Sunday, October 30, 2016

Sỉ nhục con gái Việt


Formosa Hà Tĩnh: cách nào cũng thưa kiện được...


Các nội dung tiếp theo đây được trích trong một tham vấn:
Vấn đề Formosa Hà Tĩnh dưới góc nhìn Luật Tài nguyên và Môi trường, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước, Luật Đầu tư, Luật Tổ chức chính phủ, và Luật cán bộ, công chức.
Các nội dung vấn đề được tham vấn liên quan hoạt động của Formosa Hà Tĩnh, được căn cứ dữ liệu từ cơ quan báo chí hoạt động theo giấy phép của Bộ Thông tin Truyền thông.
A. Các yêu cầu đặt ra cho tham vấn:
1. Vì sao phải sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường?
2. Việc sửa đổi có dễ dàng hay không?
3. Từ 2 vấn đề của (1) và (2), soạn thảo một bản văn gửi các đại biểu quốc hội đại diện khu vực các tỉnh miền Trung đang gánh chịu trực tiếp những việc xả thải của Formosa Hà Tĩnh.
B. Xem xét từ Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, tại Điều 8. Những hành vi bị nghiêm cấm, ghi:
“1. Khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo trái quy định của pháp luật.
2. Vi phạm quy hoạch, kế hoạch sử dụng biển, quy hoạch tổng thể khai thác, sử dụng bền vững tài nguyên vùng bờ đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt và công bố.
3. Lợi dụng việc điều tra cơ bản, nghiên cứu khoa học, khai thác, sử dụng tài nguyên biển và hải đảo làm ảnh hưởng đến quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác.
4. Thực hiện các hoạt động trong hành lang bảo vệ bờ biển quy định tại Điều 24 và trên quần đảo, đảo, bãi cạn lúc chìm lúc nổi, bãi ngầm phải bảo vệ, bảo tồn quy định tại khoản 2 và khoản 4 Điều 41 của Luật này.
5. Hủy hoại, làm suy thoái môi trường, hệ sinh thái biển, hải đảo.
6. Nhận chìm vật, chất ở vùng biển Việt Nam mà không có giấy phép, trái quy định của pháp luật.
7. Cung cấp, khai thác, sử dụng thông tin, dữ liệu tài nguyên, môi trường biển và hải đảo không đúng quy định của pháp luật. 8. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định về quản lý tổng hợp tài nguyên và bảo vệ môi trường biển và hải đảo”.
Từ vụ việc Formosa cho thấy đây không phải là hành vi gây ra “lỗi” để có thể “xin lỗi”, mà là hành vi bị “nghiêm cấm”, nếu gây ra – bất kể là vô ý hay cố tình, đều phải bị xét xử theo các luật liên quan.
Ở đây, có ít nhất là 3 luật có thể căn cứ: Bộ luật hình sự, Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015.
Theo Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015, thì người đứng đầu chính phủ sẽ chịu toàn bộ trách nhiệm về việc tài nguyên và môi trường biển bị xâm hại (Điều 73). Như vậy bị can sẽ hầu tòa ở đây có thể là thủ tướng chính phủ đương nhiệm.
Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 - Chương VI “Kiểm soát ô nhiễm, ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc và nhận chìm ở biển”, việc đền bù các thiệt hại của Formosa phải được căn cứ theo các quy định và trình tự pháp luật. Con số 500 triệu USD như thông báo chỉ là một thỏa thuận song phương giữa chính phủ Việt Nam và nhà đầu tư Đài Loan.
C. Xem xét từ Luật Bảo vệ môi trường
1/ Formosa Hà Tĩnh có dấu hiệu vi phạm 5/16 hành vi bị nghiêm cấm.
“Điều 7. Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Phá hoại, khai thác trái phép nguồn tài nguyên thiên nhiên.
2. Khai thác nguồn tài nguyên sinh vật bằng phương tiện, công cụ, phương pháp hủy diệt, không đúng thời vụ và sản lượng theo quy định của pháp luật.
3. Khai thác, kinh doanh, tiêu thụ các loài thực vật, động vật hoang dã thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định.
4. Vận chuyển, chôn lấp chất độc, chất phóng xạ, chất thải và chất nguy hại khác không đúng quy trình kỹ thuật về bảo vệ môi trường.
5. Thải chất thải chưa được xử lý đạt quy chuẩn kỹ thuật môi trường; các chất độc, chất phóng xạ và chất nguy hại khác vào đất, nguồn nước và không khí.
6. Đưa vào nguồn nước hóa chất độc hại, chất thải, vi sinh vật chưa được kiểm định và tác nhân độc hại khác đối với con người và sinh vật.
