Thursday, December 6, 2012

TẠ TỴ VÀ NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ


Tôi vẫn làm  ở Nha thông tin, ngày 2 buổi.  Phòng Tranh tôi  đóng cửa lâu rồi, nhưng dư âm vẫn ồn ào qua báo chí.  Tôi quen thêm Nguyễn Phố , em ruột Nguyễn Giang , cùng  làm ở Nha thông tin.  Anh chuyên làm bản kẽm.  Nguyễn Phố cũng mê hội họa lắm.  Anh mua của tôi một tấm tranh  đắt gấp 3 lần số lương hàng tháng, nhưng nhờ có nghề làm bản kẽm, nên anh có tiền.  Nhưng có tiền là một chuyện, mua tranh lại là chuyện khác.  Rất nhiều người giàu, nhưng không mua tranh, vì không biết được giá trị của  hội họa.  Phần lớn người mua đều thuộc thành phần trí thức Việtnam. Ngoài Nguyễn Phố, nhà văn Vũ Bằng, nhà văn Ngọc Giao cũng mua,  mỗi người 1 tấm.  Tôi rất sung sướng, không phải vì đã thu về được số tiền lớn, mà chính vì đường của trường họa, tôi đương theo đuổi, đã có một số người thưởng thức- nó báo hiệu con đường rẽ củanghệ thuật tạo hính Việtnam bắt đấu  đi tiên phong trong cung cách cấu tạo hình thể, màu sắc củatranh lập thể và gọi tôi là  Picasso Việtnam.   Nhưng theo ý tôi ,  không đúng như vậy.   Về phương diện chuyên môn, tuy cùng theo một phương pháp cấu tạo họa phẩm; nhưng mỗi họa sĩ có lối diễn tả riêng.   Điều này rất dễ nhận biết , nếu chúng ta để 2 tác phẩm: 1 của PICASSO, I của BRAQUE bên cạnh nhau, sẽ thấy sự cách biệt ; tuy cả 2 đều đi tìm chiều thứ 4 ( 4è dimension), tức chiều động của sự vật được mang vào nghệ thuật tạo hình.   Cái khối  phương lập ( cube)mà Picassodùng  không phải là cái khối   mà BRAQUE hoặc GLELZESS đem áp dụng trong kích thước hoạ phẩm của mình.   Sự cái biệt của mỗi họa sĩ  tạo cho mỗi người chỗ đứng riêng rẽ, không trộn lẫn, không dung hòa. Nó là định luật chung của mỗi trường phái tạo hình.  Những tác phẩm của tôi  cũng không đi ra ngoài định luật đo, vì thế, không thể có sự so sánh, hoặc sự trùng hợp giữa tôi và Picasso hoặc của các danh họa tây phương khác- tôi chỉ là người họa sĩ Việtnam mở đường, phá vỡ cái quan niệm cũ rích của nền hội họa do Trường Mỹ thuật Đông  Dương đào tạo, đạp đổ bức tường thành kiến, coi người họa sĩ là chiếc máy chụp hình, một người thợ vẽ không hơn  là nhà sáng tạo .
Sau cuộc  triển lãm, tôi vững tin vào con đường hội họa mới, nhưng không phải tôi dừng tài năng ở trường Lập Thể mà tôi còn muốn  đi xa hơn nữa  , vì sau đệ  2 thế chiến , trường họp này đã bắt đấu già, trường trường  Trừu Tượng đã khởi sắc, đang vươn lên giữa vùng trời sáng rực hào quang bên Âu châu.
Từ ngày thêm anh em hồi cư về Hànội, đời sống có phần vui hơn, nhưng cung cách sinh hoạt không còn như trước nữa.   Đời sống của Vũ Hòang Chương, Đinh Hùng vẫn không có gì   đáng khích lệ.   Họ vẫn sống lây lất, qua sự đùm bọc của một số  anh em có lòng.   Bùi Xuân Phái và vợ sống nhờ vào đại gia đình.  Tôi vẫn thường đến thăm Phái tại căn gác phố Hàng Bút.   Tâm sự của Phái nặng chĩu ưu tư, ohiền muộn; vì sau những năm kháng chiến, lúc trở về cũng chẳng làm gì hơn là quanh quẩn trong gian phòng hẹp, với 5, 7 bức tranh quen thuộc.   Trong khoảng thời gian này, Bùi Xuân Phái thường vẽ người – nhất là vẽ vợ, chứ ít vẽ phố -mặc dù  vẽ phố -  là  sở trường của anh.   Phái có người em họ: Bùi Xuân Uyên , ở phố hàng Quạt , đang chủ trương tờ tạp chí THẾ KỶ .
Một hôm,   nhân cuộc găp gỡ bất ngờ,  Phái giới thiệu tôi với  Bùi Xuân Uyên , bằng lời lẽ rất nồng nhiệt.   Bùi Xuân Uyên dáng người tầm thước, có khuôn mặt lưỡi cày, đôi mắt to sáng.  Đặc biệt đôi lông mày rậm như 2 vết mực.  Anh có nụ cười thật hồn nhiên, 2 đầu môi như lúc nào cũng kéo lên, làm chiếc miệng rộng hẳn ra.   Anh có tú tài toàn phấn Pháp.  Vợ anh tên MÉN, người phốp pháp , trắng, nổi tiếng đẹp ở phố Hàng Bông, chuyên bán  mền và mùng.   Về sau, chị Uyên cũng viết truyện ngắn trong tờ Thế Kỷ, dưới bút hiệu XUÂN NHÃ.   Khi gặp, Bùi Xuân Uyên ngỏ ý mời tôi và Bùi Xuân Phái vẽ bìa  cho tờ Thế Kỷ mỗi kỳ, sau, thỉnh thoảng, Phạm Khanh cũng có vẽ và viết cho tờ báo.
Tờ Thế Kỷ có mặt, do vài anh em  làm công chức bỏ tiền ra in, nhằm mục đích phổ biến kiến thức văn hóa.   Nguyên tắc chung của nhóm, ai viết sao, vẽ sao,  làm gì cũng được, miễn chịu trách nhiệm về công việc của mình.   Người bỏ tiền cũng như người viết, vẽ giúp ai, ai cũng có quyền riêng, không nhận sự chỉ huy dưới bất cư hình thức nào.   Trên phương diện pháp lý, Bùi Xuân Uyên  làm chủ nhiệm kiêm chủ bút, còn quản lý do chị Mến đứng tên.   Trên thực tế, nhóm THÉ KỶ gồm có 4 nhân vật  chính: những người  đã bỏ tiền ra  mỗi tháng để ấn hành tờThế Kỷ là ; BÙI XUÂN UYÊN, TRIỀU ĐẨU, TRÚC SĨ và VIÊN PHONG. Bùi Xuân Uyên dạy học, Triều Đẩu công chức cấp cao, Trúc Sĩ làm ở Kho Bạc, và Viên Phong  là chánh sở Nha nhân viên .   Trừ Bùi Xuân Uyên, còn các tên khác đều khác đều  là bút hiệu. Trúc Sĩ, trước làm lục sự tại tòa án khi ở trong kháng chiến, anh  làm ủy viên Tòa án nhân dân.  Lúc vào Thành, anh mới làm ở Kho Bạc.  Ở Hànội vào những năm 1951 – 1952 và 1953, chỉ có tờ tạp chí THẾ KỶ , cơ quan ngôn luận  độc lập, chuyên về văn học, khảo cứu cũng như sưu tầm tài liệu có ích cho sự hiểu biết chung, chứ không dính dáng tới chính trị.  Vì nhìn rõ mục đích, nên tôi vui lòng hợp tác với nhóm THẾ KỶ qua lời giới thiệu của Bùi Xuân Phái.
Sau cuộc triển lãm  , tôi thấy cần phải nghỉ vẽ một thời gian để quên đi những hình thể , và màu sắcx mình đã dùng rồi, nếu mình còn muốn tiến xa hơn.   Trong lúc rảnh, chả biết làm  gì, tôi tập viết trruyện ngắn và làm thơ.   Khi còn ở vùng kháng chiến, tôi đã viết truyện ngắn, nhưng đó chỉ  mới là bước khởi đầu, như đứa trẻ tập đi.   Nếu viết để chơi,  không sao; nhưng  muốn sau khi viết, còn để lại chút gì, đó lại là một vấn đề khác.   Vẽ có kỹ thuật của vẽ, văn chương có kỹ thuật của văn chương, không phải chuyện đùa .   Do vậy, tối tối, tôi ngồi viết, viết chán lại sửa  làm sao cho câu văn có tác động tâm lý sâu sắc đối với độc giả.
Nếu trong những bước đầu mới của tôi ở hội họa có Bùi Xuân Phái , Nguyễn Sáng khuyến khích, thúc đẩy, thì trong văn chương, bước đầu, tôi  được nhà văn Ngọc Giao luôn luôn thúc  giục và sẵn sàng đọc lại, cho ý kiến về bài viết.
Nhờ đó, dần dà tôi viết khá hơn.
