cái đít nhọ nhem, hồ khoan
Tôi nghe các ngài xưng tài học thức nhiều, cho nên tôi cúi xin luận mấy khoản nói trên nớ. Dương Văn Giáo, thương biện tại Sở Thương Chánh Saigon.
Văn Bắc Kỳ:
Ba năm sau vụ Phạm Duy Tốn, Nông Cổ mín đàm đăng một bức thơ ngỏ gửi cho các báo Annam về phản ứng bất mãn của người đọc ở Nam Kỳ đối với thái độ khinh bỉ người Nam được bày tỏ trong các báo xuất bản ở Bắc Kỳ.
Văn Bắc Kỳ. Lời ngỏ cho các báo Annam. NCMD 26-6-1919
"Xưa rày bổn báo thường xem báo giới Bắc Kỳ thấy luận nhiều bài thiệt là khinh bĩ người Nam Kỳ thái quá; như "Trung Bắc tân văn" bàn luận về quốc văn thì cho văn Nam Kỳ là văn hát bội; còn Nam Phong bài của M. Phạm Quỳnh "Một tháng ở Nam Kỳ" thì cho người Nam Kỳ có lượng mà không có phẩm; người Nam Kỳ những nhà giàu có phần đông toàn là ngu ngốc cả v.v...
Đó, phẩm lượng thái độ và cách cư xử đối với đồng bào của người thay mặt cho dân đất Bắc là thế đó.
Những lời khích nhau bỉ nhau mà đăng báo như thế thì dẫu cho thần phật cũng phải bất bình. Nhưng vậy mà bấy lâu bổn báo cũng làm thinh nhẫn nhục mà không đành hở môi, là vì bổn báo vẫn để lòng cổ động đồng bang chữ hướng về đều liên lạc đoàn thể với nhau, làm sao cho ba kỳ hiệp một, đấu cật nhau, diều dắc nhau lên đường tấn hóa, nên chẳng nở buông lời bài bác nhau mà hại niềm hòa khí.
Chẳng dè mà báo giới Bắc Kỳ vẫn cứ chấp nê, tự kiêu tự đắc, vô cớ sanh đoan, dùng những lời lộng liên vô lễ thái thậm mà đối đãi với người Nam Kỳ. Thế bất đắc dĩ nên bổn báo phải hở răng mà chỉ rõ cái bịnh kiêu căng vô lễ của các ngài đó thôi, chớ những điều nhàm, những chuyện xằng bậy như vậy nếu nói ra chừng nào thì lại càng hại niềm hòa khí chừng nấy, đã chẳng ích chi cho quê hương mà rồi dân ba kỳ lại còn sinh đố kị nhau cừu oán nhau, thì còn trông chi là thương yêu nhau, liên lạc nhau, mà làm cho tam kỳ thống nhứt được. Ngửa nhờ đồng bào chư quân xử xét cho Nông Cổ mín đàm".