7. Thải khói, bụi, khí có chất hoặc mùi độc hại vào không khí; phát tán bức xạ, phóng xạ, các chất ion hóa vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
8. Gây tiếng ồn, độ rung vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
9. Nhập khẩu, quá cảnh chất thải từ nước ngoài dưới mọi hình thức.
10. Nhập khẩu, quá cảnh động vật, thực vật chưa qua kiểm dịch; vi sinh vật ngoài danh mục cho phép.
11. Sản xuất, kinh doanh sản phẩm gây nguy hại cho con người, sinh vật và hệ sinh thái; sản xuất, sử dụng nguyên liệu, vật liệu xây dựng chứa yếu tố độc hại vượt quá quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
12. Phá hoại, xâm chiếm trái phép di sản thiên nhiên, khu bảo tồn thiên nhiên.
13. Xâm hại công trình, thiết bị, phương tiện phục vụ hoạt động bảo vệ môi trường.
14. Hoạt động trái phép, sinh sống ở khu vực được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xác định là khu vực cấm do mức độ đặc biệt nguy hiểm về môi trường đối với con người.
15. Che giấu hành vi hủy hoại môi trường, cản trở hoạt động bảo vệ môi trường, làm sai lệch thông tin dẫn đến gây hậu quả xấu đối với môi trường.
16. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, vượt quá quyền hạn hoặc thiếu trách nhiệm của người có thẩm quyền để làm trái quy định về quản lý môi trường”.
2/ Formosa Hà Tĩnh đã vi phạm vào Điều 27.1.
“Điều 27. Trách nhiệm của chủ đầu tư trước khi đưa dự án vào vận hành
1. Tổ chức thực hiện biện pháp bảo vệ môi trường theo quyết định phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường.
2. Phải báo cáo cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường kết quả thực hiện các công trình bảo vệ môi trường phục vụ vận hành dự án đối với dự án lớn, có nguy cơ tác động xấu đến môi trường do Chính phủ quy định. Những dự án này chỉ được vận hành sau khi cơ quan phê duyệt báo cáo đánh giá tác động môi trường kiểm tra, xác nhận hoàn thành công trình bảo vệ môi trường”.
3/ Formosa Hà Tĩnh vi phạm/ không tuân thủ các nội dung liên quan được quy định ở Chương XIX “Bồi thường thiệt hại về môi trường”, từ điều 163 đến điều 166.
“Điều 163. Thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
Thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường gồm:
1. Suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường;
2. Thiệt hại về tính mạng, sức khỏe của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do hậu quả của việc suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gây ra.
Điều 164. Nguyên tắc xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường
1. Ô nhiễm môi trường và hậu quả do ô nhiễm môi trường phải được cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền nghiên cứu, điều tra và kết luận kịp thời.
2. Hành vi gây ô nhiễm, suy thoái môi trường của tổ chức, cá nhân phải được phát hiện và xử lý kịp thời theo quy định của pháp luật.
3. Nguyên tắc xác định trách nhiệm cá nhân được quy định như sau:
a) Người đứng đầu trực tiếp của tổ chức phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có liên quan đến hoạt động của tổ chức mình;
b) Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra;
c) Trường hợp cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường do thực hiện nhiệm vụ được tổ chức giao thì tổ chức phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật.
Điều 165. Xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
1. Sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường gồm các mức độ sau:
a) Có suy giảm;
b) Suy giảm nghiêm trọng;
c) Suy giảm đặc biệt nghiêm trọng.
2. Việc xác định phạm vi, giới hạn môi trường bị suy giảm chức năng, tính hữu ích gồm:
a) Xác định giới hạn, diện tích của khu vực, vùng lõi bị suy giảm nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng;
b) Xác định giới hạn, diện tích vùng đệm trực tiếp bị suy giảm;
c) Xác định giới hạn, diện tích các vùng khác bị ảnh hưởng từ vùng lõi và vùng đệm.
3. Việc xác định các thành phần môi trường bị suy giảm gồm:
a) Xác định số lượng thành phần môi trường bị suy giảm, loại hình hệ sinh thái, giống loài bị thiệt hại;
b) Mức độ thiệt hại của từng thành phần môi trường, hệ sinh thái, giống loài.
4. Việc tính chi phí thiệt hại về môi trường được quy định như sau:
a) Chi phí thiệt hại trước mắt và lâu dài do sự suy giảm chức năng, tính hữu ích của các thành phần môi trường;
b) Chi phí xử lý, cải tạo, phục hồi môi trường;
c) Chi phí giảm thiểu hoặc triệt tiêu nguồn gây thiệt hại;
d) Thăm dò ý kiến các đối tượng liên quan;
đ) Tùy điều kiện cụ thể có thể áp dụng một trong những biện pháp quy định tại các điểm a, b, c và d khoản này để tính chi phí thiệt hại về môi trường, làm căn cứ để bồi thường và giải quyết bồi thường thiệt hại về môi trường.
5. Việc xác định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường được tiến hành độc lập hoặc có sự phối hợp giữa bên gây thiệt hại và bên bị thiệt hại.
Trường hợp mỗi bên hoặc các bên có yêu cầu thì cơ quan chuyên môn về bảo vệ môi trường có trách nhiệm tham gia hướng dẫn cách tính xác định thiệt hại hoặc chứng kiến việc xác định thiệt hại.
6. Việc xác định thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của con người, tài sản và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân do gây ô nhiễm, suy thoái môi trường được thực hiện theo quy định của pháp luật.
7. Chính phủ quy định chi tiết Điều này (*1).
Điều 166. Giám định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường
1. Giám định thiệt hại do suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường được thực hiện theo yêu cầu của tổ chức, cá nhân bị thiệt hại hoặc cơ quan giải quyết việc bồi thường thiệt hại về môi trường.