Nhà văn Ngọc Giao * có một thời gian làm chủ bút tờ Tiểu thuyết tử bảycủa nhà  TÂN DÂN.  Anh  là cây bút  rất nổi tiếng của độc giả trung lưu, nhất là phụ nữ, vì văn anh bóng bảy, nhẹ nhàng, với cốt truyện thuần túy tình cảm.   Anh không được các trí thức, có tầm hiểu biết cao rộng ưa, vì họ cho rằng văn  chương của anh thuộc loại tầm thường, không sâu sắc,  chỉ để cho đàn bà, con gái đọc  thôi.   Riêng tôi, thấy sự chê đó chỉ đúng một phần nhỏ, vì mỗi nghệ sĩ đều có cá tính riêng ở bất cứ ngành nghệ thuật nào; do vậy, nếu văn Ngọc Giao chỉ làm thỏa mãn sự thưởng ngoạn của một số người nào đó, âu cũng do  biệt tài của anh  vậy.   Ngọc Giao tuy là nhà văn, nhưng rất yêu mỹ thuật; vì vậy, khi gặp, mến tôi ngay.   Chỉ một thời gian ngắn, chúng tôi trở thành bạn thân.   Ngọc Giao, con người rất đa tình.  Theo tướng số, anh có dáng người tầm thước, hơi mập một chút,  khuôn mặt thô, với mái tóc rợn sóng và cặp mắt sâu không lúc nào mở to, luôn luôn dim dim mơ mộng, với đôi môi dầy chúm lại, như lúc nào cũng thèm khát yêu đương!   Với hình dáng đó, anh tránh sao được chiếc lưới ái tình mà định mệnh lúc nào cũng giăng sẵn ở dọc đường.   Tuy anh có tới 2 vợ, mà vẫn chưa thỏa mãn?   Đặc biệt, Ngọc Giao rất mê xem đá bóng.   Không một trận cầu quốc tế nào thiếu mặt anh ở sân cỏ Mangin , gần thành Cửa Bắc.    Anh thuộc tên từng cầu thủ và lối chơi của họ.
———–
Ngọc Giao ‘ đạo  1 cốt truyện ’ của Somerset Maugham để viết ‘ Cầu sương hay thiếp phụ chàng’ ( Nxb Thế giới Hànội in) gây một dư luậm ồn ào một thời  ở Hànội, (TP) 
————-
Tinh tình anh trái ngược hẳn với nhà văn Vũ Bằng.   Vũ Bằng rất thâm trầm, kín đáo.   Lúc nào cũng tỏ ra lịch sự, nói năng rất nhỏ nhẹ, đôi khi tỏ ra lễ độ; nhưng sự thực không biết anh đang nghĩ gì trong bụng. Vũ Bằng cũng có vóc người mập mạp, nhưng nước da hơi đen, tóc lúc nào cũng hớt ngắn, trông gọn gàng chứ không bay bướm như Ngọc Giao.   Vũ Bằng cũng thuộc nòi tình, khi chưa lập gia đình, nhưng từ nag2y lấy vợ, người vợ già hơn anh nhiều tuổi, nhưng nhiều tiền.   Từ đó anh không chơi bời nữa !  Tôi nghe nói, hình như vợ anh, người trong thân tộc, anh gọi bằng cô. Có lẽ vì lý do đó,  nên ít khi   anh mời ai về chơi nhà, trừ bạn thân lắm.   Khi tôi  quen anh, vì cùng làm ở Nha thông tin, anh đã cai thuốc phiện từ lâu, anh có viết cuốn hồi ký CAI, để cảnh tỉnh giới thanh niên, chớ nên  đi vào con đường thuốc sái.   Cuốn sách trước khi in đã đăng tải từng kỳ trên báo TRUNG BẮC CHỦ NHẬT, do Nguyễn Doãn Vượng chủ trương.   Văn chương Vũ Bằng ngắn, gọn, sâu sắc.
Người mở cánh cửa đầu tiên   cho Vũ Bằng bước vào nghề văn là  LÃNG NHÂN- PHÙNG TẤT ĐẮC , khi nhà văn này  làm chủ bút báo ĐÔNG TÂY ( khoảng 1931)  .  Vũ Bằng viết rất nhiều loại, ký dưới nhiều bút hiệu như  Tiêu Liêu, Thiên  Thư, Vạn Lý  Trình v.v …
Cuốn CAI sau này  được tái bản tại sàigón, dưới nhan đề PHÙ DUNG ƠI, VĨNH BIỆT do nhà THẾ GIỚI xuất bản.  Cuốn này có sửa chữa lại chút ít, so với cuốn CAI in trước kia.   Vũ Bằng sống rất  khép kín, ít khi tâm sự với ai.  Anh yêu hay  ghét, cũng không đoán được, vì nó không lộ trên nét mặt.
Nhà văn Ngọc Giao và Vũ Bằng cùng hợp tác, để làm việc cho tờ TIỂU THUYẾT THỨ BẢY của nhà in TÂN DÂN -    họ không ưa nhau bao nhiêu, một  phần vì tính tình không thích hợp . Ngọc  Giao luôn luôn cở mở,còn Vũ Bằng lúc nào cũng thu hẹp; riêng cái đặc tính ấy cũng đủ làm cho xa cách, còn nói gì đến đường lối văn chương ?! “ *
—–
* Biên tập cho  in chữ nghiêng.
———
Sự thực, những  truyện ngắn do tôi viết vào những năm  1951 -1952 hãy còn yếu lắm !   Tôi mới chỉ như đứa  trẻ đi những bước đầu.    Nhưng lúc đó tôi đâu có biết, cứ tưởng,  nếu bài của mình viết được đăng trên tờ THẾ KỶ là có giá trị rồi.
Và sau khi vào trong Nam , có thời gian xem lại,  tôi mới hay mình chưa có kỹ thuật; dù ý tưởng tuy có xúc tích.   Nhưng, những truyện ngắn tôi viết vẫn được đăng đều đều, có lẽ, do hảo ý  Bùi Xuân Uyên  và các anh em khác trong nhóm.
Triều Đẩu, người  to lớn,  bệ vệ, húi cua, tác phong đúng công chức  , viết trruyện ngắn rất sâu sắc , nội dung nghiêng về xã hội phan lẫn chút ít chính trị.   Tính tinh anh rất hồn nhiên, nhất là nụ cười, nửa bao dung, nửa kiêu bạc.   Anh không bao giờ chê ai, còn khen, nếu có, cũng rất chừng mực.   Cái gi đối với anh, hình như cũng là trò đùa. Anh nói với tôi :
- Anh ơi,   viết cho vui ấy mà, cho quên đi những lo nghĩ vẩn vơ và cũng để cho đời mình thêm chút hương vị, nhất là được tiêu dùng những trước phút trống rỗng !
Thỉnh thoảng , tôi có ghé thăm anh ở phố Hàng Quạt.   Anh rấtc ó hiếu đối với mẹ.   Tuy đã lớn tuổi, đứng trước mẹ , anh vẫn ngoan ngoãn như đứa con nít.   Còn đối  với bạn bè, giúp được ai cái gì, anh giúp ngay không ngại khó khăn.   Triều Đẩu, ngoài văn tài, anh còn là người co tư cách.   Nhưng thật đángt iếc, khji di cư vào Nam,anh viết rất ít,  có lẽ cái văn phong của anh không thích úng với sự thưởng ngoạn của dân chúng miền Nam.   Đau khổ hơn nữa, anh lại gắn bó với nàng Phù Dung tiên nữ và nàng đã dìm sâu đời anh cùng sự nghiệp văn chương  xuống vực thẳm . *
——–
*  Triều Đẩu vào Nam  , địa chỉ cuối cùng ở Phú Nhuận, số nhà 53  Trương tấn Bửu ( nay Trần Huy Liệu, quận Phú Nhuận).  Ông bà có 1 đứa trai độc nhất  ( enfant unique )  cho sang Pháp học. Có sáng tác vài cuốn, trong đó 
MEN RƯỢU ĐẾ  ( truyện dài in rô-nẹ-ô trong Nxb Đại nam văn hiến )  và NĂM CHƯƠNG TỰ NGÔN (tự sự kể đời làm văn)  in  linograph rất đẹp tại Kim Lai Ấn quán / Nguyễn Doãn Vượng.  Có dịp thuận tiện, tôi sẽ cho POST  cuốn tự sự kể NĂM CHƯƠNG TỰ NGÔN ,  bìa  do họa sĩ Hoàng lập Ngôn phác họa chân dung.  (TP)
—————-
Sau Triều Đẩu,  đến Viên Phong,  anh này thường viết những bài nghiên cứu về văn học, cũng như chínht rị.   Viên Phong có một kiến thức khá rộng, anh có dáng người nhỏ nhắn, khuôn mặt nhẹ nhàng, luôn luôn đăm chiêu, hình như lú nào  cũng như đang suy tư, kể  cả lúc đi đường.   Anh nói năng nhẹ nhàng, ít khi thấy cười.   Tôi nghe có  người nói, chính Viên Phong mới là linh hồn của tạp chí THẾ KỶ,  chứ không phải là  là Bùi Xuân Uyên.   Theo riêng tôi, dù Viên Phong hay Bùi Xuân Uyên, cũng thế thôi, vì họ đâu có dùng tờ THẾ KỶ làm bực thanh danh vọng.
Sau Viên Phong, phải nói đến  Trúc Sĩ. *, nhà văn chuyên viết truyện quái đản  trong tờ THẾ KỶ.   Dù là nhà văn , nhưng có lẽ vì làm công chưc lâu ngày , nên tác phong Trúc Sĩ không có gì là nhà văn cả.   Từ cách ăn mặc đến lới nói, cười, đi, không có vẻ gì là dáng dấp nghệ sĩ, nhà văn cả. … Nhưng đó chỉ là cung cách bề ngoài, khi giao du với anh, mới biết con người Trúc Sĩ rất hào phóng, thành thực.   Chỉ có cái khổ, anh bị nghễnh ngãng; nên  nói chuyện tâm tình với anh không được, muốn gì phải nói to.