Phạm QuỳnhMột tháng ở Nam Kỳ. Nam Phong số 17 (1919)
Có lẽ những ý kiến nhận xét của Phạm Quỳnh đã có ảnh hưởng mạnh trong giới trí thức Bắc Hà thời kỳ này tạo ra những thiên kiến quen thuộc về sau đối với người miền Nam.
- Trí thức Nam Kỳ mất gốc: "Dự tiệc thấy có người vào dân Tây toàn nói tiếng Tây". Coi đó thì biết các bậc thượng lưu trong Nam Kỳ Tây hóa đã sâu lắm, hầu như không còn chút gì là cái phong thể Annam nữa.
- Sinh hoạt văn hóa nhiều về lượng nhưng kém về phẩm chất: "Kể đến báo ở Nam Kỳ thì nhiều hơn báo Trung, Bắc Kỳ về cái lượng, nhưng còn cái phẩm có được xứng đáng với cái lượng không? Điều đó thì chưa dám chắc vậy. Xưa nay phàm cái gì muốn cho nhiều tất giá phải kém không thể vừa nhiều vừa tốt cả được. Muốn giữ được cho cái phẩm cao, tất phải trạc cái lượng lại mới được. Ấy công lệ từ xưa vẫn thế: Nghề làm báo, làm sách có thể ra ngoài được cái công lệ ấy không? Thiệt tưởng rằng không. Cho nên xét ra các đồng bào ta trong Lục tỉnh hình như có ý trọng cái lượng hơn cái phẩm vậy. Đó cũng là một điều khuyết điểm học giới, báo giới, xứ Nam Kỳ.
Về sách cũng thịnh lắm, có phần lại thịnh hơn nghề làm báo nhiều. Tuy vài năm gần đây đã bớt đi nhiều, mà trong khoảng năm mười năm về trước các số những sách quốc ngữ xuất bản ở Saigon không biết bao nhiêu mà kể. Thứ nhất là những bản dịch các tiểu thuyết tàu cũ như Tam quốc, Thủy hử, Chinh đông chinh tây, Phản Đường, Tùy Đường, Đông châu, Phong thần, Đại hồng bào, Tiểu hồng bào v.v... Nếu sưu tầm cả lại thì làm được một cái thư viện nhỏ. Những tiểu thuyết Tàu tự tám mươi đời, triều ấy, văn chương đã chẳng ra gì mà truyện thì toàn những chuyện huyển hoặc quái đản, của mấy bác cuồng nho bên Tàu đời xưa ngồi không bịa đặt ra để khoái trá những bọn hạ lưu vô học. Thế mà dịch nhiều như vậy, thịnh hành như vậy, nghĩ cũng khả kính thay.
Không trách các tư tưởng quốc dân những chìm đắm trong sự mê hoặc không cùng, có khi sinh ra những việc xuẩn động hại đến cuộc trị an trong xã hội vì đó. Có người nói việc phá khám Saigon năm nọ cũng là bởi cái di độc của các tiểu thuyết Tàu mà ra, tưởng không phải là nói quá vậy. Cả ngày cả đêm những ca tụng cái tài ông Tiết Đinh San, ông Tiết Nhơn Quí, hay những ông tướng kỳ khôi từ đời hồng mang nào, trách sao trong trí không loạn lên mà muốn làm thực những việc mình thường đọc thấy trong truyện? Càng những bọn hạ lưu hung hãn lại càng dễ nhiễm hơn cả. Coi đó thì biết văn chương không phải là không có liên hệ đến nhân quần, các nhà làm sách há chẳng nên cẩn thận lắm ru?...
Ấy là các tệ tiểu thuyết cũ dịch của Tàu. Đến cái tệ của phần nhiều các tiểu thuyết mới ngày nay thì lại thậm hơn nữa, vì cách đặt để đủ làm cho bại hoại phong tục, điên đảo luân thường vậy. Tôi biết có bộ tiểu thuyết cực là dâm bôn mà lại rất là thịnh hành trong bọn phụ nữ coi đó thì biết cái hại sâu biết dường nào. Gia đình tan cũng vì đó, xã hội nát cũng vì đó, cái tương lai nước nhà nguy hiểm cũng vì đó, các nhà làm sách có nghĩ tới không?"
Phạm Quỳnh nhìn nhận: "Sách báo nhiều như thế, mà bán được chạy, có nhiều người mua và có tiền thừa mua sách" - một điều mà Phạm Quỳnh thấy ngoài Bắc không có - nhận định như vậy để rồi trách: "cái bậc trí thức trong lục châu không biết khéo lợi dụng cái cơ hội tốt ấy mà đặt ra những sách vở hay có ích cho phong hóa, nỡ để cho các lòng ham đọc sách, ham mua sách của người dân ấy ngập vào những sách vở vô vị, hoặc tầm bậy không ra gì, thật uổng quá". Thái độ trịch thượng mỉa mai khinh bỉ của Phạm Quỳnh còn bộc lộ rõ hơn trong những bài trả lời bài Nguyễn Háo Vĩnh, viết từ miền Nam, gửi Nam Phong phê phán Nam Phong dùng nhiều chữ nho.
... "Nay có một ông Nam Kỳ bàn về các vấn đề ấy một cách rất kỳ khôi, đọc đến không thể nhịn cười được. Tuy lời lẽ có lắm chỗ quá đáng nôm na cha mách qué. Công bố một áng văn chương như cái thư của ông Nam Kỳ đó, không những không tốn gì đến danh dự của bổn báo mà thực là khiến cho bổn báo lại có thể tự cao được một chút". Nhân việc Nguyễn Háo Vĩnh đề cao Trương Vĩnh Ký "mượn cái xác la tinh mà dụng hồn của tiếng Annam", Phạm Quỳnh đánh giá Trương Vĩnh Ký: "Ông Trương chẳng qua là một nhà làm sách giáo khoa thường cho con nít học mà thôi, đã có công nghiệp gì với Tổ quốc, đã từng bao giờ đem cái xác la tinh mà dụng hồn Nam Việt. Chẳng dám khinh gì người trước, nhưng những bác danh sĩ nước Nam cứ như ông Trương cả thì cũng không lấy gì làm vẻ vang cho nước lắm". (7)