2. Căn cứ giám định thiệt hại gồm hồ sơ đòi bồi thường thiệt hại, thông tin, số liệu, chứng cứ và căn cứ khác liên quan đến bồi thường thiệt hại và đối tượng gây thiệt hại.
3. Việc lựa chọn tổ chức giám định thiệt hại phải được sự đồng thuận của bên đòi bồi thường và bên phải bồi thường; trường hợp các bên không thống nhất thì việc chọn tổ chức giám định thiệt hại do cơ quan được giao trách nhiệm giải quyết việc bồi thường thiệt hại quyết định”.
D. Xem xét từ Luật Tài nguyên nước
“Điều 6. Lấy ý kiến của cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước
1. Tổ chức, cá nhân đầu tư dự án trong đó có xây dựng công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước hoặc có hoạt động xả nước thải vào nguồn nước có ảnh hưởng lớn đến sản xuất, đời sống của nhân dân trên địa bàn có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương tiến hành các hoạt động sau đây:
a) Lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư và tổ chức, cá nhân liên quan trên địa bàn bị ảnh hưởng về những nội dung liên quan đến phương án khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước của dự án; tổng hợp, tiếp thu, giải trình và gửi kèm theo hồ sơ của dự án khi trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định việc đầu tư;
b) Công khai thông tin về những nội dung liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước của dự án và những ảnh hưởng có thể gây ra trước khi triển khai thực hiện;
c) Kinh phí thực hiện hoạt động quy định tại khoản này do tổ chức, cá nhân đầu tư dự án chi trả.
2. Trường hợp dự án đầu tư có chuyển nước thì ngoài việc thực hiện các quy định tại khoản 1 Điều này, tổ chức, cá nhân đầu tư dự án còn phải lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân, tổ chức lưu vực sông về quy mô, phương án chuyển nước trước khi lập dự án đầu tư. Việc lấy ý kiến được quy định như sau:
a) Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp xã), Ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp huyện) có liên quan đối với dự án có chuyển nước trong phạm vi lưu vực sông nội tỉnh;
b) Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh) có liên quan và tổ chức lưu vực sông đối với dự án có chuyển nước không thuộc trường hợp quy định tại điểm a khoản này.
3. Trường hợp dự án đầu tư xây dựng hồ, đập trên sông thuộc lưu vực sông liên tỉnh mà không có chuyển nước thì ngoài việc thực hiện các quy định tại khoản 1 Điều này, trước khi lập dự án đầu tư, tổ chức, cá nhân đầu tư dự án còn có trách nhiệm sau đây:
a) Lấy ý kiến của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan và tổ chức lưu vực sông về quy mô, phương án đề xuất xây dựng công trình trên dòng chính;
b) Thông báo trước với Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có liên quan và tổ chức lưu vực sông về quy mô, phương án đề xuất xây dựng công trình trên dòng nhánh.
4. Chính phủ quy định cụ thể việc lấy ý kiến và việc công khai thông tin quy định tại Điều này”.
Điều 6 này được hướng dẫn bởi Điều 2 Nghị định 201/2013/NĐ-CP:
Nghị định 201/2013/NĐ-CP hướng dẫn Luật tài nguyên nước
...
Điều 2. Lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước
Việc lấy ý kiến đại diện cộng đồng dân cư, tổ chức, cá nhân liên quan trong khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước có ảnh hưởng lớn đến sản xuất, đời sống của nhân dân trên địa bàn theo quy định tại Điều 6 của Luật tài nguyên nước được thực hiện như sau:
1. Các dự án có xây dựng công trình khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước phải lấy ý kiến bao gồm:
a) Công trình hồ, đập có tổng dung tích từ 500 triệu m3 trở lên; công trình khai thác, sử dụng nước mặt với lưu lượng từ 10 m3/giây trở lên;
b) Công trình chuyển nước giữa các nguồn nước;
c) Công trình hồ, đập làm gián đoạn dòng chảy tự nhiên của sông, suối trên một đoạn có chiều dài từ một (01) km trở lên;
d) Công trình xả nước thải vào nguồn nước có lưu lượng từ 10.000 m3/ngày đêm trở lên;
đ) Công trình khai thác, sử dụng nước dưới đất có lưu lượng từ 12.000 m3/ngày đêm trở lên;
e) Các trường hợp quy định tại Khoản này nếu có yếu tố bí mật quốc gia thì không phải thực hiện việc lấy ý kiến.
2. Thời điểm lấy ý kiến:
a) Trong quá trình lập dự án đầu tư đối với trường hợp quy định tại Điểm a, b, c và Điểm d Khoản 1 Điều này;
b) Trong quá trình thăm dò đối với công trình khai thác nước dưới đất quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều này.
