Saturday, December 8, 2012

Thanh Thảo

Cứ ngỡ cái tên Hoàng Thanh Nam sẽ theo ông cho đến cuối chặng đường văn học, thế rồi, thoắt một cái, ông xung phong vào bộ đội, thành một phóng viên chiến trường tận Nam Bộ, bỏ hẳn bút danh ấy, đặt lại tên cho mình: Thanh Thảo. “Tôi đặt tên tôi là cỏ/ Mọc phất phơ mọc vớ vẩn ngoài đồng/ Mọc trên mộ các anh/ Tràn qua những bia đá lạnh lẽo”. Có lần tôi đã nghĩ sai về  hàm nghĩa của tác giả qua những câu thơ này. Cho đến khi tình cờ đọc một bài báo ông viết nhân “Ngày thơ” của một năm nào đó, Thanh Thảo đã vỡ vạc cho tôi hiểu rằng “… Mọc trên mộ các anh/ Tràn qua những bia đá lạnh lẽo” không phải như tôi đã nghĩ. Sự đa nghĩa, nhiều chiều kích, nhiều vỉa tầng là một đặc thù trong thơ Thanh Thảo. Thơ ông đọc không dễ vào, dĩ nhiên là khó thuộc nhưng khi đã bắt được “sóng” rồi thì ta như người đi trong rừng, bất chợt nghe một âm thanh lạ, hoặc thoảng một mùi hương quyến rũ, cứ mải tìm, rồi cuối cùng là gặp một thăm thẳm mênh mang. 

Tôi đặt tên tôi là cỏ…

PHẠM ĐƯƠNG


Ông là nhà thơ nổi tiếng, nhà báo nổi tiếng, nhà làm từ thiện cũng nổi tiếng không kém. Có quá nhiều “nhà” trong một “nhà” mà “nhà” nào cũng hoàn thành xuất sắc chức phận của mình, kể cả “nhà tào lao” trong mỗi cuộc nhậu với anh em hay quan chức. Ông là Thanh Thảo, sinh ở xứ Cù Trâu-Quảng Ngãi: “Đêm xuân qua đất Cù Trâu/ Nghe tiếng nghé ọ lòng rầu chết cha” (ca dao quê ông) .