——-
Trúc Sỹ  cũng dinh líu tới một vu đạo văn. Xem thêm trong NHÀ VĂN HẬU CHIẾN 1950-1956 / THẾ PHONG, Đại nam văn hiến xuất bản, Saigon 1959, 1965)  ( hoặc tại web Newvietart.comFrance ) 
—————–
Trường hợp của anh giống như nhà văn, nhà cách mạng Trọng Bình vậy.   Trọng Bình còn bị nặng hơn Trúc Sĩ nhiều, nhưng đâu phải lỗi ở họ, mà do bệnh tật làm phiền lụy.   tạp chí THẾ KỶ còn được sự hợp tác của các nhà  văn, nhà báo khác nữa- trong đó có  THẠCH TRUNG GIẢ* , nhà toán học NGUYỂN XUÂN VINH **,nữ sĩ Thụy An, Tương Phố.
———-
*      tập sách CHÂN GIẢ LUẬN của Thạch Trung Giả, bản in rô-nê-ô đầu tiên trong Nxb Đại nam văn hiến , không xin cấp phép, sau Lá Bối tái bản lại. (TP)  .
**   Nguyển Xuân Vinh ( 1930  Yên  Bái   -        )  đậu  tú tài toán,    bắt đầu tập viết  văn  , thường  gửi bài lai cảo tới các báo ở Hànội,  trong đó có tạp chí THẾ KỶ.    Sau tốt nghiệp phi công ở Pháp, từng giữ chức Tư lệnh Không quân Việt Nam Cộng Hòa  thời  chính phủ Ngô Đình Diệm,  tác giả tập truyện  ngắn’ Đời phi công’ ( bút danh Toàn Phong)  ( được giải ba  Văn chương thời Đệ I VNCH  1962 ) ,  có cấp bằng  Ph.D Aerospace  (USA), Docteur Es- Science ( Sorbonne, France),  giáo sư thường trực đại học Michigan (USA), có chân trrong NASA (  Hoa Kỳ).  Vợ cả Nguyễn Xuân Vinh là con gái tuần phủ Cung Đình  Vận,  vai vế trên đối với  trung tá KQ / VNCH Cung Thúc Cần  -  bởi Cung Thúc Vận là chú ruột CungThúc  Cần . ( Cung ThúcCần có  bút danh Cung Trầm Tưởng).  Hiện Toàn Phong – Nguyễn Xuân Vinh  ở  San Jose ( 2012).  (TP)  .
—————
Một buổi , tôi đến thăm  Triều Đầu, vô tình gặp nhà văn Toán Ánh, người chuyên viết về tiểu thuyết phong  tục tiểu thuyết và phong tục… Toan Ánh cũng là công chức.   Tính tình mực thước, đại khái giống như chuyên môn “sớm vác ô đi tối vác về” .
Toan Ánh viết dễ dãi,  khiông cầu kỳ,  chọn chữ, miễn sao lời văn diễn đạt được ý` tưởng là xong.   Hơn nữa, tất cả những đề tài được anh viết ra, đều nằm trong phạm vi xã hội đã có, đã hình thành như vậy rồi – anh chẳng cần thêm thắt, bày đặt để có một nội dung hấp dẫn như nhà văn Trần Tiêu, tác giả CON TRÂU , lúc đầu in trong báo NGÀY NAY, sau Tự Lực văn đoàn xuất bản.   Trần Tiêu nhiòn người dân quê   với phong tục, tập quán; tuys ẵn có, nhưng mục đích dựa vào phjong tục tập quán để nói lên thân phận con người thấp cổ, bé miệng bị cường hào ác bá trấn áp, bóc lột; tạo nên bao cảnh huông bi phẫn, thương tâm, trong lòng nảy sinh mối căm thù chống phong kiến.   Từ đó,  tiến lên làm cách mạng.   Toán Ánh không như vậy.  Truyện của anh hiền hòa như một bức tranh, có trời mây,  có lũy tre, có những con người sống yên phận, cam chịu sự an bài của định mệnh.   Văn là người ( le style , c’est l’homme) , từ ngữ này  rất đúng áp dụng vào Toan Ánh. tên thật của anh là TOÁN , anh đổi ngược lại chữ ANH TOÁN  thành TOAN ÁNH .    Dáng người anh  trung bình, không có gì đặc biệt, bởi vậy, vẽ chân dung anh bằng ngôn ngữ rất khó, càng khó hơn, khi nói đến nghệ sĩ tính của anh, vì anh không có nghệ sĩ tính nào trong đới sống cả.   Sống ở trong Nam được chừng đâu đó  mươi năm, chị Toan Ánh qua đời.   Vì lòng yêu thương vợ hiền, anh viết cả một cuốn sách với đầy đủ hình ảnh từ thuở lấy nhau tới ngày vĩnh biệt.   Lời văn vô cùng bi lụy.  Cuốn sách in ở Kim Lai ấn quán thật đẹp, chỉ dành tặng bạn bè và họ hàng nội ngoại.
Nguyễn Xuân Vinh , nhà toán học nổi tiếng tại nước Mỹ, người đã đóng góp một phần công lao vào công việc hoạch định đường lên mặt trăng, từ mấy chục năm trước, khi xưa, thỉnh thoảng cũng có viết bài cho THẾ KỶ.   Nguyễn Xuân Vinh   khi đó còn trẻ lắm, tôi ít giao thiệp, nên không biết nhiều về anh; chỉ đọc thôi.
Thi sĩ Hoàng Công Khanh thỉnh thoảng cũng cho đăng tải thơ trên tạp chí  THẾ KỶ, ngoài ra  tờ THẾ KỶ còn được sự trợ giúp đỡ thừơng xuyên  của 2 nhà văn nữ: Tương Phố và Thụy An.
Tương Phố , tác giả tập GIỌT LỆ THU.  Đây là một tập thơ khóc chồng thật thống thiết !   Ở trong khoảng thời gian  thập niên 40, ít có nữ sĩ lắm, do vậy, sự nổi tiếng của nữ sĩ Tương Phố, người mảnh khảnh, dáng đi như đàn ông, giọng nói sắc, đôi gò má hơi cao.   Theo các cụ thì, người đàn bà nào có tướng như vậy đều sát phu.   Có lẽ, tướng số đã nói đúng trong trường hợpTương Phố, vì nữ sĩ đã mất chồng từ lúc rất trẻ.   Khi tôi được gặp, nữ sĩ vẫn quấn khăn trên đầu, như những người đàn bà Việtnam cổ, lời nói, dáng điệu rất lịch sự, thanh nhã.   Tương Phố nhiều hơn tôi gần 20 tuổi; nhưng không vì thế mà có sự cách biệt về cảm nghĩ trong chiều hướng vă nghệ.   Nữ sĩ Tương Phố rất giỏi Hán văn, thường dịch thơ  Đường -  đôi khi cũng có thơ sáng tác- nhưng đó là những vần thơ buồn bã.   Hình như định mệnh đã an bài đời sống tinh thần  cũng như vật chất của nữ sĩ, làm sao mà trốn chạy ?   Tôi nghe nói nhà thơ Đông Hồ , khi vợ chết,  cũng làm thơ khóc vợ, có ra Hànội thăm nữ sĩ Tương Phố.    Cuộc thăm viếng này không biết có  ẩn giấu ý tình nào không, tôi không dám quyết, chỉ biết, sau khi ở Hànội về, Đông Hồ có làm mấy bài thơ, trong số những bài đó, có một, hai bài mang nhiều ẩn dụ.   Anh em đọc và suy luận lung tung, nhưng vì kính trọng nữ sĩ Tương Phố, không ai nỡ hỏi, hoặc đề cập gần, xa về những bài thơ của  Đông Hồ.
Còn nữ sĩ Thụy An, một trong những nữ sĩ đầu tiên  đã nhảy vào làng báo, tôi biết tiếng từ lâu, nhưng qua tờ THẾ KỶ mới được gặp.   Chị dáng người cao, gầy, người nữ đầu tiên  * nhảy vào làng báo,  nhìn bề ngòai thời trang hơn Tương Phố xa.  Công việc của chị ở VIỆTNAMPRESS rất bận, chị vẫn   viết đều cho THẾ KỶ , lúc là truyện ngắn, khi thơ.
Nữ sĩ Thụy An có đôi mắt  sáng dễ sợ , khi nói chuyện, cặp mắt long lanh, vừa thông minh, vừa bén nhậy, hình như với đôi mắt ấy, chị có thể nhìn rõ tim gan người đối thoại.