3. Nội dung thông tin cung cấp để tổ chức lấy ý kiến bao gồm:
a) Thuyết minh và thiết kế cơ sở dự án đầu tư xây dựng công trình (báo cáo nghiên cứu khả thi) kèm theo tờ trình cơ quan có thẩm quyền thẩm định dự án;
b) Kế hoạch triển khai xây dựng công trình;
c) Tiến độ xây dựng công trình;
d) Các biện pháp bảo vệ tài nguyên nước, đảm bảo nước cho các đối tượng sử dụng ở thượng và hạ lưu công trình trong quá trình xây dựng, vận hành công trình, thời gian công trình không vận hành;
đ) Các thông tin quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Nghị định này;
e) Các số liệu, tài liệu khác liên quan đến việc khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải vào nguồn nước.
4. Cơ quan tổ chức lấy ý kiến:
a) Ủy ban nhân dân cấp huyện, nơi nguồn nước nội tỉnh chảy qua, tổ chức lấy ý kiến đối với công trình khai thác, sử dụng nguồn nước nội tỉnh, xả nước thải vào nguồn nước nội tỉnh quy định tại Điểm a, c và Điểm d Khoản 1 Điều này;
b) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi nguồn nước liên tỉnh chảy qua, tổ chức lấy ý kiến đối với công trình khai thác, sử dụng nguồn nước liên tỉnh, xả nước thải vào nguồn nước liên tỉnh quy định tại Điểm a, c và Điểm d Khoản 1 Điều này;
c) Ủy ban nhân dân cấp huyện, nơi có nguồn nước nội tỉnh bị chuyển nước, tổ chức lấy ý kiến đối với công trình chuyển nước từ nguồn nước nội tỉnh;
d) Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, nơi có nguồn nước liên tỉnh bị chuyển nước chảy qua, tổ chức lấy ý kiến đối với công trình chuyển nước từ nguồn nước liên tỉnh;
đ) Ủy ban nhân dân cấp huyện, nơi dự kiến bố trí công trình khai thác nước dưới đất, tổ chức lấy ý kiến đối với công trình khai thác, sử dụng nước dưới đất quy định tại Điểm đ Khoản 1 Điều này.
5. Trình tự lấy ý kiến:
a) Chủ dự án gửi các tài liệu, nội dung quy định tại Khoản 3 Điều này đến Ủy ban nhân dân cấp huyện và Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện, đối với trường hợp cơ quan tổ chức lấy ý kiến là Ủy ban nhân dân cấp huyện hoặc đến Ủy ban nhân dân cấp tỉnh và Sở Tài nguyên và Môi trường, đối với trường hợp cơ quan tổ chức lấy ý kiến là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh;
b) Trường hợp cơ quan tổ chức lấy ý kiến là Ủy ban nhân dân cấp huyện, trong thời hạn ba mươi (30) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị xin ý kiến của chủ dự án, Phòng Tài nguyên và Môi trường cấp huyện có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp huyện tổ chức các buổi làm việc, cuộc họp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để cho ý kiến về công trình dự kiến xây dựng hoặc đối thoại trực tiếp với chủ dự án; tổng hợp ý kiến trình Ủy ban nhân dân cấp huyện gửi cho chủ dự án;
c) Trường hợp cơ quan tổ chức lấy ý kiến là Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, trong thời hạn bốn mươi (40) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị xin ý kiến của chủ dự án, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm giúp Ủy ban nhân dân cấp tỉnh tổ chức các buổi làm việc, cuộc họp hoặc đối thoại trực tiếp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để cho ý kiến về công trình dự kiến xây dựng; tổng hợp ý kiến trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh gửi cho chủ dự án;
d) Ngoài các nội dung thông tin quy định tại Khoản 3 Điều này, chủ dự án có trách nhiệm cung cấp bổ sung các số liệu, báo cáo, thông tin về dự án nếu các cơ quan quy định tại Khoản 4 Điều này có yêu cầu và trực tiếp báo cáo, thuyết minh, giải trình tại các cuộc họp lấy ý kiến để làm rõ các vấn đề liên quan đến dự án.
6. Chủ dự án có trách nhiệm tổng hợp, tiếp thu, giải trình các ý kiến góp ý. Văn bản góp ý và tổng hợp tiếp thu, giải trình là thành phần của hồ sơ dự án khi trình cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt và phải được gửi kèm theo hồ sơ đề nghị cấp giấy phép tài nguyên nước.
7. Việc lấy ý kiến hoặc thông báo trước khi lập dự án đối với các dự án đầu tư quy định tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 6 của Luật tài nguyên nước được thực hiện như sau:
a) Đối với dự án có chuyển nước từ nguồn nước nội tỉnh:
- Chủ dự án gửi văn bản lấy ý kiến kèm theo quy mô, phương án chuyển nước và các thông tin, số liệu, tài liệu liên quan tới Ủy ban nhân dân cấp xã, Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi nguồn nước nội tỉnh bị chuyển nước và Sở Tài nguyên và Môi trường;
- Trong thời hạn bốn mươi (40) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị xin ý kiến của chủ dự án, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm hướng dẫn, hỗ trợ Ủy ban nhân dân cấp huyện, Ủy ban nhân dân cấp xã tổ chức các buổi làm việc, cuộc họp với các cơ quan, tổ chức có liên quan cho ý kiến về quy mô, phương án chuyển nước đề xuất hoặc đối thoại trực tiếp với chủ dự án; tổng hợp ý kiến và gửi cho chủ dự án.