Văn nghệ miền Nam không có quá khứ
 Hồi năm 1954, một đợt người Bắc khác vào lập nghiệp sinh sống ở miền Nam. Sau 45 năm vụ Phạm Duy Tốn, lại có người viết văn gốc Bắc phủ nhận văn nghệ miền Nam. Trần Thanh Hiệp, luật sư, nhà lý luận văn học của nhóm "Sáng tạo" chủ trương thơ tự do, quy tụ những người viết văn gốc miền Bắc đã nói chuyện ở Câu lạc bộ văn hóa đường Tự do, do Phạm Xuân Thái, cũng người miền Bắc, quản lý, về "Viễn tưởng văn nghệ miền Nam" ngày 12-8-1960. Trong bài nói chuyện, có chỗ ông khẳng định "Văn nghệ miền Nam không có quá khứ". Bài nói chuyện đã gây nhiều phản ứng thời đó. Hình như bài nói chuyện trên không đăng trên báo nào, chúng tôi trích dẫn mấy đoạn ghi phản ứng của Nguyễn Phủ đăng trong tạp chí Bách khoa số 88 ngày 1-9-1960, trang 96-99.
"Lập luận như thế là tách rời miền Nam khỏi cái truyền thống tinh thần dân tộc, phủ nhận tất cả giá trị văn học, cổ truyền bao gồm cả nền văn chương bác học và nền văn chương bình dân, cô lập miền Nam thành một thế giới riêng biệt không có lịch sử. Dầu cố ý hay vô tình, một lập luận như thế - ngoài cái tính chất nông nổi còn có một ý nghĩa ngược lại đối với cái nguyện vọng chung của dân tộc là thống nhứt đất nước. Người ta suy nghĩ rằng ông Trần Thanh Hiệp không hiểu thế nào là miền Nam và thế nào là quá khứ. Thực sự, việc chối từ đó không chỉ là vì nhận xét nông cạn, không chỉ là quan trọng hóa việc làm của mình mà còn có những tác dụng thỏa mãn những nhu cầu tâm lý phức tạp khác nữa. Cho nên ông Hiệp lại còn tỏ ra hoan hỉ trước một hiện tượng như vậy. Ông nói: "Không có quá khứ là điều đáng tiếc, nhưng có may mắn là tiến mau lẹ!" Tóm lại qua lập luận ấy, người ta càng thấy ông Trần Thanh Hiệp không rõ chút gì về cái thực tế miền Nam mà ông đang tìm viễn tượng. Hình như về phương diện địa lý, ông không quan niệm rõ ranh giới miền Nam từ đâu giáp tiếp đến đâu, dân số gồm những ai và trong cốt cách tinh thần của họ văn nghệ dân tộc đã nếp dáng thế nào. Ngoài những áng cổ văn góp phần tạo nên phong thái trí thức của họ, còn câu hò câu hát, những điệu tuồng chèo, những hơi vọng cổ, bao nhiêu hình thái dân ca mang tự bình nguyên Nhị Hà và vẳng lên từ bờ Cửu Long góp phần xây dựng vốn liếng tình cảm của họ ông cũng cố tình không thấy.
Người ta có cảm tưởng rằng về văn nghệ hình như ông Trần Thanh Hiệp chỉ thấy có ông và vài ba người bạn thân của ông cộng thêm một ít bài thơ tự do mà chỉ một số ít người trong nhóm ca ngợi cùng nhau và trong số người ca ngợi cũng vẫn có người tỏ ra mình chẳng hiểu rõ thơ ấy nói gì.
Chẳng trách đến khi có người nghe nhắc nhở cho ông Hiệp nhớ đến các cụ Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị... thì ông thấy ông Hiệp gật đầu. Nên chăng ông cũng gật đầu!"
*
Tam Lang, trong một bài nói chuyện với sinh viên đại học Văn khoa Saigon về cuộc đời làm văn làm báo của mình, đoạn nói về thời kỳ vào Nam làm báo đến xin việc một tòa báo đã bị từ chối với lý do báo Nam Kỳ không xài dân Bắc, vì 99% độc giả là người miền Nam, nghĩa là không xài ký giả gốc Bắc. Nếu Tam Lang được biết Lê Hoằng Mưu là người đã bị "Phạm Duy Tốn châm chít" thế nào hồi 1915 thì ông đã dễ chấp nhận hơn sự thất vọng của mình.
"Chân ướt chân ráo đến Saigon, sau khi hỏi thăm đường lối của "Hòn Ngọc Viễn Đông" chúng tôi xách cả khăn gói valy cuốc bộ đến chủ nhiệm là ông Nguyễn Văn Của (tức là Huyện Của) không có mặt, người tiếp chúng tôi là ông Lê Hoằng Mưu, chủ bút. Vẻ niềm nở của ông đem lại cho chúng tôi hy vọng phen này đạt được chí lớn, nhưng ngay sau khi đó 10 phút, chúng tôi thất vọng, khi ông cho biết: báo Nam Kỳ không xài dân Bắc vì 99% độc giả là người miền Nam" (8)