Chị còn  có đôi bàn tay với 10 ngón rất dài.    Chị ăn nói  lưu loát, có lẽ, vì lý do nghề nghiệp, chị trở thành con người linh hoạt.   Nữ sĩ Thụy An giỏi Pháp ngữ, chịu đọc sách.   Chị thích văn  chương Nga, nhất là Dostoievsky, chị rất khâm phục.   Khi trước,  chị là chủ nhiệm tuấn báo ĐÀN BÀ,   lại có một tác phẩm tiểu thuyết rất nổi tiếng MỘT LINH HỒN.    Tôi cũng không hiểu sao chị lại thích thơ của tôi đăng tải trong THẾ KỶ.  Thú thật, tôi cũng rất hãnh diện và sung sướng khi được khen, nhất là được nghe chị đọc lại những đoạn thơ mình làm. Tôi cũng như nữ sĩ Tương Phố và thụy An chỉ là cây bút tài tử, viết cho vui, chứ quả tình không biết tới sự điều hành, chi, thu của Thế kỷ ra sao ?   Có nhiều hay ít độc giả ? Lời hay lỗ? Chỉ biết một điều, người viết không có nhuận bút, bây giờ gọi là viết chùa.   Nhưng,  như cái lệ,  sau mỗi số báo phát hành , Bùi Xuân Uyên triệu tập anh em đánh chén một bữa tại một tiệm cơm Tàu nào đó  ở Bờ Hồ chẳng hạn.  Tiệm này không phải tiệm sang hoặc có món ngon, mà nó có địa điểm tốt, vừa ăn, vừa nhìn thấy Hồ Gươm.   Nếu không có bữa ăn hàng tháng này, chắc ít anh em có dịp gặp nhau đông đủ.   Bút hiệu Thụy An về sau được thêm hai chữ thành Thụy An- Hoàng Dân.  Tôi nghe anh em nói, Hoàng Dân là bí danh của Đỗ Đình Đạo, giám đốc cơ sở Quân thứ lưu động, dưới thời thủ hiến  Nguyễn Hữu Trí, người tình của chị Thụy An.  Việt Minh rất căm thù cơ sở này, vì nhiệm vụ của nó là bình định, nới rộng khu do Quốc gia kiểm soát.   Vào đầu năm 1954, tôi có gặp lại chị Thụy An tại Saigon, chị mời lại chơi, ở đường Võ Tánh.  năm đó, tôi đã trở thành quân nhân, phục vụ tại Bộ Tổng tham mưu,  năm trên đường quận 5.  Tôi viết một truyện ngắn  tựa đề CẨM NHUNG đăng trên tờ ĐỜI MỚI ,  chủ nhiệm Trần văn Ân.  Chị Thụy An có đọc truyện ấy, khen hết mình. Chị nói:
- …nếu cứ viết như thế, anh sẽ trở thành  một Dostoievsky Việtnam.
Tôi cảm ơn,  nhưng trong lòng hơi buồn !
Lời khen của chị Thụy An hôm nay không giống như lời chị khdn thơ tôi bữa trước, vì lý do đơn giản, tại sao, khi tôi vẽ tranh Lập Thể, ai nấy đều khen tôi là Picasso Việtnam , còn viết văn lại bảo sẽ trở thành Dostoievsky ?   Quả tình, tôi không muốn vậy ! Tôi muốn tôi là tôi, nghĩa là không giống ai, cũng chẳng ai giống tôi.  Tôi có thể là hòn núi, cũng có thể là viên sỏi nhỏ, nhưng cả hai đều riêng biệt.
——–* người nữ đầu tiên làm chủ nhiệm báo là   SƯƠNG NGUYỆT ANH ở  Nam Kỳ.  Nữ chủ nhiệm là con gái nhà ái quốc Nguyễn Đình Chiểu.  Thụy An , chủ nhiệm báo ĐÀN BÀ, từng in ảnh một phụ nữ đẹp sau là nữ sĩ THƯ LINH, tác giả Những dòng thơ hoa, Nữ tướng Bùi Thị Xuân, Những dòng thơ dĩ vãng … người đã tiết lộ cho Thế Phong về chuyện tình T.T.KH … NÀNG LÀ AI? chính  là  VÂN CHUNG- TRẦN THỊ VÂN NƯƠNG.  Cuốn này sau được  Amazon. com tung lên mạng Kindle Direct  Publishing, in COPY  bán một used from 30 USD / cuốn ( nay đã tạm ngưng – tháng 6/ 2012) , không xin phép, không trả bản quyền. -
———
Cái đó mới  quan trọng, mới có giá trị thực. Tôi gặp chị Thụy An lần đó, lần sau cùng, ít hôm sau, chị ra lại Hànội.  Tới khi giưã Pháp và Việt Minh chia đôi đất nước,  20 tháng 7 năm 1954, chị không di cư vào Nam, ở lại Hànội.   Mấy năm sau, tôi được tin chị đã đầu độc Đỗ Đình Đạo, người tình của chị, thù địch của Việt Minh, để làm vui lòng những kẻ chiến thắng  một nửa đất nước Việtnam.   Sự kiện trên, tôi viết một cách dè dặt với nhiều nghi vấn vì không lý gì, một con người như chị Thụy An, dám hy sinh người tình để phục vụ cho lý tưởng Cộng sản , lại có thể bị Cộng sản kết án phản động và bị cải tạo đúng 20 năm !   Trong lúc ở tù, vì quá uất hận chế độ Cộng sản, chị đã dùng bút chọc thủng một mắt, để mang tật suốt cuộc đời !
Vào năm 1981,  sau khi đi cải tạo được tha về, anh Lê Ngộ Châu, chủ nhiệm tạp chí BÁCH KHOA , đã mấy lần đưa tôi đến nhà chị Nguyễn Thị Vinh để gặp chị Thụy An- nhưng cái số tôi vô duyên đối với cả 2 nữ sĩ,  dù đã leo mấy cầu thang cao chót vót, chả lần nào được gặp !  Chị Thụy An cũng muốn gặp lại tôi, nhưng không biết nhà, nhắn rằng, muốn gặp chị, cứ lại nhà Nguyễn Thị Vinh .   Bấy giờ chi Nguyễn Thị Vinh đang ở Hòa Lan, còn chị Thụy An vừa mới ra người thiên cổ, sau gần cả cuộc đời gánh chịu nhục nhằn, ray rứt tại giữa lòng đất nước Việtnam trùng trùng đau khổ, từ tinh thần đến vật chất.
Khi đang tuổi thanh niên, tôi cũng thường uống rượu, nhưng không uống được nhiều.   Trong số bạn bè làm chung sở, tôi thường đi uống rượu với Nguyễn Hoạt, tức Hiếu Chân  sau này.
Nguyễn Hoạt có kiến thức rộng, giỏi cả Pháp lẫn Hán văn, như Vũ Hoàng Chương vậy.   Anh và Mặc Thu được tuyển dụng vào Nha thông tin  Bắc Việt cùng một thời gian, cũng như tôi, làm việc theo khế ước, 6 tháng ký lại một lần, với bậc lương 3000 đồng / tháng .  Số lương này tương đối đầy đủ, nếu gia đình ít người, vì thời giá 1951-1952 tại Hànội tương đối rẻ.   Do vậy, chúng tôi mới ó tiền để mời nhau uống rượu, nay chỗ này, mai chỗ khác.   Mặc Thu lúc ấy chưa ai biết đến, ngoài công việc chuyên môn, tuy có` viết văn.  Mặc thu trông có vẻ thư sinh, dáng người nho nhã.   Khuôn mặt thanh thoát, với 2 hàng ria mép con kiến, làm khuôn mặt có duyên khi cười.  Anh nói  năng nhỏ nhẹ, từ tốn, đúng ra, nghe nhiều hơn nói; do vậy, khó mà đoán được ẩn ý.   Tuy biết uống rượu, nhưng Mặc Thu ít đi chơi với anh em, một ophần nặng gánh gia đình, không lẽ uống rượu của anh em hoài, lại không mời lại ?   Do vậy, tôi ít khi thấy anh la cà ở nơi anh em thường tụ tập.   Đặc biệt Mặc Thu viết rất tốt.  Anh thường viết một mạch, ít khi sửa chữa.   Cũng vì tính tình và hàon cảnh gia đình, nên tôi và Mặc Thu chỉ quen, không thân, giống như trrường hợp Nguyễn Hoạt và tôi.   So với Hoàng Lập Ngôn , Ngọc Giaovà Tú Be , thì  Nguyễn Hoạt người nhỏ thó, mặt xươngt xảu, vầng trán cao, sói ờ bên như chữ V.  Tính tình hoà nhã, đôi lúc tỏ ra khinh bạc !   Có những chiều ngồi uống rượu, sau giờ tan sở, Nguyễn Hoạt thường nói về  những sách mà anh đọc, đ6i khi anh đề cập chính rị, lại không mấy tin vào sự hữu hiệu cùa guồng máy chính trị Quốc gia .  Anh cho rằng, ngày nào còn có mặt quân đội Pháp thì ngày đó chế độ Quốc gia chưa có chính nghĩa.  Mình phải làm sao cho có thực lực riêng biệt, từ đó mới có thể nói chuyện chống Cộng chứ ngày ngày tụi mình, tuy làm việc dưới danh nghĩa Quốc gia, dùng chũ việt trong mọi giao dịch, tuyên truyền, nhưng thực tế, thì Cao ủy Pháp nắm hết quyền hành; kể cả súng đạn đấu tranh với VM.  Ta chỉ là lực lượng phụ thuộc, làm sao có uy tín với đồng bào, và cả quốc tế nữa ?