b) Đối với dự án có chuyển nước từ nguồn nước liên tỉnh, dự án đầu tư xây dựng hồ, đập trên dòng chính thuộc lưu vực sông liên tỉnh:
- Chủ dự án gửi văn bản lấy ý kiến kèm theo quy mô, phương án chuyển nước, phương án xây dựng công trình và các thông tin, số liệu, tài liệu liên quan tới Ủy ban nhân dân các tỉnh nơi nguồn nước liên tỉnh bị chuyển nước hoặc Ủy ban nhân dân các tỉnh nơi dòng chính chảy qua, tổ chức lưu vực sông và các Sở Tài nguyên và Môi trường liên quan;
- Trong thời hạn bảy (07) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị xin ý kiến của chủ dự án, Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm gửi các tài liệu đến các sở, ban, ngành liên quan thuộc tỉnh;
- Trong thời hạn sáu mươi (60) ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị xin ý kiến của chủ dự án:
+ Tổ chức lưu vực sông có trách nhiệm trả lời bằng văn bản cho chủ dự án;
+ Sở Tài nguyên và Môi trường có trách nhiệm tổ chức các buổi làm việc, cuộc họp với các sở, ban, ngành liên quan thuộc tỉnh và các tổ chức, cá nhân liên quan cho ý kiến về công trình dự kiến xây dựng hoặc đối thoại trực tiếp với chủ dự án tổng hợp ý kiến và trình Ủy ban nhân dân tỉnh để gửi chủ dự án.
c) Đối với dự án đầu tư xây dựng hồ, đập trên dòng nhánh thuộc lưu vực sông liên tỉnh:
Trước khi triển khai lập dự án đầu tư, chủ dự án phải thông báo về quy mô, phương án đề xuất xây dựng công trình cho tổ chức lưu vực sông, Ủy ban nhân dân các tỉnh thuộc lưu vực sông.
d) Trên cơ sở các ý kiến góp ý, chủ dự án hoàn chỉnh phương án xây dựng công trình gửi cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép tài nguyên nước xem xét, chấp thuận về quy mô, phương án xây dựng công trình trước khi lập dự án đầu tư.
8. Kinh phí tổ chức lấy ý kiến do chủ dự án chi trả”.
Như vậy, nếu Formosa Hà Tĩnh thuộc phạm vi điều chỉnh của Điều 2.1.e Nghị định 201/2013/NĐ-CP, thì Formosa Hà Tĩnh không vi phạm pháp luật.
E. Xem xét từ Luật Đầu tư
“Điều 47. Tạm ngừng, ngừng hoạt động của dự án đầu tư
1. Nhà đầu tư tạm ngừng hoạt động của dự án đầu tư phải thông báo bằng văn bản cho cơ quan đăng ký đầu tư. Trường hợp tạm ngừng hoạt động của dự án đầu tư do bất khả kháng thì nhà đầu tư được miễn tiền thuê đất trong thời gian tạm ngừng hoạt động để khắc phục hậu quả do bất khả kháng gây ra.
2. Cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư quyết định ngừng hoặc ngừng một phần hoạt động của dự án đầu tư trong các trường hợp sau đây:
a) Để bảo vệ di tích, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia theo quy định của Luật di sản văn hóa;
b) Để khắc phục vi phạm môi trường theo đề nghị của cơ quan nhà nước quản lý về môi trường;
c) Để thực hiện các biện pháp bảo đảm an toàn lao động theo đề nghị của cơ quan nhà nước quản lý về lao động;
d) Theo quyết định, bản án của Tòa án, Trọng tài;
đ) Nhà đầu tư không thực hiện đúng nội dung Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và đã bị xử lý vi phạm hành chính nhưng tiếp tục vi phạm.
3. Thủ tướng Chính phủ quyết định ngừng một phần hoặc toàn bộ hoạt động của dự án đầu tư trong trường hợp việc thực hiện dự án có nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia theo đề nghị của Bộ Kế hoạch và Đầu tư”.
F. Xem xét từ Luật Tổ chức Chính phủ
“Điều 9. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ trong quản lý tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu
1. Thống nhất quản lý nhà nước về tài nguyên, môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; tổ chức quy hoạch, kế hoạch và xây dựng chính sách bảo vệ, cải thiện và nâng cao chất lượng môi trường; chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu.
2. Quản lý, sử dụng có hiệu quả tài nguyên gắn với bảo vệ môi trường; bảo tồn thiên nhiên, đa dạng sinh học; phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch, tiêu dùng sạch; phát triển các dịch vụ môi trường và xử lý chất thải.
3. Thống nhất quản lý, nâng cao chất lượng hoạt động nghiên cứu, dự báo khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu và đánh giá tác động môi trường để chủ động triển khai có hiệu quả các giải pháp phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu.
4. Quyết định chính sách cụ thể về bảo vệ, cải thiện và giữ gìn môi trường; chỉ đạo tập trung giải quyết tình trạng suy thoái môi trường ở các khu vực trọng điểm; kiểm soát ô nhiễm, ứng cứu và khắc phục sự cố môi trường.