"Đồng bằng sông Cửu Long - 40 năm" - Trần Bạch Đằng, Nhân Dân số 12-9-1985
Trong loạt bài kiểm điểm này (đăng từ 9 đến 15-9-1985) chỗ nói về văn hóa, ông Trần Bạch Đằng đã viết: "Một vài nhà nghiên cứu đã đi đến kết luận sai lầm về trình độ văn hóa đồng bằng sông Cửu Long, chẳng hạn cho rằng vùng đất này không có truyền thống văn hóa". Ông Trần Bạch Đằng không nói rõ những nhà nghiên cứu kể trên là ai, phần chúng tôi có đọc lác đác đâu đó một số ý như: lớp người đầu tiên đến vùng này là nông dân, lính thú nên "cái vốn chữ nghĩa của họ không dầy dạn là điều tất nhiên. Trên vùng đất mới, người hay chữ ít hoặc không có, thiếu trường học, sinh hoạt văn hóa khác cũng giản đơn".
... "Nông thôn Nam Bộ không chịu ảnh hưởng của Nho giáo như nông thôn miền Bắc hay miền Trung, và đặc điểm này đều rõ ràng có tác động trong tính cách của người nông dân Nam Bộ...".
hoặc
"Sống ở đây, tuy kinh tế phát triển, nhưng văn hóa không thể bì kịp với vùng Trung tâm". Tiếng nói mang nhiều tính cách khẩu ngữ, ít được trau chuốt, như tiếng nói ở vùng trung tâm vốn là ngôn ngữ văn học của dân tộc từ nhiều thế kỷ trước.
Ngoài phương ngôn Bắc bộ ra - phương ngôn nền tảng của ngôn ngữ văn học Việt, không có phương ngôn nào (thí dụ như phương châm Bắc - Trung bộ) được dùng để sáng tạo nên những tác phẩm văn học".
Sự phủ nhận truyền thống văn hóa được bộc lộ rõ qua vụ tạm gọi là "Cù lao Tràm" tên một cuốn truyện của Nguyễn Mạnh Tuấn. Sau nhiều bài đề cao, tiếp đến nhiều bài phê phán. Luận điểm phê phán nói chung có thể được lược tóm như sau: Sở dĩ nhiều nhân vật đi làm cách mạng gốc Nam bộ, sau chiến tranh trở thành sa đọa, là vì tự căn bản họ là người thuộc về một miền không có truyền thống lịch sử như Hoàng Hà đã ghi trong bài "Nghĩ về Cù Lao Tràm", báo Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh số 413, 17-1-1986:
"Qua Cù Lao Tràm", nông thôn Nam bộ không có lịch sử, không có truyền thống, chỉ có những tập quán xấu xa, dốt nát thấp kém từ kiến thức lẫn tập quán" (trang 165). Nhận thức này, ý kiến chủ đạo này được đồng chí Lê Khắc Thành, Viện quản lý kinh tế ghi nhận trên báo "Saigon giải phóng" số chủ nhật 30-6-85 là vùng đất và con người "thiếu thốn truyền thống kinh tế lẫn văn hóa" - "Đồng hóa nếp sống và tâm hồn chất phác giản dị với u mê hoang dã".
"Chủ đề của cuốn sách vượt ra khỏi cái khung của một cuộc vận động canh cải về kinh tế. Nó còn là một vấn đề xã hội, không kém phần bức xúc nếu không phải là cấp bách hơn, quyết định hơn nữa, trong hoàn cảnh thực tế của xã Tân Phú (còn gọi là Cù Lao Tràm) và của đồng bằng Nam bộ nói chung. Nơi đây, thiên nhiên ưu đãi những con người sống trên dải đất giàu đẹp này lại cực khổ trong "thiếu thốn truyền thống" về cả kinh tế lẫn văn hóa, và hai cái thiếu cùng có liên quan, ảnh hưởng lẫn nhau, qua lại". Tác phẩm - kiến nghị của một nhà văn. Lê Khắc Thành. Báo Saigon giải phóng 30-6-1985.

*

Qua những chứng từ trích dẫn kể trên, ai nấy đều thấy việc nhận định đánh giá văn học, văn hóa miền Nam của những người miền Bắc và phản ứng của những người miền Nam từ 1916 (vụ Phạm Duy Tốn, cụ thể xảy ra những vụ sớm hơn nữa, mà chúng tôi chưa tìm ra) đến 1985 vẫn giống nhau. Điều đó cũng cho thấy những thái độ văn hóa này không tùy thuộc các thế hệ, các ý thức hệ tư tưởng, thể chế chính trị... nhưng bị quy định bởi những yếu tố mà chúng tôi gọi là yếu tố địa lý chính trị.

Vấn đề chúng tôi nêu lên là một mảng văn học bị bỏ quên vì không biết đến (8) và bị bỏ qua vì có biết nhưng do một đánh giá phê phán nên đã không thèm xét đến.