Tôi hoàn toàn đồng ý  với Nguyễn Hoạt, tôi hỏi lại, nếu anh không chấp nhận thực tế  ấy, làm cách nào đuổi Pháp khỏi VN, và lấy vũ khí ở đâu để chiến đấu ? Nguyễn Hoạt đưa ly rượu uống ực một ngụm, như để nuốt những gì không ứng ý vào bụng.  Tuy vậy, hoạt có đời sống mực thước, tuy uống rượu, lại không trác táng, bê tha, trụy lạc.   Ngoài  rượu, thuốc lào, anh không biết thêm thứ gì khác.   Trường hợp Nguyễn Hoạt giống Mặc Thu, nổi tiếng, lại nhiều người biết tới,  chỉ sau ngày di cư vào Nam mà thôi.
Chúng tôi  cứ sống vẫt vờ trong hoàn cảnh nửa tối, nửa sang như vậy.   Tin tức mắt trần đổ ve72 rất sôi động, san bớt gánh nặng về nhân mạng bị tổn thấy, nên Pháp đã tổ chức lực lượng bảo chính đoàn, đoàn quân hàon toàn VN, nhưng, thực tế, vẫn do Pháp chỉ huy, điều động.   Sở tuyển mộ Pháp đã ban ah2nh lệnh động viên, thanh niên có bằng tú tài, tương đương, đều được gọi đi học khóa sĩ quan  đầu tiên ạti nam Đình, sau Thủ Đức, nên gọi là kháo đầu tiên Nam Định- Thủ Đức.   Tử khóa 2 chuyển vào Nam, mỗi kháo  học 6 tháng, các tiểu đoàn Việtnam được thành lập, một phần tuyển mộ, một phần đưa từ lực lượng phụ thuộc bổ sung.   Thế thức điều hành, hấun luyện đều do Pháp  quyết định.  Cả Hànội nhốn nháo cghuyện bắty lính, ai cỹng muốn yên thân- đi lÍnh khi ấy- dù là sĩ quan  vẫn chỉ là tay sai, bia đở đạn, nên thanh niên có học hay ít, hoặc không có học đều mong tránh né- trrừ số` ít- vì nhu cầu đời sống đi l1inh nuôi thân.  tâm trạng thanh niên hồi đó là vậy,  chưa ai hướng dẫn, đề ra lý tưởng đấu tranh cho mai sau, cho đất nước.   Trước mắt họ, chỉ có sùng đạn và cái chết cận kề  vô nghĩa!   Các cấp sĩ quan  răng đen mã tấu do  Pháp huấn luyện , từ  chú cai, thầy dội, quan quản – nào có biết gì, ngoài quyền uy giả tạo từ Pháp phết lon lên cầu vai, để họ tác loai, tác quái với đám người mặc đồng phục dưới quyền.   Dù cho thời thế biến chuyển ra sao, mọi sự việc đều ngoài tầm tay của chúng tôi.   Do vậy, mỗi chiều tan sở, anh em rủ nhau la cà, vào quán rượu, Trong số ấy, có anh Tú Be, nhà thơ trào phúng, tuống bạo hơn cả.  Tú Be dáng ngườo cao lớn, làm trong ban Kiểm duyệt sách báo, công việc chẳng nặng nhọc gì; hơn nữa, không con cái, dù lấy vợ đã lâu- nên anh dùng rượu khỏa lấp nỗi buồn đời !   Tú Be làm được bao nhiêu  lươngm đưa vợ một số nhất định, còn chi cho rượu.   Tuy tôi ó thích uống rượu, chỉ tới mức nào thôi, tôi rất sợ Tú Be ép bắt uống say.   Mười lần mời chì 1 lần nhận, tôi cố thoái thác để anh đừng ép. Tính tình Tú  Be rất mã thượng, không bao giờ anh so kè hơn thiệt.  Vì uống quá nhiều  nên anh nợ nần ngập mặt, mỗi lỷ lương, nhiều khi, không còn đồng bạc dính túi, uống vào lại  nợ, hứa trả vào tháng lương sau. (còn tiếp)
NHỮNG KHUÔN MẶT VĂN NGHỆ ĐÃ ĐI QUA ĐỜI TÔI…
TẠ TỴ
Sáng hôm sau, chúng tôi trình diện văn phòng tiểu đoàn.T ôi cũng không quên đem lá thư của đại úy Giai gửi thiếu tá Nguyễn Khánh. Trong khoảng thời gian 1953, cấp thiếu tá lớn lắm, (…) nên quyền hành tiểu đoàn trưởng rất rộng. Tiểu đoàn 13 lo bảo vệ tỉnh Cần Thơ với 4 đại đội. 
Chánh văn phòng thiếu tá Khánh là trung úy Huỳnh văn Tồn (sau là đại tá, tỉnh trưởng Gia Định), bảo chúng tôi về câu lạc bộ nghỉ ngơi, chờ quyết định của tiểu đoàn trưởng. Vài hôm sau, tôi được trung úy Tồn mới đến văn phòng, cho biết, thiếu tá muốn giữ tôi ở lại Bộ chỉ huy, để thay thế ông ta làm chánh văn phòng cho thiếu  tá Khánh.
Trung úy Tồn không cho biết lý do, vì sao có sự tình đó. Tôi trả lời ngay, tôi không thích làm văn phòng, xin đi chiến đấu. Sở dĩ tôi có quyết định nhanh vậy, vì tôi được 1 sĩ quan ở tiểu đoàn ,trong giờ ăn tối đã cho tôi biết về chuyện này.   Theo sĩ quan đó, trung úy Tồn muốn rời chức vụ, làm chánh văn phòng không có quyền lợi gì hết, kể cả việc thăng cấp khó khăn- hơn nữa, lại phải tổ chức nhẩy đầm, tiệc tùng và mời những cô gái đẹp trong tỉnh đến vui chơi cùng thiếu tá tiểu đoàn trưởng.  Giờ làm việc bắt buộc nghiêm chỉnh, nhiều khi còn phải ở lại đến 9, 10 giờ tới mới được về .  Tôi cũng không hiểu vì sao, bạn sĩ quan kia, chưa quen biết bao giờ, lại khuyên tôi vậy.   Anh khuyên tôi đừng nhận,  thà đi chiến đấu khoái hơn.   Lúc nào “uýnh” trận xong, có quyền   lè-phè, không  ai động tới mình.  Còn làm nghề chánh văn phòng, tuy chữ ”thọ”  vững đấy, nhưng làm hèn con người.   Tôi suy nghĩ   thấy đúng, nên trả lời nhanh vậy.   Trung úy Tồn  ghe xong, bào tôi trở lại Câu lạc bộ chờ lệnh.    Hai đứa   long nhong cả tuần, sau cũng biết, cả 2 đều được bổ  xung cho Đại độ 4 ở quận Phụng Hiệp.
Đại đội 4 cho xe Jeep lên tiểu đoàn  đón chúng tôi, vào buổi trưa 1 ngày đầu tuần lễ thứ 2, kể từ ngày có mặt tại Cần Thơ.  Quận Phụng Hiệp cách Cần Thơ khoảng 50 cây số, tài xế lái xe là người việt gốc Miên .  Khẩu Carbine  M2 gài vào thành xe, với băng đạn gắn ngược đầu, nối liền bằng 1 miếng vải nhựa.   Về sau, khi đi trận, khẩu súng của tôi cũng có 2 băng đạn đen như vậy,  nó tiện cho việc sử dụng khi cần kíp.   Tài xế đứng nghiêm chào, mời chúng tôi lên xe.  Riệu nhường tôi ngồi phía trước, chiếc xe lướt nhanh trên mặt lộ.   Phong cảnh 2 bên cũng chỉ là ruộng lúa, đôi chỗ có nhà cửa chạy dọc theo con kinh đào.   Suốt đường, chúng tôi  im lặng,  không ai nói  chuyện với ai
Chiếc xe đang ngon trớn, bỗng từ từ hạ tốc độ, chạy thêm quãng nữa, tôi nhìn thấy 1 chiếc cầu.   Tài xế quẹo tay mặt vào con đường đá, ngay sát bờ sông, rồi băng qua 1 dãy phố nghèo nàn, tôi nhìn thấy tấm bảng xanh, chữ trắng; QUẬN PHỤNG HIỆP.  Nhưng xe không dừng tại quận, mà chạy 1 đoạn đường nữa,  Tôi nhìn thấy 1 doanh trại, với những vòng kẽm gai với bao quát quây kín.   Ngay cổng trại có đặt những con ngựa  gai  và vọng  gác:  chiếc cổng khá lớn có tấm bảng gỗ sơn màu vàng, kẻ chữ đỏ: TIỂU ĐOÀN 13, ĐẠI ĐỘI 4 và hình chiếc đầu trâu giống hệt Bộ chỉ huy tiểu đoàn vậy.   Anh lính gác cổng kéo cây cản.   Chiếc Jeep lái ngoằn ngoèo, rồi chạy vào doanh trại, đưa chúng tôi đến gặp Đại đội trưởng trình diện.   Đại đội trưởng mang cấp bậc trung úy, người miền Nam, đứng chờ chúng tôi ở bực thềm, rồi sau mời vào văn phòng.
Đây là căn nhà ngói duy nhất doanh trại.   Xung quanh toàn nhà vách nứa, mái lợp lá dừa.   Sau mấy câu xã giao kiểu nhà binh,  đại đội trưởng cho người dẫn chúng tôi đến nơi ở.    Căn buồng dành cho chúng tôi chẳng rộng bao nhiêu, kê vừa đủ 2 chiếc ghế bố, 1 chiếc bàn viết.   Túi quân trang phải tím cách máng vào cây cột nơi góc nhà.   Cuộc đời binh nghiệp bắt đầu.