5. Thi hành chính sách về bảo vệ, cải tạo, tái sinh và sử dụng hợp lý các nguồn tài nguyên thiên nhiên”.
Toàn bộ các điều thuộc “Chương IV. Nhiệm vụ và quyền hạn của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ”, “Chương V. Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc chính phủ”.
G. Xem xét từ Luật Cán bộ, công chức
“Điều 9. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức trong thi hành công vụ
1. Thực hiện đúng, đầy đủ và chịu trách nhiệm về kết quả thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn được giao.
2. Có ý thức tổ chức kỷ luật; nghiêm chỉnh chấp hành nội quy, quy chế của cơ quan, tổ chức, đơn vị; báo cáo người có thẩm quyền khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; bảo vệ bí mật nhà nước.
3. Chủ động và phối hợp chặt chẽ trong thi hành công vụ; giữ gìn đoàn kết trong cơ quan, tổ chức, đơn vị.
4. Bảo vệ, quản lý và sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài sản nhà nước được giao.
5. Chấp hành quyết định của cấp trên. Khi có căn cứ cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì phải kịp thời báo cáo bằng văn bản với người ra quyết định; trường hợp người ra quyết định vẫn quyết định việc thi hành thì phải có văn bản và người thi hành phải chấp hành nhưng không chịu trách nhiệm về hậu quả của việc thi hành, đồng thời báo cáo cấp trên trực tiếp của người ra quyết định. Người ra quyết định phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về quyết định của mình.
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.
“Điều 10. Nghĩa vụ của cán bộ, công chức là người đứng đầu
Ngoài việc thực hiện quy định tại Điều 8 và Điều 9 của Luật này, cán bộ, công chức là người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị còn phải thực hiện các nghĩa vụ sau đây:
1. Chỉ đạo tổ chức thực hiện nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị;
2. Kiểm tra, đôn đốc, hướng dẫn việc thi hành công vụ của cán bộ, công chức;
3. Tổ chức thực hiện các biện pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và chịu trách nhiệm về việc để xảy ra quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong cơ quan, tổ chức, đơn vị;
4. Tổ chức thực hiện các quy định của pháp luật về dân chủ cơ sở, văn hóa công sở trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; xử lý kịp thời, nghiêm minh cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý có hành vi vi phạm kỷ luật, pháp luật, có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, gây phiền hà cho công dân;
5. Giải quyết kịp thời, đúng pháp luật, theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết khiếu nại, tố cáo và kiến nghị của cá nhân, tổ chức;
6. Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật”.
H. Các chế tài từ vụ việc Formosa Hà Tĩnh
1. Từ các góc nhìn được điều chỉnh bằng Luật Tài nguyên và Môi trường, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Tài nguyên nước, Luật Đầu tư, Luật Tổ chức chính phủ, và Luật cán bộ, công chức, đã cho thấy về căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự của các pháp nhân, cá nhân liên quan.
2. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014, “Điều 164. Nguyên tắc xử lý trách nhiệm đối với tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm môi trường”, cho biết nguyên tắc xác định trách nhiệm cá nhân được quy định như sau: a) Người đứng đầu trực tiếp của tổ chức phải chịu trách nhiệm đối với hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường có liên quan đến hoạt động của tổ chức mình; b) Tổ chức, cá nhân gây ô nhiễm, suy thoái môi trường có trách nhiệm khắc phục hậu quả và bồi thường thiệt hại do hành vi của mình gây ra.
Như vậy, mặc dù Bộ luật hình sự năm 2015 bị đình hoãn thực hiện, lẽ đó nên khó cáo buộc pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự về “Tội gây ô nhiễm môi trường” quy định tại Điều 235, song vẫn đủ điều kiện để chế tài các hành vi vi phạm pháp luật của Formosa.
Cũng theo Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 - Chương XIX “Bồi thường thiệt hại về môi trường”, và Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015 - Chương VI “Kiểm soát ô nhiễm, ứng phó sự cố tràn dầu, hóa chất độc và nhận chìm ở biển”, việc đền bù các thiệt hại của Formosa phải được căn cứ theo các quy định và trình tự pháp luật. Con số 500 triệu USD như thông báo chỉ là một thỏa thuận song phương giữa chính phủ Việt Nam và nhà đầu tư Đài Loan.
3. Khi đàm phán với Chính phủ VN, có thể Formosa sẽ yêu cầu Chính phủ VN chịu trách nhiệm đảm bảo cho họ không bị những cá nhân chịu thiệt hại khởi kiện dân sự. Tuy nhiên, theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, Chính phủ VN không có quyền tổng quát thay mặt các cá nhân bị thiệt hại nói chung, mà phải được sự ủy quyền của riêng từng người. Do đó, dù trong thỏa thuận có điều khoản buộc Chính phủ VN bảo đảm như vậy, nó cũng không giúp được gì cho Formosa khi có tranh chấp về thẩm quyền tại một tòa án ở Đài Loan.
Ngay cả khi thỏa thuận bồi thường buộc Chính phủ VN bảo đảm cho Formosa không bị các cá nhân khởi kiện chăng nữa, họ vẫn có thể kiện Formosa tại một tòa án có thẩm quyền của Đài Loan, nếu thấy mình không được bồi thường thỏa đáng.