Giả sử miền Nam hồi 1939-1940 có những Dương Quảng Hàm, Vũ Ngọc Phan, Hoài Thanh, Hoài Chân thực hiện những bộ Văn học sử Việt Nam, Nhà văn hiện đại, Thi nhân Việt Nam, trong đó giới thiệu những nhà văn nhà thơ ở miền Nam ít ra cũng bằng số lượng các nhà văn nhà thơ miền Bắc (dĩ nhiên đây là một giả thuyết không thể có nhưng nêu lên để thử tìm hiểu nguyên nhân tại sao đã không thể có, có lẽ sự kiện bỏ quên bỏ qua vẫn xảy ra, vì thế điều cốt yếu ở đây không phải chỉ là trình bày, chứng minh mảng văn học có đấy, phong phú về số lượng, mà là có chứng minh được vai trò lịch sử của nó về mặt biểu lộ lòng yêu quê hương, gắn bó với đòi hỏi thống nhất đất nước, bảo vệ văn hóa dân tộc, và giá trị nghệ thuật của nó, dựa vào những tiêu chuẩn khác mà thôi. Những người như Phạm Quỳnh đã chỉ chú trọng vào cái phẩm, không phải cái lượng, nghĩa là vào ý nghĩa, giá trị nên không thể chịu thuyết phục nếu bây giờ chúng tôi chỉ làm việc phục hồi mảng văn học này về số lượng...
Chuyện nêu lên là chuyện văn học, nhưng những vấn đề thực sự đặt ra lại không phải văn học vì đụng đến chuyện Nam Bắc. Chuyện Nam Bắc bắt nguồn từ sự kiện khác biệt giữa các miền, địa phương. Thay vì ghi nhận như thế, nghĩa là công nhận cái riêng biệt của mỗi miền có nguyên nhân, ý nghĩa, giá trị của nó mà không đánh giá hơn kém như người ta thường làm trước sự khác biệt về phong cảnh thiên nhiên, khí hậu, về sinh hoạt văn hóa vật chất ăn, mặc, ở; nhưng về sinh hoạt văn hóa tinh thần, người ta lại đánh giá hơn kém theo những tiêu chuẩn, lối nhìn của mình, do đó mà có thái độ khinh chê và mặc cảm tự tôn, tự ti. Có lẽ chỉ trong giới ăn học trí thức, mới thấy rõ rệt những thái độ khinh chê, mặc cảm, tự tôn tự ti. Tuy là số ít, nhưng là thành phần có uy tín quyền hành tinh thần chính trị, nên thái độ của họ có tác động đáng kể...
Câu chuyện Nam Bắc thời nào cũng thấy, có điều khi nặng khi nhẹ, lúc công khai lúc âm ỉ thôi. Tờ Thanh niên, hồi 1944 nói nhiều về thống nhất ba miền và ngôn ngữ phong tục đã ghi nhận: Tới năm 1925, người Nam Trung và Bắc vẫn còn nghi kÿ và ghét lẫn nhau như thường, tuy đồng bào ở ba nơi đã chung đụng với nhau nhiều rồi. Gần gũi nhau mà cứ coi nhau như người khác nước, cứ hiểu lầm nhau và cứ giữ lèo, giữ lái thời cũng không khác hồi nhà ai nấy ở bao nhiêu" (10).

Thực ra ít khi người ta nói lên trên sách báo và chưa bao giờ ai nghĩ đến đem nó ra mà nghiên cứu một cách khoa học vì đây là điều hầu như là một cấm kỵ; nói ra sợ đụng chạm, mất đoàn kết, tuy trong thực tế hàng ngày người ta vẫn nói, làm điều mất đoàn kết. Tại sao? Người miền Bắc thường được coi là tế nhị, kín đáo khôn khéo, còn người miền Nam là bộc trực hay nói thẳng. Nhưng chính người tế nhị khôn khéo lại nói làm những điều mất lòng, nghĩa là vụng về! Tại sao? Theo chúng tôi hiểu, chính vì họ thành thực tin những điều họ nghĩ nói ra và cho rằng mình không hề có ý xúc phạm đến ai nên khi họ thấy phản ứng, dễ hiểu lầm kẻ phản ứng có đầu óc kỳ thị mà không biết chính mình là kẻ có đầu óc kỳ thị trước, vì đã đánh giá hơn kém và có thái độ đối xử thích hợp với lối nhìn đánh giá đó... Kẻ phản ứng, bị nghi ngờ là kỳ thị mà kỳ thị là một điều không tốt, nên đành phải nhẫn nhục, chịu đựng, mặc dầu vẫn ấm ức, bực bội...
Nếu như hai bên đi đến chỗ hiểu được điều nấy: một bên nhận thức được chính mình là kẻ kỳ thị đấy, một bên hiểu rằng người gây ra kỳ thị không biết mình kỳ thị, không cố ý cố tình gì đâu, vì đây là một thái độ có tính tập thể, vô thức do những yếu tố địa lý chính trị của một hoàn cảnh sống quy định thì có thể coi như bắt đầu hiểu nhau rồi, cũng là người Việt Nam cả, nhưng sống ở Bắc thì nghĩ thế này, và sống ở Nam thì nghĩ thế kia; nếu người miền Bắc vào ở lâu trong này cũng sẽ nghĩ như người vẫn sống ở miền Nam và ngược lại. Nếu một lối nhìn do những yếu tố địa lý chính trị của mỗi vùng quy định, vượt khỏi ý đồ cá nhân, nghĩa là do tính khách quan thì có thể tìm hiểu được một cách khoa học và rút ra những quy luật. Vấn đề quan hệ giữa con người và vùng đất mới tạo ra một lối nhìn, thái độ sống có những đặc điểm khác với lối nhìn, thái độ sống của con người ở vùng đất cũ không phải là một trường hợp cá biệt chỉ thấy ở Việt Nam, mà còn ở nhiều nơi khác như Mỹ châu và Âu châu, Anh và Úc, Tân Tây Lan v.v...
Chẳng hạn, người Âu châu thường chê người Mỹ không có văn hóa hoặc văn hóa ấu trĩ trái lại người Mỹ chê người Âu Châu, nhất là người Pháp không thể làm kinh tế phát triển được, dù tả hữu gì lên cầm quyền cũng vậy thôi vì tả hữu đều giống nhau cùng có những thiên kiến về văn hóa ngăn cản óc sáng tạo, khả năng thích nghi với thực tế... Người Anh chê giọng Mỹ, Úc, Tân Tây Lan, chỉ giọng Luân Đôn mới là tiếng Anh chính cống mà thôi v.v... Có điều giữa những nước trên, chỉ có những thiên kiến vậy thôi, không có những căng thẳng đụng độ hàng ngày vì phải chung sống với nhau trong một biên giới quốc gia.