Bút danh 


Thời còn là sinh viên khoa Văn của Đại học Tổng hợp Hà Nội, ông cùng nhóm bạn của mình gồm Nguyễn Minh Thuyết, Cao Văn Định, Nguyễn Văn Đồng (tức “cụ Đìn”), Nguyễn Quang Huy, Nguyễn Công Tín… thành lập một nhóm thơ mà mỗi thành viên đều lấy họ Hoàng làm bút danh. Ông đặt cho mình bút danh  Hoàng Thanh Nam cùng bài thơ “Em Nga” làm xôn xao khu “ký túc xá” của sinh viên Đại học Tổng hợp Hà Nội trên Đại Từ, Thái Nguyên trong những năm sơ tán. “Em Nga” không được ông đưa vô bất cứ tập thơ nào của ông sau này, có lẽ ông cũng quên đứa con tinh thần ấy mất rồi, nhưng bạn bè một thuở Đại học Tổng hợp của ông thì vẫn nhớ.
Bài thơ có đoạn: “Nga đi rồi. Em đi rất xa/ Chiếc mũ mềm màu cỏ úa-em Nga”. Nguyễn Minh Thuyết (GSTS Nguyễn Minh Thuyết, người hay đăng đàn trong các kỳ họp Quốc hội) đã viết hẳn một bài thơ “Tìm em Nga” để phụ họa theo bạn mình: “Có một lần bóng dáng ấy đi qua/ Chiếc mũ mềm và đôi vai mảnh lắm/ Hình như thế. Nhưng hàng cây quá thẳm/ Phố cũ giờ còn chỉ một mùi hoa/ Và một kỷ niệm buồn: tôi chưa gặp em Nga”. Theo hồi ức của Cao Văn Định, “Em Nga” trong bài thơ của Hoàng Thanh Nam đã ám ảnh nhiều chàng sinh viên khoa Văn thời ấy đến mức, sau khi ra trường, có người đã vào bộ đội, tìm “em Nga” khắp chiến trường! Còn tác giả bài thơ thì lục trong ký ức mù sương của mình một góc của kỷ niệm thuở học trò với bài thơ đầu tiên được đăng báo – Tạp chí Văn nghệ quân đội: “Tôi nhận giấy báo lĩnh tiền nhuận bút mà vui còn hơn trúng số độc đắc bây giờ. Vui vì anh em trong nhóm sắp được một bữa no”. Ông nhấn mạnh chữ “no” bằng một giọng hài hước đầy thương cảm. Cũng theo Cao Văn Định, Hoàng Thanh Nam hồi ấy còn có vở kịch thơ viết về đề tài đấu tranh thống nhất đất nước. Một cô gái nhỏ và một ông già miền Nam đã anh dũng đấu tranh và hy sinh dưới một mái dừa bị giặc đốt cháy ở miền sông nước Cửu Long. Có lẽ sông nước Cửu Long đã ám ảnh Hoàng Thanh Nam ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường- dù ông sinh ra ở Quảng Ngãi- để đến khi đứng trước ngã rẽ của sự chọn lựa cho đời mình sau khi tốt nghiệp đại học, ông đã xăm xúi đi về hướng ấy.
Cứ ngỡ cái tên Hoàng Thanh Nam sẽ theo ông cho đến cuối chặng đường văn học, thế rồi, thoắt một cái, ông xung phong vào bộ đội, thành một phóng viên chiến trường tận Nam Bộ, bỏ hẳn bút danh ấy, đặt lại tên cho mình: Thanh Thảo. “Tôi đặt tên tôi là cỏ/ Mọc phất phơ mọc vớ vẩn ngoài đồng/ Mọc trên mộ các anh/ Tràn qua những bia đá lạnh lẽo”. Có lần tôi đã nghĩ sai về  hàm nghĩa của tác giả qua những câu thơ này. Cho đến khi tình cờ đọc một bài báo ông viết nhân “Ngày thơ” của một năm nào đó, Thanh Thảo đã vỡ vạc cho tôi hiểu rằng “… Mọc trên mộ các anh/ Tràn qua những bia đá lạnh lẽo” không phải như tôi đã nghĩ. Sự đa nghĩa, nhiều chiều kích, nhiều vỉa tầng là một đặc thù trong thơ Thanh Thảo. Thơ ông đọc không dễ vào, dĩ nhiên là khó thuộc nhưng khi đã bắt được “sóng” rồi thì ta như người đi trong rừng, bất chợt nghe một âm thanh lạ, hoặc thoảng một mùi hương quyến rũ, cứ mải tìm, rồi cuối cùng là gặp một thăm thẳm mênh mang. Thanh Thảo là thế, mãi mãi bất ngờ, “mãi mãi là bí mật”- như tên một tập tiểu luận của ông được xuất bản cách đây ít năm. Ông có những cú rẽ ngoặt đẹp như pha bóng của một tiền đạo lão luyện, dốc bóng dọc biên rồi bất ngờ ngoặt lại, xỉa bóng vào góc xa của khung thành để ghi bàn. Như cái cú xung phong đi B năm 1970 của ông là một pha bóng đẹp nhưng đầy mạo hiểm của sân bóng đời ông, ít ai ngờ tới, ngay đến hai cụ thân sinh của ông cũng không hiểu nổi những hoài bão, những khát vọng của con mình. “Và anh đi tìm sự bình yên ở những nơi không hề có bình yên” (Một trăm mảnh gỗ vuông). 
Khát vọng vượt Trường Sơn luôn thiêu đốt con người ông, mặc dù với “tiêu chuẩn” như Thanh Thảo thời ấy, nơi ông đến phải là một nước xã hội chủ nghĩa nào đó để du học chứ không phải là chỗ chiến trường đầy bất trắc. Ông là đứa con độc nhất trong một gia đình mà bố ông là cán bộ lão thành cách mạng, một trong những đảng viên cộng sản đầu tiên của tỉnh Quảng Ngãi. Năm Thanh Thảo đi Trường Sơn (1970) thì cha ông đã 70 tuổi, mẹ ông cũng đã gần 60. Dứt áo ra đi trong một hoàn cảnh cha mẹ già như thế, hẳn là phải có một khát vọng gì đó cùng với một quyết tâm ghê gớm chứ không phải là chuyện bồng bột đơn thuần của tuổi trẻ nông nổi. Mãi đến sau này, khi đã thấm thía thế nào là nỗi nhớ con, ông mới bắt đầu quay ngược kim đồng hồ thời gian của những tháng năm xa cách ấy để nhớ về mẹ mình: “Mang dao sắc con vào tuyệt lộ/ Má đường xa trông đợi mỏi mòn”.