Hôm sau, chúng tôi đi lãnh súng, mỗi ngưởi 1 cây Colt 45 và 1 khẩuCarbine.   cây Colt tượng trưng cho sĩ quan chỉ huy, còn cây Carbine để chiến đấu khi lâm trận.  Mỗi người còn được quyền có 1
 tà-loọc” để lo việc cơm , nước , giặt giũ, sai bảo v. v. ..
Riệu nắm Trung đội 1, còn tôi Trung đội 2.   Khi chưa có chúng tôi, 2 trung đội này do 2 thượng sĩ điều khiển.   Đại đội tuy có  4 trung đội, nhưng chỉ có 3 trung đội thực sự chiến đấu, còn 1 chuyên canh gác, làm tạp dịch doanh trại.   Trung đội trưởng thường vụ này vẫn do 1 thượng sĩ làm trung đội trưởng.   Khi chưa có chúng tôi, đại đội chì có 1  trung úy đại đội trưởng là sĩ quan,  còn hầu hết là cấp hạ sĩ quan.   Nay tất cả  có  3  si quan- chỉ có  một trung úy đại đội trưởng  quen chiến trận; còn 2 chúng tôi mới ra trường, chưa biết trận mạc, nên chức vụ trung đội phó đều do các hạ sĩ quan ở lâu trong quân ngũ phụ giúp, vì họ có kinh nghiệm chiến đấu.
Nhưng tôi cũng không  ở đơn vị này lâu, dù tôi cũng đi  hành quân khoảng 20 lần, khắp tỉnh Cần Thơ.  Có những cuộc hành quân liên tỉnh, phải lội sình cả tuần,  nên đã biết thế nào là muỗi ở miệt Hậu Gang- quần áo treillis đầy như vậy, mà  vòi muỗi sắc như kim xuyên qua như không. Tối, trâu ngủ phải buông mùng, nếu không, muỗi đốt, trâu cũng chết, nói gì tới con người! Tôi đã biết thế nào là chiến tranh, biết máu đổ, và những giọt nước mắt, cùng tiếng gào thét thảm thiết!  Cảnh bắn giết này đâu phải do người Quốc gia chủ xướng, mà do hoàn cảnh không may của đất nước đẩy đưa.
Một buổi, sau buổi hành quân, thân xác còn mệt mỏi; tôi nhận được lệnh Tiểu đoàn bộ  buộc trình diện gấp.   Hôm sau, chiếc xe Jeep của đại đội đưa tôi lên Cần Thơ, với túi quân trang như khi xuống, sau khi đã trả lại súng ống, giao lại cho trung đội cho một thượng sĩ gốc Miên.   Có thể nói, đến 70% lính của Đại đội 4 thuộc diện này.   Tôi biết, tôi đã có lịnh thuyên chuyển về Sài Gòn, trong lòng nửa vui, nửa luyến nhớ  trung đội đã cùng mình sống, chết trong mấy  tháng qua.   Con đường từ Phụng Hiệp lên Cần Thơ, hoặc ngược lại,  trong thời gian chiến tranh, thường bị Việt Cộng đặt mìn, bắn xẻ ở khúc quẹo gắt, nơi toàn cỏ lát mọc quá đầu người.  Do vậy, mỗi sáng sớm, có 1 toán chuyên môn đi dò mìn, khi biết chắc con đường an toàn mới thông báo cho đơn vi đóng quân biết để di chuyển  cho an toàn.   Thường ra, muốn an toàn, nên  đi sau 9 giờ sáng.
Nhưng buổi sáng hôm đó, tôi nôn nóng, không đợi chờ được, nên giục tài xế lên đường sớm, tài xế cười cười, nhe bộ răng vàng chóe:
-Ủa, thiếu úy không sợ sao ?
Hỏi lại:
- Cậu có nhát không ?  Lính chiến hỏi vậy, nghe đâu được ?  Tôi lái  mà !
Tôi ngồi lên xe, đề máy, còn tài xế ngồi ghế bên, tay ôm khẩu Carbine M2.  Đại đội trưởng cùng Riệu và vài anh em khác chúc tôi lên đường may mắn, nhớ là đừng quên anh em !  Cảm ơn, cho xe chạy từ từ tiến ra cổng trại.  Tôi muốn nhìn lại cái quận này lần cuối, nên lại vòng xung quanh chợ, gần đó có 1 tiệm bán cơm, hủ tiếu Ba Tàu, nơi tôi vẫn thường ăn, sau lần hành quân mệt mỏi, vì lội sình và bị muỗi đốt.   Quận lỵ này  rất hiền hoà, mọi người đều quen thuộc với lính Đại đội 4.  Khi ra trận, họ có thể làm ẩu, nhưng trong quận thì không.   Do vậy, tình quân dân rất đậm đà.
Sau khi lái 1 vòng, tôi cho xe chạy thẳng ra đường cái, nhấn lút ga, chiêc xe lao vùn vụt, dưới ánh nắng sớm mai chưa tan sương mù.  Sỡ dĩ lái nhanh, chính để giữ an toàn sinh mạng, như xe bị cán mìn, với tôc độ cao, sự thiệt hại, nếu có, không đáng kể.   Còn chuyện bắn sẻ cũng không  lo, trừ phi kẻ bắn là tay thiện xạ, bách phát, bách trúng !  Cái đó hơi khó đấy,  đồi với tay du kích thỉnh  thoảng mới bắn 1 viên đạn, xong, giấu súng chạy trốn !  Tôi cố giữ nguyên tốc độ cao, nên từ Phụng Hiệp tới Cần Thơ mất 1 tiếng đồng hồ, nếu đi trung bình, phải mất 1 tiếng rưỡi; vì  có nhiều đoạn đường bị lồi lõm, do sự phá hoại của địch.
Tôi   quyết định chưa vào Bộ chỉ huy vội, kéo tài xế vô 1 quán ăn bữa no nê, thỏa thích .  Xong, 2 thầy trò mơi quay về tiểu đoàn . Tài xế mang giùm túi quân trang vào Câu lạc bộ , anh nghiêm chào tôi, trước khi lên ghế lái.   Từ đó, tôi và Đại đội 4 không còn gì liên hệ.   Viên quản lý câu lạc bộ đưa tôi lên lầu,  lại đến cái phòng ngủ lần trước.   Để túi quân trang đưới ghế bố,  qua Bộ Chỉ huy trinh diện.
Trung úy Tồn cho biết, tôi được thuyên chuyển về Sài Gòn, theo lệnh Bộ Tổng tham mưu.  Sự vụ lệnh và giấy tờ thuyên chuyển của tôi còn nằm trên bàn thiếu tá Khánh- chờ ký xong- sẽ chuyển cho thiếu úy.  Về phương tiện thì tiểu đoàn lo, khi nào có, sẽ báo.  Tôi ngồi chờ  tới gần trưa , giấy tờ mới đến tay.
Như vậy, lại có quyền đi chơi và ăn cơm ở  Câu lạc bộ, đi chơi phố  Cần Thơ rồi.   Nói cho đúng, ở Cần Thơ, tôi  chẳng quen ai, đi mãi cũng chán.  Các cô gái đẹp Tây Đô kiếm hoài mà vẫn chưa  gặp, nều gặp , chỉ nhìn, ngắm xuông, làm gì có hoàn cảnh để giăng lưới, dù khi ấy, tôi vừa tròn 30 tuổi.  Đó là tuổi huy hoàng nhất đời thanh niên !
Thành phố Cần Thơ nằm  bên dòng sông Bassac, trên bến, dưới thuyền sầm uất. bên kia là vùng thuộc Hòa Hảo, do tướng Năm Lửa trấn giữ.   Dạo ấy, quân đội Quốc gia và Lực lượng Hòa Hảo không ưa nhau, nên các sĩ quan từng ở lâu ở đây,  khuyên tôi,  không nên lớ ngớ qua đó; nhỡ mang hoạ !    Nhưng tôi cũng không ở lâu tại nơi này, 2 ngày sau, có chuyến xe đi Sài Gòn công tác, cũng lại xeDodge.  Lần này, tôi ngồi ghế trên, cạnh lái xe.   Đằng sau, chở   một đống quân trang cũ và một trung sĩ.-   lại phải 2 lần qua” bắc”  mất khá nhiều thời giờ, đến tận 2 giờ chiếu mới tới Sài Gòn.
Tôi lại ghé nhà anh chị Độ tá túc.   Và đánh điện về Hànội, báo tin gấp cho gia đình biết; việc tôi  đã được thuyên chuyển, vì trong thời gian ở Đại đội 4 , tôi đã làm đơn xin nhà và phương tiện cho vợ con vào  Nam.
Tôi nghỉ ngơi 1 ngày, rồi quần áo chỉnh tề tới Bộ Tổng tham mưu, Phòng 5 trình diện.   Đại úy Phạm Xuân Giai niềm nở tiếp tôi, sau còn nghỉ vài ngày để thu xếp chỗ ở, vì  Câu lạc bộ sĩ quan, ngay sát Bộ Tổng tham mưu đã hết chỗ.  Lúc đó, sự thực, tôi chưa biết tính sao về chỗ ở – vì nhà anh chị Độ ở quá xa – đi làm không tiện, mà lấy phương tiện đâu để đi ?  Do định mệnh an bài,, trong đầu tôi, bỗng nhớ tới anh bạn Nguyễn Doãn Chi, làm nghề nhà in, ở hẻm 4 đường Nancy- cái địa chỉ này khi trước, chúng tôi đã liên lạc với nhau qua thư.   Khu Nancy gần nơi làm việc của tôi.   Ngay tối hôm đó, tôi tìm địa chỉ của anh Chi để biết nhà anh,  rồi sẽ tính sau.