*

Qua những chứng từ trích dẫn kể trên, chúng tôi ghi nhận một số những đánh giá hơn kém đã trở thành thiên kiến về những nếp sinh hoạt văn hóa của người miền Nam:

1. Báo chí không có tính cách văn chương, chỉ đăng các thông cáo của Nhà nước hay các chuyện làm ăn buôn bán mà thôi.
2. Truyện Tàu được ưa thích chứng tỏ một trình độ thấp kém về văn hóa (thích chuyện hoang đường, nhảm nhí).
3. Viết sai chính tả vì chỉ biết nói sao viết vậy do lười biếng cẩu thả.
4. Văn nôm na, trơn tuột như tiếng hàng ngày, không chải chuốt văn vẻ nên không phải là văn chương, hoặc chỉ là thứ văn chương hạ cấp...
5. Lý luận "cù lần" con nít, chỉ biết dựa vào thực tế như thế là thế đó.
6. Thiếu cái gốc truyền thống văn hóa dân tộc sâu xa, vững chắc dựa trên nho học "một mảnh đất ít thấm nhuần nho học".
7. Do đó, khi tiếp xúc với văn hóa Tây phương, dễ bị mất gốc, chịu ảnh hưởng nặng nề văn hóa Pháp.

Như trên đã trình bày, điều then chốt ở đây là thái độ trước sự khác biệt. Thay vì phủ nhận sự khác biệt, để so sánh hơn kém đưa tới những đánh giá kể trên, chúng tôi sẽ ghi nhận sự khác biệt để tìm ra những nguyên nhân, yếu tố giải thích sự khác biệt trên bình diện nghiên cứu khoa học những mối quan hệ giữa con người với vùng đất cũ, vùng đất mới.

Với tinh thần trên, chúng tôi bắt đầu bằng cách tìm đọc cho bằng được một số tác phẩm tiểu thuyết, sử ký, tiểu thuyết lịch sử, báo chí xuất bản trong thời kỳ này. Qua những gì đã đọc được, mặc dầu còn ít, chúng tôi cũng bắt gặp một số dữ kiện của thực tế cho phép chúng tôi phác họa những giả thuyết giải thích.

1. Trước thái độ bỏ quên bỏ qua vì khinh thường, phủ nhận, tại sao người miền Nam không tự khẳng định trên bình diện văn học? Chúng tôi giả thuyết hình như người miền Nam sống văn chương hiểu như một sinh hoạt sáng tác, hay thường thức, nhiều hơn là chú ý đến làm văn học, hiểu như một sinh hoạt nhận thức, lý luận, phê bình văn chương, tổng hợp thành văn học sử. Báo chí trong Nam thời kỳ này chỉ thấy quảng cáo sách truyện, rất ít có bài phê bình, lý luận về văn học và càng ít có sách viết về tác phẩm, tác giả... như ở miền Bắc. Sở dĩ các tác giả miền Bắc cùng thời sau này được biết đến là vì có những nhà phê bình, phỏng vấn, viết bài, viết sách phê bình nhà văn ngay lúc họ còn sống và sau khi họ đã mất. Họ được biết đến sau này như đối tượng của loại sinh hoạt văn học. Ở miền Nam, rất ít có người làm việc phê bình, tổng kết văn học sử. Tại sao? Vì không thể, hay không muốn, không cần làm?

2. Về hình thức sinh hoạt văn hóa (viết, in, xuất bản, phát hành) sách báo ở miền Nam không phân biệt văn chương bác học, văn chương bình dân. Có những sự kiện chứng tỏ sự không phân biệt này: chẳng hạn ở miền Nam chỉ có một giọng nói cho cả miền, thôn quê, tỉnh, thành gồm các tầng lớp đều ưa thích truyện Tàu, cải lương, vọng cổ... Tiếng lóng không phải chỉ phổ biến trong một người một nơi; cũng không phân biệt văn chương với các sinh hoạt khác: tôn giáo, kinh tế, thương mại, chính trị... Chẳng hạn sách in từng tập mấy cắc, vẽ hình, bán ở bến xe, bến đò, tiệm tạp hóa xen kẽ nhiều quảng cáo thương mại. Báo tôn giáo, khoa học, không chuyên thuần túy tôn giáo, khoa học, nhưng có đủ bài thuộc các mảng loại khác (văn thơ, thương mại, kiến thức phổ thông... Chủ trương không phân biệt này có ý nghĩa gì, dựa trên những tiêu chuẩn nào? Tại sao vậy...

3. Truyện Tàu và văn hóa Trung Quốc được du nhập, truyền đạt từ dưới lên trên do cộng đồng người Minh hương, không phải từ trên xuống dưới do tầng lớp trí thức làm như ở miền Bắc. Truyện Tàu được người miền Nam đặc biệt mê thích, phải chăng vì phản ảnh những nỗi niềm, ước mơ của tâm sự người lưu dân? Truyện Tàu cũng ảnh hưởng sâu đậm vào đời sống hàng ngày về mặt đạo lý, đến nỗi đạo thiên chúa cũng phải nghĩ đến việc sử dụng truyện Tàu làm công cụ truyền đạo. Sự kiện đó cho thấy truyện Tàu không thể là thứ truyện nhảm nhí, mê tín, dị đoan như Phạm Quỳnh đã đánh giá.