4. Người dân các tỉnh miền Trung vẫn có thể nhận tiền bồi thường mà vẫn có quyền yêu cầu Formosa trả lại môi trường biển trong sạch. Vì trước hết, Formosa có cả hai nghĩa vụ: bồi thường thiệt hại cho ngư dân, và đưa môi trường biển trở lại như khi chưa bị ô nhiễm. Sau nữa, mỗi người dân đều có quyền nhận bồi thường theo từng phần, từng giai đoạn cho đến khi được bồi thường đầy đủ.
Muốn vậy thì khi ký nhận bồi thường, họ phải được sự tư vấn của luật sư giỏi về nội dung ký nhận; và phải được một cơ quan có thẩm quyền xác nhận tổng giá trị thiệt hại theo đúng yêu cầu của họ. Khi cần thiết, họ phải yêu cầu tòa án công nhận giá trị thiệt hại này.
5. Dù Chính phủ VN đã chấp nhận khoản tiền bồi thường, các pháp nhân, tổ chức, cá nhân khác vẫn hoàn toàn có quyền tiếp tục khởi kiện buộc Formosa phải bồi thường. Đó có thể là các hiệp hội, doanh nghiệp và các cá nhân chịu thiệt hại.
Người dân hoặc các tổ chức phi chính phủ có thể khởi kiện dân sự yêu cầu bồi thường thiệt hại tại các tòa án có thẩm quyền của Việt Nam hoặc của Đài Loan. Đối tượng bị kiện có thể là Formosa Việt Nam, hoặc Formosa Đài Loan (công ty mẹ của Formosa Việt Nam), hoặc cả hai. Khi khởi kiện ở Việt Nam, người dân sẽ vấp phải hàng loạt khó khăn, quá trình chứng minh thiệt hại thực tế cũng có thể kéo dài vô tận với đơn vị tính là năm, chứ không còn là ngày, tháng...
Tuy nhiên, rủi ro lớn nhất là người dân sẽ không còn có thể khởi kiện Formosa tại Đài Loan được nữa, khi một tòa án Việt Nam đã thụ lý và xét xử tranh chấp. Mặc dù vậy, nếu khéo léo, người bị thiệt hại Việt Nam vẫn có thể sử dụng được khả năng khởi kiện dân sự cả ở Việt Nam lẫn Đài Loan.
Khởi kiện dân sự đòi bồi thường thiệt hại đối với kẻ phá hoại môi trường là một pháp nhân đa quốc gia, luôn luôn là một cuộc chiến rất phức tạp. Vì vậy, người dân không nên tự mình làm, mà phải được đại diện bởi các luật sư giỏi trong lĩnh vực này.
6. Căn cứ theo Luật Tổ chức chính phủ, và Luật cán bộ, công chức, ông Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư cần có đề nghị Thủ tướng ngừng một phần, hoặc toàn bộ. Thủ tướng chính phủ sẽ quyết định ngừng một phần, hoặc toàn bộ hoạt động của dự án đầu tư, trong trường hợp việc thực hiện dự án có nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh quốc gia. (Điều 47.3, Luật Đầu tư năm 2014)
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng có thể yêu cầu Thủ tướng rút giấy phép đầu tư của Hưng Thịnh Formosa với lý do “khắc phục vi phạm môi trường”, quy định tại Điều 47.2.b, Luật Đầu tư 2014.
7. Có thể tịch thu tài sản của Formosa Hà Tĩnh dựa trên quyền truất hữu (expropriation). Expropriation được hiểu là việc nhà nước tước quyền sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) dưới các hình thức khác nhau như trực tiếp tịch thu tài sản - “truất hữu trực tiếp” hoặc thông qua các quy định pháp luật hoặc các biện pháp hành chính (ví dụ như phạt tiền, tăng thuế, buộc tái đầu tư...) gián tiếp làm NĐTNN bị mất một phần hoặc toàn bộ tài sản và/hoặc lợi ích kinh tế của dự án đầu tư - “truất hữu gián tiếp”.
Về lý thuyết, nguyên tắc chủ quyền quốc gia cho phép nhà nước được toàn quyền quản lý và định đoạt các tài sản, tài nguyên trên lãnh thổ của mình và không bị ai xét xử. Trên thực tế, để thu hút vốn đầu nước ngoài, các nước thường phải ký kết các điều ước quốc tế về bảo hộ đầu tư trong đó cam kết không tiến hành quốc hữu hóa, truất hữu tài sản của NĐTNN và sẽ phải bồi thường nếu biện pháp truất hữu bị coi là bất hợp pháp theo quy định của luật quốc tế, cũng như chấp nhận từ bỏ quyền miễn trừ tư pháp. Khả năng Formosa và Chính phủ VN đã ký cam kết này.
Nói cách khác, bất kỳ biện pháp hành chính hay pháp lý nào của Nhà nước Việt Nam cho dù là phù hợp với quy định của luật quốc gia, nhưng không phù hợp với các điều kiện do BIT (Hiệp định đầu tư song phương, Bilateral Investment Treaty) quy định vẫn sẽ có thể bị NĐTNN (ở đây là Formosa) thực hiện theo thủ tục pháp lý quốc tế.