Hẻm số 4 là một con lộ mới làm, mỗi khi có xe hơi chạy qua, bụi tung mù mịt.   Nếu đi từ phía Sài Gòn xuống, quẹo tay mặt chừng hơn 100 thước, sẽ thấy nó.  Đây là 1 khu nghèo của thành  phố Sài Gòn.  Phần lớn nhà bằng cây.  Cái hẻm này còn có nhiều hẻm nhỏ bám vào nó.   Mấy năm sau, con hẻm được tráng nhựa , và có tên PHAN VĂN TRỊ . Nó thuộc vùng Chợ Lớn  , chứ không thuộc Sài Gòn.
Khi tìm được nhà anh Chí, sau những câu chuyện tầm phào, tôi nói với vợ chồng anh , về ý định của tôi, muốn tá túc 1 thời gian, đi làm cho gần, khi nào vợ con tôi vào sẽ tính sau.
Nguyễn Doãn Chí là em  họ  của  Nguyễn Doãn Vượng,  tay này từng  là chủ nhiệm  tạp chí TRUNG BẮC  CHỦ NHẬT  .  Anh Chí là thợ nhà in, có 1 thới gian làm ở Nha thông tin Bắc Việt- sau anh vào  Sài Gòn,  làm cho nhà in Đông Nam Á.   Tuy không  phải tay nghệ sĩ, nhưng anh có lòng mến yêu những ai là nghệ sĩ .  Anh có tật ở cánh tay trái, không bao giờ duỗi thẳng ra được, nên anh em đặt cho biệt danh CHÍ KHÈO. Anh nghe mà không giận.
Khi nghe tôi trình bày xong, vợ chồng anh Chí đều hoan hỉ, dù rằng nhà tuy chật chội; nhưng cố thu xếp, tôi có 1 chỗ nằm thoải mái, ở ngay phòng khách, còn toàn gia đình ở buồng trong + căn gác xép.
Tôi định sẽ đưa trả vợ chồng anh  mỗi tháng 500 đồng tiền ăn ở; nhưng anh chỉ lấy tiền ăn thôi, còn chỗ ở, anh nói :
-Không có cậu, phòng khách có ai ngủ đâu ?   Kê cái đi-văng, ai đến chơi càng có nhiều chỗ ngồi.
Mà đúng ra, anh Chí rất ít bạn bè.
Tôi bắt đầu làm việc ở Phòng 5. Chỉ huy trực tiếp, trung úy Lê Đình  Thạch , trưởng phòng báo chí.  Anh Thạch người miền trung, chuyên viết phóng sự thể thao, dưới bút hiệu THẠCH LÊ.. Trước kia, anh thuộc Vệ binh đoàn của  thủ hiến Phan Văn Giáo ở Huế. Dáng người thanh nhã, ít nói, làm việc với anh vô cùng thoải mái.  Anh vô Nam làm việc, do sự vận động giữa anh và đại úy Phạm Xuân Giai, vì họ cùng quê.
Lúc ấy, Phòng 5 có 2 tờ báo, một dành cho sĩ quan, một  cho chiến sĩ.  Tuy trưởng phòng báo chí.
anh Thạch không viết 1 bài báo  nào ,  dù  đứng tên chủ bút.  Tất cà đều do  THẨM THỆ HÀ  chịu trách nhiệm  phần chuyên môn.   Thẩm Thệ Hà, một nhà văn  miền Nam , đồng hoá cấp bậc thượng sĩ, hay trung sĩ  gì đó – mà anh được cấp giấy phép đặc biệt mặc thường phục, kể cả lúc lảm việc.  Nội dung tờ báo, phần lớn, đều dịch theo sách báo ngoại quốc, thơ văn ít thôi.  Do vậy, công việc cũng không khó khăn . nặng nhọc bao nhiêu.   Hơn nữa, lại có sự đóng góp các cây bút nhà bình, từ đơn vị gửi bài đăng.
Ngoài ra, chuẩn úy Tô Kiều Ngân phụ trách  viết bài cho cả 2 tờ báo.   Chính thức, còn có 1 số anh em nữa, tuy họ mang cấp bậc nhỏ; nhưng họ có khả năng, đóng góp nhiều vào sự hình thành làm tờ báo lớn mạnh.  Anh Thạch thường đi công tác ở nước ngoài, ở nhà. ngồi bàn giấy, chỉ lấy chiếc nhíp ra nhổ râu, chẳng trò chuyện với ai.   Anh có tật mê cờ bạc, chiều nào, sau giờ tan sở, anh vào khu Đại thế giới chơi trò đen, đỏ.   Chả biết anh chơi ra sao, chỉ biết thiếu nợ tùm lum, hầu như cả phòng đều là chủ nợ của anh.
Nhà văn Thẩm Thệ Hà , con người này cũng ít nói.   Anh đeo bộ kính trắng dầy cộm, nước da ngăm ngăm, khuôn mặt trái soan.   Anh đến, đi như chiếc bóng.  Tôi không thấy anh chơi với ai, ngoài bàn chuyện  công việc.  Hình như, anh vào quân đội là lý do bất đắc  dĩ – bộ quân phục, với anh, như 1 sự câu thúc- do vậy,  sự có mặt của anh  trong cơ cấu quân sự, hình như bị lạc lõng.   Nhưng đối với độc giả miền Nam, lúc ấy, tên tuổi anh đã được kính trọng.
Còn Tô Kiều Ngân, tên thật  Lê Mộng Ngân, anh này có nhiều tài, nào viết, nào làm thơ, ngâm thơ, thổi sáo, hát tân nhạcda tài nên tài nào cũng ở mức trung bình- chính vì vậy , nên anh không có 1 công trình nghệ thuật nào nổi bật, để đưa anh vào 1 chiếu ngồi xứng đáng như anh em khác.
.
Tôi  cũng không quên,  lúc đó còn có mặt trung sĩ Lưu Nghi, người Hội An,  cũng viết báo CHIẾN SĨ.  Lưu Nghi có bộ mặt choắt , miệng nhỏ – khi nói, 2 hàm răng viết lại, tài không bao nhiêu, lại có dáng khinh bạc !   Mấy năm sau, Lưu Nghi xin giải ngũ, làm cho Bộ Y tế, rồi theo Cộng sản.  Bị bắt, khai tùm lum, làm nhiều người bị vạ lây. Tên này, theo đúng sách lược Cộng sản, nếu bị bắt, cứ người Quốc gia mà khai.  Hắn hoạt động ở  ban Trí vận , vì quen nhiều các nhà văn, nhà báo Sài Gòn.  Sau 30-4-1975, tên Lưu Nghi đã viết nhiều bài bêu xấu Quốc gia.
Cùng làm ở Phòng 5 , còn có ký giả Nguyễn Ang Ca, cũng mang cấp bậc trung sĩ , rồi thăng thượng sĩ cho tới ngày giải ngũ.   Nguyễn Ang Ca dáng mập mạp, nhanh nhẹn, tháo vát, anh là ký giả, vừa viết báo quân đội, vừa viết  báo dân sự.   Anh người miền Nam, tính tình bộc trực trong công việc, anh không liên hệ nhiều với tôi, như tôi và  anh Lê Đình Thạch.
Sau còn Hà Thúc Cần , tuy cấp nhỏ;  nhưng có học vấn.  Mấy năm sau, xin giải ngũ, làm nghề điện ảnh và bây giờ sống tại Singapore.
Làm việc ở Phòng 5, còn có thiếu tá Đàm Quang Thiện và đại úy Đái Đức Tuấn (nhà văn TCHYA). Thiếu  tá  Thiện, tôi đã 1 lần nhìn thấy, trong buổi lễ mãn khóa Thủ Đức; nhưng nhìn xa, không rõ mặt,  nay có cơ hội gần, nên mới biết rõ. Cả 2 người: Đàm Quang Thiện và Đái Đức Tuấn đều không làm việc thường xuyên.  Mỗi tuần, họ chỉ có mặt chừng vài buổi, muồn đi, đến giờ nào tùy ý, có xeJeep đưa đón. Họ là cố vấn cho đại úy Phạm Xuân Giai, về phương diện chuyên môn, hơn là  nhân viên thường.  Thiếu tá Đàm Quang Thiện dáng người tầm thước, sắc da mai mái, khuôn mặt luôn như ưu tư, trầm lắng- ngay cả lúc cười cũng có vẻ gượng gạo – không hồn nhiên, thoải mái, như nụ cười đại úy Đái Đức Tuấn.   Mỗi lần đến sở, cà 2 đều vào nói chuyện khá lâu với đại úy Giai, sau đó ra ngồi bàn làm việc.   Hai chiếc bàn thường để trống, trên bàn không có giấy tờ chi cả.   Thường ra, 2 vị đó viết  bằng tiếng Pháp – rồi đưa thẳng cho đại úy Giai.   Lúc đó, tôi chỉ biết, họ là nhân vật đặc biệt.   Tôi được Lê Đình Thạch  giới thiệu tôi với cả 2 người.    Dưới mắt họ, tôi chỉ là sĩ quan cấp nhỏ. trẻ, cả 2 chắc coi tôi như đứa em, thường gọi bằng  chú , hoặc tên, nhưng  không kêu cấp bậc.