Thanh Thảo thơ

Hàng triệu thanh niên miền Bắc ngày ấy đã vượt Trường Sơn để tham gia chiến đấu, giải phóng đất nước. Họ đã coi Trường Sơn như là hàn thử biểu để đo nhiệt độ về lòng yêu nước của mình. Thanh Thảo cũng không là ngoại lệ, nhưng ở chàng trai 24 tuổi ngày ấy (Thanh Thảo sinh năm 1946), còn mang thêm một khát vọng lãng mạn hơn: Trở thành một nhà thơ “thứ thiệt” ngay giữa chiến trường ác liệt nhất! Ông không muốn ngồi ở miền Bắc “thiên đường của các con tôi” để tưởng tượng ra cuộc chiến tranh mà làm thơ. Ông muốn sờ tận tay cuộc chiến ấy như thế nào rồi mới có  thơ. Khi đã xáp mặt với cuộc chiến trần trụi ấy rồi, khi đã có những câu thơ lấm lem bùn đất và lửa khói của chiến hào rồi, Thanh Thảo chả cần phải khiêm tốn, cũng không giấu giếm để nói rằng: “Những tráng ca thuở trước/ Còn hát trong sách thôi/ Những thanh gươm yên ngựa/ Giờ đã cũ mèm rồi” (Bài ca ống cóng). Đào thải là quy luật của tự nhiên, nhưng với Thanh Thảo, ông muốn chính ông và thế hệ của mình phải là người đưa tiễn “những tráng ca thuở trước” ra nghĩa địa văn chương! Thanh Thảo là nhà thơ luôn biết vượt lên những gì mà ông cho là cũ mèm. Ông như lớp cỏ non, biết  bỏ lại sau lưng những gì già cỗi: “Thế hệ chúng tôi / đi con đường người trước đã đi/ bằng rất nhiều lối mới” (Lời một người lính nói về thế hệ mình). Xâu chuỗi lại những “tuyên ngôn” riêng lẻ trên đây ta sẽ hình dung ra một chân dung Thanh Thảo thơ: “Mọc trên mộ các anh/ Tràn qua những bia đá lạnh lẽo”. “Các anh” đây không phải là các liệt sĩ, “những bia đá lạnh lẽo” đây cũng không phải là bia mộ trong nghĩa trang đâu!
Không phải ngẫu nhiên mà Chế Lan Viên đã coi tập thơ Dấu chân qua trảng cỏ của Thanh Thảo-một cái tên hãy còn lạ lẫm với giới cầm bút Hà Nội bấy giờ, như những viên ngọc đầy sắc màu mới lạ khi ông nhận được bản thảo còn nguyên mùi thuốc súng từ chiến trường gửi ra. Và Chế Lan Viên đã đăng trên Tạp chí Tác phẩm mới do ông làm Thư ký tòa soạn một lúc đến 14 bài thơ của Thanh Thảo. Thời ấy mà đăng được một bài thơ trên Tác phẩm mới đã là “oách” lắm rồi, thế mà Thanh Thảo đã được đăng cả một serie thơ! Nếu ví Phạm Tiến Duật như người mở đầu cho một lớp nhà thơ đầy tài năng trong chống Mỹ thì Thanh Thảo là người đã khép lại cánh cửa thơ đông vui mà cho đến hôm nay, giới văn chương cũng không lý giải hết vì sao lại có một lớp nhà thơ tài hoa  nở rộ đến thế.