Tuy nhiên biện pháp truất hữu (cho dù là gián tiếp hay trực tiếp) sẽ được coi là hợp pháp khi đảm bảo được bốn yếu tố sau: (a) nhằm phục vụ lợi ích công cộng; (b) được thực hiện một cách không phân biệt đối xử; (c) được thực hiện theo thủ tục luật định; (d) có thực hiện bồi thường cho đối tượng bị truất hữu tài sản.
Những yếu tố này sẽ quyết định trách nhiệm bồi thường của nhà nước trong các vụ tranh chấp đầu tư quốc tế. Ở đây, ngoài việc chứng minh mục đích của quy định pháp luật hoặc biện pháp hành chính của cơ quan nhà nước là hướng tới lợi ích công cộng, tức là bảo vệ môi trường (có những bằng chứng khoa học chính xác và đầy đủ), vấn đề bảo đảm không phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư và quy trình thủ tục áp dụng theo luật định là hai điều kiện mang tính định lượng phải được bảo đảm.
Với yếu tố cuối cùng, mặc dù, về nguyên tắc nhà nước được mong chờ sẽ phải thực hiện bồi thường đối với truất hữu, luật quốc tế cũng chấp nhận nhà nước không phải chịu trách nhiệm cho những thiệt hại kinh tế là hậu quả của “quy định ngay tình” thuộc thẩm quyền giám sát đặc biệt của nhà nước (như bảo vệ môi trường, sức khỏe con người, các tài nguyên có thể bị cạn kiệt...). Vấn đề này được cổ súy trong luật quốc tế về bảo vệ môi trường.
Luật môi trường quốc tế trong hơn hai thập niên trở lại đây đã hình thành nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả hết” - tức là ai gây ra ô nhiễm môi trường có trách nhiệm bồi thường thiệt hại và chịu toàn bộ các chi phí để bảo vệ và khôi phục môi trường.
8. Đối với thiệt hại về suy giảm chức năng, tính hữu ích của môi trường, Điều 181 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 quy định không được hòa giải trong trường hợp yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước. Theo tinh thần của quy định này thì cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng không được thỏa thuận về mức bồi thường với Công ty Hưng Thịnh Formosa mà phải khởi kiện tại tòa án. 
Từ ngày 01-07-2016, Bộ Luật tố tụng dân sự 2015 có hiệu lực. Điều 181 được thay thế bằng “Điều 206. Những vụ án dân sự không được hòa giải.
1. Yêu cầu đòi bồi thường vì lý do gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước.
2. Những vụ án phát sinh từ giao dịch dân sự vi phạm điều cấm của luật hoặc trái đạo đức xã hội”.
K. Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường
1. Ý kiến chủ quan: Các điều luật để chế tài trong vụ việc Formosa Hà Tĩnh đã đủ. Tuy nhiên không rõ vì sao các cơ quan tố tụng không thực hiện.
2. Khi có đề xuất thực hiện việc sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường, khả năng sẽ tiến hành nhanh, vì trước đây việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992 cũng từng diễn ra khá nhanh.
Nghị quyết số 51/2001/QH10, “Về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của hiến pháp nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992”, ký ban hành ngày 25 tháng 12 năm 2001.
Ngày 29 tháng 6 năm 2001, chủ tịch Quốc hội ký ban hành Nghị quyết số 43/2001/NQ-QH10, về việc “Thành lập Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992”.
Nghị quyết được ban hành trên căn cứ: Nghị quyết số 42/2000/QH10 của Quốc hội khoá X, kỳ họp thứ 8 về Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2001, ký ngày 9 tháng 12 năm 2000; Tờ trình số 310/UBTVQH10 ngày 18 tháng 5 năm 2001 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về những vấn đề cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, Tờ trình số 311/UBTVQH10 ngày 18 tháng 5 năm 2001 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội về dự kiến danh sách Uỷ ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992 và ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội.
Như vậy thời gian thủ tục hành chính mất đúng 6 tháng, bao gồm cả thời gian dài nghỉ Tết và các ngày lễ.
L. Soạn thảo bản văn gửi đại biểu quốc hội liên quan từ hệ lụy Formosa Hà Tĩnh
Đề xuất: từ những góc nhìn nói trên, cho thấy tại kỳ họp quốc hội sắp diễn ra, các đại biểu chỉ cần yêu cầu Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc thực hiện đúng những quy định của pháp luật liên quan về vấn đề đã nêu tại Điều 9 Luật Tổ chức Chính phủ; trong đó sẽ bao gồm cả dự án Formosa, thép Cà Ná, các nhà máy nhiệt điện, dự án Bô xít… Và có thể là cả chế tài Thủ tướng tại Điều 73 của Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo năm 2015.

(*1) Nghị định số 03/2015/NĐ-CP, ngày 06 tháng 01 năm 2015, quy định về trách nhiệm yêu cầu bồi thường thiệt hại và xác định thiệt hại đối với môi trường bao gồm: Thu thập dữ liệu, chứng cứ để xác định thiệt hại đối với môi trường, tính toán thiệt hại đối với môi trường và xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại đối với môi trường do ô nhiễm, suy thoái gây ra.