Họ mến tôi   ngay từ buổi đầu.   Đàm Quang Thiện ít nói, chứ TCHYA nói cười hồn nhiên. Khi còn ở Hànội, tôi đã đọc nhiều truyện và thơ của TCHYA, nhất là truyện THẦN HỔ , một truyện quái đản, với “ma chành“  kinh dị.  Thơ TCHYA hay, đối với tôi, thời  ấy:
…  Gặp em  hôm ấy, em xinh thắm,
                                        Em mỉm cười duyên mỉa thế gian
                                        Bèo nổi, nước trôi, em vẫn trẻ
                                       Cái già như sợ cái hồng nhan …
hoặc :
                                       Nghệ sĩ trót sinh giầu cảm lụy
                                       Dẫu tàn thân thế khó quên nhau ! 
              Thơ của TCHYA đăng tải trên nhiều báo, chứ không viết riêng cho 1 tờ báo nào.   Nhưng cả 2, ngoài học vấn uyên bác, còn là đệ tử   Phù Dung Tiên Nữ.   Tôi nghe anh em  kể, Đàm Quang Thiện đang học năm thứ 4  Trường Thuốc, thì bỏ ngang ,  vì chuyện riêng tư gia đình.   Khi đã quen thân, không bao giơ tôi đề cập chuyện này, chỉ biết, anh là  1 con người có 1 trí nhớ siêu đẳng.  Một khi chữ nghĩa đã đi vào tiềm thức , hình như nó ở lì trong đó -  để khi cần- anh lấy ra dùng, như ta lấy đồ dùng trong ô ngăn kéo.   Nói theo kiểu hôm nay, trí nhớ  anh Đàm Quang Thiện  như cái đĩa software cùa máy computer vậy.  Ai cần biết điều gì,  trong cuốn sách nào, anh cho biết ngay nó ở trang bao nhiêu.  Không biết  trí nhớ siêu đẳng  của học giả Nguyễn Văn Tố ra sao , chứ trí nhớ  Đàm Quang Thiện thì tuyệt luân !  Anh rất mê
S. Freud và nghiên cứu về Phân tâm học.   Anh viết và dùng Phân tâm học để áp dụng vào tâm lý  của Thúy Kiều, vì sao mà bạc mệnh ?
Cuốn sách này tuy mỏng, nhưng anh phải để rất nhiều thời giờ cho nó.   Có thể nói, anh  thuộc truyện Kiều và dẫn gỉải truyện Kiều, với những điển tích  mà không cần có cuốn Kiều  trước mặt.  Anh Thiện nói tiếng Pháp rất giỏi, tuy giọng nói của anh không mấy hấp dẫn, nói lè nhè, chậm rãi, như kể chuyện.   Khi nói, đôi mắt anh lim dim, chứ không mở to, như khối óc bị lôi cuốn vào câu chuyện đang nói .
Vào khoảng đầu 1954, Bộ Tổng tham mưu còn rất nhiều sĩ quan Pháp , mọi giấy tờ đều phải viết bằng tiếng pháp.  Trong buổi nói chuyện về chiến tranh tâm lý, anh Đàm Quang Thiện đã nói một hơi, mấy tiếng đồng hồ bằng tiếng pháp, trong tay không có 1 mảnh giấy.  Đại úy Phạm Xuân Giai thấy  lâu quá, ra đấu  để anh ngưng, anh vẫn tiếp tục nói, cứ như không hay biết.   Khi nào anh muốn ngừng thì ngừng.   Sau buổi  thuyết trình, đại úy Giai ngỏ ý trách, anh chỉ cười, rồi nói:
Toa phải cho moa nói hết đã chứ, nếu cắt ngang, tụi Pháp tưởng mình ngu !
Đại úy Giai  cũng đành chịu.    Tính tình anh Thiện rất tốt.  Tôi  chưa hề nghe thấy anh nặng lời với ai, dù người ấy có lầm lỗi.   Gặp ai, dù thân hay sơ, anh cũng bày tỏ cảm tình, qua cái xiết tay, lời thăm hỏi nồng nhiệt.
Còn đại úy Đái Đức Tuấn  ( TCHYA)  người dong dỏng, đầu tóc lúc nào  cũng chải chuốt gọn gàng.  Anh có khuôn mặt trái soan, bộ ria mép tỉa sén cẩn thận, nằm trên cặp môi dầy.   Dáng dấp của anh nho nhã.  Anh nhiều tuổi hơn Vũ Hoàng Chương, nhưng giống Chương ở điểm : vừa giỏi tiếng pháp , cả chữ hán.   Chữ viết TCHYA rất đẹp, nhất là anh viết chữ hán, lối chữ thảo đẹp tựa bức tranh  thủy mặc.   TCHYA luôn niềm nở tười cười, chứ không kín đáo như Đàm Quang  Thiện
.
Dạo ấy, chúng tôi làm việc cả chiều thứ bảy, sáng chủ nhật làm luôn – nhưng những giờ chiều thứ bảy, sáng chủ nhật, thường ra  chúng tôi có mặt ở Câu lạc bộnhiều hơn ở bàn giấy.
Về rượu mạnh, anh Thiện uống ít hơn , còn anh TCHYA uống được nhiều.   Anh TCHYA thường nói cho tôi biết, các loại  rượu ngon  pháp, cũng nhu tàu- vì có 1 thời gian, anh làm cách mạng ở bên Tàu, do vậy anh biết nhiều về các tỉnh phía nam Trung hoa.   Anh đậu tú tài tây hồi còn trẻ lắm, thi đỗ vào làm tham biện Nha học chính Đông Dương.   Tính tình phóng khoáng, thích văn chương, thi phú,có địa vị, tiền bạc, nên rất đông bằng hữu.   Có thể nói hồi đó, anh giao du với hầu hết những người làm văn học ở miền bắc,  và xóm  Dạ Lạc,  cũng là nơi ăn, chốn ở của anh hàng ngày .
Anh Đàm Quang Thiện ít tâm sự   với tôi; nhưng anh TCHYA trong giở rảnh rỗi, thường kể cho nghe về cuộc đời luân lạc.  Anh nó về danh lam thắng cảnh  bên Trung hoa, nơi đã đi qua, hoặc đã sống ngày lưu vong nơi đất khách, quê người.   Khi chưa nói được tiếng Tàu, anh dùng lối bút đàm nói chuyện.  Mãi 1 năm sau, anh mới nói được tiếng Quan thoại.   Kể từ ngày đó,  đời sống đỡ vất vả. Ở  bên Tàu, anh làm đủ nghề, miễn có tiền sống qua ngày.  Có khi bị kẹt quá, làm cả chân rửa chén, bát cho tiệm ăn nào đó,  để có cơm ăn.   Nhưng bao giờ,  lúc kết thúc  câu chuyện, anh cho rằng chẳng đâu dễ sống bắng quê nhà.
  Nay , ngẫm lại thân phận tôi  sau những năm dài sống nơi đất khách, tuy nhìn được bao kỳ công người văn minh, nhiều cảnh đẹp hùng vĩ  tạo hóa – mà sao lòng vẫn cảm thấy bâng khuâng, tiếc nuối 1 cái gì đó- mà mình không sao tìm thấy ở đất lạ, quê người; đó là  sự ràng buộc tâm hồn mình với cây tre, bụi chuối, đống rơm, đụn rạ, nhất là tiếng nói, câu ru- đã nhập tâm trí  mình từ lúc sơ sinh! ”
Chính thực không phải chờ đến ngày đi lính, làm việc ở Phòng 5 Bộ Tổng tham mưu, tôi mới biết anh TCHYA, mà còn nhìn thấy anh, trong buổi chiều hè, anh thường mặc bộ quần áo nâu may rộng rinh, theo lối cổ, tay cầm quạt thước, đi bách bộ trên vỉa hè phố  Huế  ( Hànội).
TCHYA lúc đó đối với tôi, như cái gì  quá xa vời, đến nỗi tưởng rằng, dù cho đi suốt đường đời, cũng không chắc gì làm quen được.  Tôi có nói chuyện này cho anh nghe, anh TCHYA cười rất cởi mở :
- Hồi đó, chú còn nhỏ, chưa có hoạt động gì về văn chương, nghệ thuật; nên nghĩ như vậy là đúng.   Nhứng khi chú đã bước chân vào khu vườn cấm đó rồi ; trước, hay sau; anh, em mình cũng có lúc gặp nhau.   Thản, hoặc, nếu vô duyên, không có cơ may làm bạn ;    thì :
” Cùng lận đận bên trời một lứa cả ! “
Nói cho đúng,  trong thời gian ấy, tôi chỉ kính trọng 2 người: ĐÀM QUANG THIỆN và ĐÁI ĐỨC TUẤN, dù 2 người đều không giúp đỡ tôi gì về sự có mặt của tôi ở Phòng 5 này; nhưng cả 2 đã dạy cho tôi biết, thế nào là tình bạn.   Hai anh cùng ở chung 1 căn nhà  , do quân đội cấp, vì lúc ấy Quân Đội Việtnam còn phụ thuộc vào  Quân đội Pháp …
Nguồn: ThePhongblog

No comments:

Post a Comment