Trong hành trang lên đường vào Nam của mình, ngoài chiếc ba lô con cóc, Thanh Thảo còn mang theo sự từng trải của lớp đàn anh đi trước cộng với những kiến thức mà ông tự trang bị cho mình thời sinh viên để ông có cái nhìn tỉnh táo hơn và cũng nhân bản hơn về cuộc chiến tranh mà ông sắp phải đối mặt. Tôi đã đọc khá nhiều thơ của thế hệ chống Mỹ nhưng chưa bắt gặp câu thơ nào mà “tỉnh” như thế này: “Chúng tôi không muốn chết vì hư danh/ không thể chết vì tiền bạc/ Chúng tôi lạ xa với những tin tưởng điên cuồng/ những liều thân vô ích/ Đất nước đẹp mênh mang/ Đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt/ Chỉ riêng cho Người chúng tôi dám chết”. Đi Trường Sơn với một tâm thế đầy ý thức như vậy, hoàn toàn không phải nghe theo lời xúi giục của một ai cả, Thanh Thảo đã làm bung vỡ những quy củ mang tính khuôn thước mà không ít nhà thơ thời ấy mắc phải, cả về mặt hình thức lẫn nội dung thơ. Bởi thế, ông là nhà thơ nhất quán, từ lúc mới cầm bút cho đến hôm nay, đất nước đã trải qua biết bao biến động, nhiều giá trị cứ ngỡ bất biến, nay đã lộn tùng phèo nhưng Thanh Thảo vẫn vậy, khó mà “soi mói” ở ông được điều gì về tính cơ hội trong thơ, bởi ông đã lấy nhân dân làm điểm tựa suốt đời cho thơ mình. Từ trường ca “Những người đi tới biển”- mở đầu cho loạt trường ca của ông- cho đến “Chân ruộng”- tập trường ca mới nhất năm 2011 này, nhân dân vẫn là “nhân vật chính” của Thanh Thảo. Họ là những người chịu thương chịu khó, luôn  ẩn mình trong những công việc hàng ngày, thường bị khuất lấp sau ánh hào quang của những chiến công, nhưng mỗi khi đất nước lâm nguy bởi giặc ngoại xâm, mỗi khi đất nước gian nan bởi giặc trong nhà, nhân dân lại là người khơi nguồn cho mọi cuộc dậy sóng. Thanh Thảo đã viết nhiều chương trong các trường ca của mình về sự “dậy sóng” đó của nhân dân bằng tất cả năng lượng tin yêu của một nhà thơ luôn coi nhân dân như là một thứ quyền năng tối thượng dù trong tay họ chỉ có cuốc với cày.
Thanh Thảo từng nói rằng mỗi nhà thơ phải có một số phận thì mới ra thơ được. Ông đã chọn số phận của nhân dân làm số phận của chính mình, không lòe bịp đãi bôi, không xu thời nịnh thế, thậm chí nhiều khi ông quá cực đoan cho cái tình yêu nhân dân của mình nữa. Nhưng không sao, ông vẫn thủy chung với những gì mà ông từng yêu mến, dù lòng thủy chung ấy của ông có lúc bị tổn thương.
Bao nhiêu người đã nói về thơ Thanh Thảo, nào là nhà thơ cách tân quyết liệt, luôn làm mới mình qua mỗi tập thơ, nào là “truyền nhân” của Bích Khê- một nhà thơ đồng hương nổi tiếng từ thời Thơ Mới- để Tế Hanh phải khiêm nhường mà nói rằng: “ Tôi chỉ là cái gạch nối giữa Bích Khê và Thanh Thảo thôi”…, tôi thì chỉ muốn nhắc điều này: Thanh Thảo là nhà thơ chạy marathon với thơ chưa lúc nào ngưng nghỉ. Không phải tập thơ nào, tập trường ca nào của ông cũng làm dậy sóng thi đàn thơ Việt nhưng ở tuổi 65, trong khi nhiều nhà thơ cùng thế hệ gác bút uống trà và tự gặm nhấm hào quang quá khứ của mình thì Thanh Thảo vẫn trình làng một tập trường ca mang tên “Chân ruộng” – tập trường ca thứ 10 trong sự nghiệp của ông, một cách đầy đặn và … hay. Một lần nữa, nhân dân lại tái ngộ trong thơ ông, lần này là nhân dân Quảng Ngãi, là “bác Năm Trì hay nói tục, vẫn thường gãi háng mỗi lúc trăng lên”, nhưng những ai là dân Quảng Ngãi thì sẽ gặp lại mình và hiểu rõ khí chất của người Quảng Ngãi mình hơn khi đọc trường ca này. Có thể nói rằng, với “Chân ruộng”, Thanh Thảo đã kính dâng quê hương đã sinh ra ông bằng những sợi tơ óng ánh nhất trong đời cầm bút của mình. Có nhà thơ nào hạnh phúc được như ông? Nhưng Thanh Thảo đâu chỉ có thơ!
Thanh Thảo ngoài thơ