4. Tại sao người miền Nam không lưu ý tự đề cao hoặc hãnh diện này nọ về địa phương mình bằng thơ văn như người đất Thăng Long, đất Phú Xuân, Nghệ Tĩnh thường làm, nhưng lại không ngần ngại nói sao viết vậy (dùng từ ngữ địa phương, phát âm theo địa phương. Vấn đề không phải là tại sao người Lục tỉnh viết sai chính tả, mà là dám viết sai chính tả, cứ viết sai chính tả, một điều mà các vùng khác không dám làm. Đây là một vấn đề thuộc dân tộc học và xã hội học. Ngoài ra cũng còn vấn đề: có vấn đề viết sai hay đúng chính tả, hay chỉ có vấn đề phát âm khác nhau, một vấn đề thuộc ngữ học?

5. Lối văn nôm na như tiếng nói hàng ngày tiêu biểu cho một trình độ sơ khai, ấu trĩ hay cho một sự trở về cái chân chất, cái sống thực sau khi đã trở thành quá qui ước, khách sáo, hình thức, mặc dầu rất chải chuốt, nhưng là giả tạo? Nhìn vấn đề trong viễn tượng diễn tiến của lời văn qua các giai đoạn: câu nói học câu văn, câu văn học câu nói sẽ thấy lối văn nôm na, phải chăng phản ảnh một lựa chọn có ý thức, của những người thừa khả năng viết văn chải chuốt, nhưng tự ý tự nguyện phủ nhận nó để trở lại cái chân chất, sống thực?

6. Diễn tiến về lý luận của con người trong lịch sử cũng có những giai đoạn và những trở về một giai đoạn đã qua dưới những hình thức, dạng mới... Vậy lối lý luận của người miền Nam có phải tiêu biểu cho một giai đoạn ấu trĩ sơ khai hay chẳng qua cũng là sự trở lại một cách có ý thức, cái tiền luận lý (prélogique), cái vong luận (paralogique)?

7. Dựa vào một số sự kiện biểu lộ nho học ở vùng đất mới, tìm hiểu xem nho học đã được quan niệm thế nào đối với người lưu dân, tại sao nho học lại được coi như một chỗ dựa, điểm tựa để chống lại sự du nhập và lợi dụng chính trị văn hóa Tây phương.

8. Miền Nam đã tiếp nhận thế nào văn hóa Pháp vào thời kỳ đầu Pháp áp đặt thuộc địa ở Nam Kỳ. Có phải là bị ảnh hưởng nặng nề đến chỗ mất gốc như Phạm Quỳnh nhận xét hay chẳng qua nhận xét của Phạm Quỳnh chỉ là cái nhìn hời hợt từ bên ngoài. Xét về mặt chính trị trước chính sách đồng hóa về văn hóa của người Pháp, người miền Nam có thái độ ra sao? Và xét về phương diện địa lý chính trị, con người miền Nam thích hợp hay dị ứng (allergique) với văn hóa Tây phương loại văn hóa các nước la tinh?

Cũng xét về mặt địa lý chính trị, người miền Nam nhìn lịch sử Việt Nam nói chung và miền Nam nói riêng từ miền Nam như thế nào?

Thái độ của người miền Nam đối với nhà Nguyễn, Tây Sơn, đặc biệt đối với danh nhân nhà Nguyễn là thế nào? Tại sao vào đầu thế kỷ XX lại xuất hiện rất sớm những sách sử ký, tiểu thuyết lịch sử, tiêu biểu, một mối quan tâm đặc biệt về lịch sử Việt Nam, về sự thống nhất đất nước? Những dữ kiện này bắt buộc phải tìm hiểu và xác định vai trò lịch sử người trí thức miền Nam thời kỳ này là thế nào?

Đó là những vấn đề mà chúng tôi tìm hiểu đưa ra giả thuyết giải thích mang tính chất gợi ý như những cố gắng tìm hiểu bước đầu mà thôi.
Đã hẳn, những vấn đề nêu lên không đặt ra trên lãnh vực thuần túy văn học nhưng vượt văn học, bước vào các lãnh vực thuộc ngữ học, xã hội học, dân tộc học, triết học văn hóa... Đây là một công trình nghiên cứu có tính cách liên ngành (interdisciplinaire) mà rõ ràng một mình chúng tôi không thể làm được một cách nghiêm chỉnh. Do đó những nhận xét, giả thuyết nêu ra càng mang tính chất gợi ý đòi hỏi sự tham gia cộng tác của những nhà chuyên môn, để biến công trình này thành một công trình tập thể.