Tôi hay “né” ông vào mỗi dịp cuối năm âm lịch, phần vì công việc làm báo lu bu, phần vì … ham vui với bạn đồng niên, ông gọi mà không đi thì không được mà đi thì … kẹt cứng. Đi đâu mà … kẹt cứng? Đi cứu trợ chứ đi đâu! Lúc thì ghé thăm đám trẻ con ở Sơn Mỹ để cho chúng tiền ăn Tết ( năm nào ông cũng cho chúng tiền, ông cho  rất “đậm” chứ không lẻ tẻ đâu), khi thì đến một trại mồ côi nào đó để phát quà, lúc thì thăm một hoàn cảnh thương tâm mà ông nghe được từ một cuộc trà dư tửu hậu nào đó. Có chứng kiến cảnh ông ngồi gù lưng cả ngày để viết báo kiếm từng trăm ngàn một mới thấy thương ông mỗi khi ông rút “rẹt rẹt” toàn loại “ba ba mùa xuân” (ông hay ví tờ 500 ngàn là “con ba ba mùa xuân”, không biết xuất phát từ đâu) để phát cho những người cần được giúp đỡ. Có lần tôi khuyên ông: “Anh viết ít lại và cho ít lại, nghỉ cho khỏe, ai trách anh đâu?”. Ông khuyên ngược lại tôi: “Phải có cái cảm giác vui và thích thú khi được cho người khác, được giúp ai đó thì mới thấy chuyện “gù lưng viết báo” kia chỉ là chuyện vặt. Nên tập thói quen cho để còn được nhận nữa chứ!”. Và ông đã nhận thật nhiều thứ, những thứ ấy không có tiền bạc nào có thể mua được. Như em Nguyễn Thị Bình- người đã mang về cho đất nước hàng loạt tấm huy chương tầm châu lục qua các cuộc chạy việt dã mới đây, nếu không có sự “xắn tay áo” của ông và nhiều người bạn nữa để mổ tim cho Bình thì không biết chừng, hôm nay Bình chọn giường bệnh làm bạn chứ đừng nói đến chuyện nhận huy chương. Quỹ mổ tim Quảng Ngãi do ông làm “chủ xị”, mỗi năm đã cứu hàng chục em bị tim bẩm sinh thoát khỏi lưỡi hái của tử thần, dù vẫn biết, để cứu một đứa trẻ khỏi bệnh tim thì có khi đến 2-3 doanh nghiệp phải “đau tim” với Thanh Thảo! Ông cứ đi xin chỗ này để cho chỗ khác, được ông gọi là “phân phối lại cho hợp lý”, ông cứ chắt chịu từng niềm vui nhỏ giọt ấy để tặng lại cho nhiều người. Đó là một phần của Thanh Thảo ngoài thơ.

Năm 2002, sau mùa World Cup tại Hàn Quốc-Nhật Bản, Thanh Thảo đáp tàu vào TP HCM để thăm Chánh Trinh bị bệnh nặng đang điều trị tại bệnh viện. Trước đây, hai ông này chưa từng là bạn, thế nhưng, chỉ qua một mùa World Cup năm 1994, cả hai quý trọng nhau hết mực. Dạo ấy, Chánh Trinh làm Tổng thư ký tòa soạn báo Lao Động tại TP HCM. Mùa World Cup năm 1994 tại Mỹ, báo Lao Động có ra phụ trương thể thao, Chánh Trinh làm chủ xị. Khi mở ra các chuyên mục thì có mục “nhà văn bàn về bóng đá”, đang bí người thì có ai đó mách cho Chánh Trinh là nên mời Thanh Thảo. Những bài báo viết về thể thao như những bài thơ, như những tùy bút của Thanh Thảo  đã “tán đổ” ông nhà báo nổi tiếng Chánh Trinh. Bắt đầu từ đó, Thanh Thảo đã bén tiếng quen hơi với món bình luận thể thao trên rất nhiều báo. Ông có thể xem hết 3 trận đấu trong một đêm của một mùa World Cup nào đó để viết cả 3 bài bình luận cho 3 báo khác nhau! Riêng World Cup 2002, ông nhận trên 30 triệu nhuận bút. Vô Sài Gòn, Thanh Thảo móc ví ra “rẹt rẹt” biếu Chánh Trinh. Thấy “hành động kỳ quặc” này của nhà thơ nghèo, ông cựu dân biểu chế độ Sài Gòn giẫy nảy: “Tôi không khó khăn đâu, ông giữ tiền ấy mà tiêu, nuôi con ông nữa”. Thanh Thảo động viên bạn: “Ông cầm đi để tôi vui, nhờ ông “phát hiện” tôi có năng khiếu viết thể thao nên đây là tiền “hoa hồng” trả công ông đấy!”. Thủy chung với bạn, không quên ơn nghĩa bất cứ một ai, đó cũng là một góc khác của Thanh Thảo ngoài thơ. 

Còn “góc” này nữa, nói nốt kẻo quên: Thanh Thảo đã “có công lớn” trong việc biến một số quan chức- cũng là anh em chiến hữu cả thôi- thành những người “ghiện” thơ đến mức, anh ta có thể bỏ luôn công việc nếu thấy “thi hứng” đang rập rình ngoài cửa! Ông đã an ủi với chính ông rằng : “Ừ thì làm thơ dở đâu có tội gì. Dẫu sao thì vẫn tốt hơn là làm lãnh đạo mà … dở! ”. Đó cũng là một cách lý sự kiểu Thanh Thảo “ngoài thơ” vậy.

No comments:

Post a Comment