Sau cùng, chúng tôi muốn thưa với người đọc:

Xác định rõ những lãnh vực và bình diện nhằm tìm hiểu vấn đề, chúng tôi hy vọng người đọc không hiểu lầm những nhận xét đưa ra mang tính chất phê bình đạo đức hay cá nhân ai, dù những sơ xuất của chúng tôi có thể làm cho có cảm tưởng đó, nhưng ý định của chúng tôi là muốn tìm cái gì sâu hơn những ý đồ cá nhân, những lựa chọn có ý thức, một cái gì có tính tập thể, vô thức, quy định chi phối những cảm quan, lựa chọn trên bình diện ý thức... Nói cho đúng những suy nghĩ nhận xét đưa ra cũng xuất phát từ một tự xét mình, tự kiểm điểm. Chúng tôi sống ở miền Nam trên 30 năm rồi, đã làm văn hóa theo một quan niệm "bác học" và đánh giá văn chương miền Nam chẳng khác gì một Vũ Ngọc Phan, Phạm Thế Ngữ. Chẳng hạn chúng tôi rất ít để ý đến cải lương, không thèm đọc Hồ Biểu Chánh hay báo "Saigon mới" của bà Bút Trà v.v... mặc dầu đó là tờ báo bán chạy nhất. Chúng tôi đã phê phán nghiêm khắc Trương Vĩnh Ký và đưa đẩy một số người khác, kể cả người gốc miền Nam vào việc phê phán đó (9). Bây giờ nhìn lại, chúng tôi thấy phê phán đó đúng nhưng không thực, nghĩa là chỉ hợp với luận lý nào đó, chưa phản ánh được hết thực tế. Dĩ nhiên đã có những hoàn cảnh, nguyên nhân đưa chúng tôi tới chỗ dần dần nhận ra lối nhìn chật hẹp, lệch lạc của mình, vì những thiên kiến xã hội mà chúng tôi đã tiếp nhận.

Nói tóm lại, trong công trình dài hạn này, chúng tôi đi từ sự kiện văn học (báo chí, sử ký, văn xuôi tiểu thuyết) để tìm hiểu con người vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đồng Nai về phương diện giao lưu văn hóa giữa hai miền Nam Bắc và giữa văn hóa truyền thống Việt Nam và các văn hóa nước ngoài trong viễn tượng những quy định địa lý chính trị.
 --------------
Chú thích
(1) Theo bản của Trung tâm học liệu xuất bản, Saigon 1968 trang 425.
(2) Evolution de la littérature et de la pensée vietnamienne depuis l'arrivée des français jusqu'à nos jours (1865-1946) Editions Tao Đàn Huế. Imp. de l'Union Nguyễn Văn Của, SAIGON 1949.
(3) Collection UNESCO. Introduction aux littératures orientales. G. Maisonneuve et Larose. Paris 1969.
(4) Quỳnh Lâm, hiên văn nghệ, xuất bản, Saigon, 1970
(5) Tiếng cụ ở Bắc như tiếng Bác trong Nam.
(6) Văn - (Saigon) Tưởng niệm Hồ Biểu Chánh số 80 - 15-4-1967.
(7) Không phải những học giả khác ở Bắc Hà đều đánh giá Trương Vĩnh Ký như Phạm Quỳnh, không kể Lê Thanh đã vào Saigon để tìm tài liệu biên soạn một cuốn về TVK (Phổ thông chuyên san, Tân Dân xuất bản, Hà Nội 1943) chỉ cần nhắc tới bài biên khảo dài, rất nghiêm túc và khách quan, khoa học của cụ Nguyễn Văn Tố mà cho đến nay rất ít người biết đến đăng trong Bulletin de la Société de l'enseignement mutuel au Tonkin, Tome XVII. 1937. Chỉ những người cỡ cụ Tố mới có khả năng phê bình Trương Vĩnh Ký về nho học, văn học cổ Việt Nam (chữ nho, chữ nôm, quốc ngữ) về mặt chú thích hiệu đính, về ngôn ngữ học... Bây giờ chúng ta có làm, mỗi người có thể chỉ làm được một mặt, và có lẽ không hơn gì cụ Tố.
(8) Tam Lang, "cuộc đời làm văn làm báo" Nghiên cứu Văn học (Saigon), số 4-6-1971, trang 35.
(8) Thực ra, ngay mảng văn học ở miền Bắc thời kỳ này, nhiều tác giả cũng bị bỏ quên, như trường hợp tiểu thuyết trinh thám: không phải đến Phạm Cao Củng, Thế Lữ mới có tiểu thuyết trinh thám, mà đã có những tác giả đi trước Thế Lữ, Phạm Cao Củng từ 10 năm trước như: Nguyễn Trọng Dương "Chết sống thuyền quyên", truyện trinh thám, Hanoi Imp. Nghiêm Hàn 1923 154 trang. Phải chăng vì người ta đã chỉ căn cứ vào Vũ Ngọc Phan, rồi người nọ cứ nói theo người kia, thế thôi, không chịu đi tìm những nguồn khác?
(9) Thanh niên số 32 ngày 22-4-1944 Saigon do ông Huỳnh Tấn Phát chủ nhiệm.
(10) Xem "Chữ, văn quốc ngữ" Nguyễn Văn Trung; Cuốn sổ bình sanh của Trương Vĩnh Ký của Nguyễn Sinh Duy, Phạm Long Điền. Tủ sách "Tìm về dân tộc, Nam Sơn XB 1975 và loạt bài trên Bách Khoa 1974 - 1975 của Long Điền.
 
© Copyright Nguyễn Văn Trung 1980, 2005

No comments:

Post a Comment